Kế thừa và phát triển các
giá trị pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tổng kết hơn 35 năm đổi mới toàn
diện đất nước và đề ra phương hướng cho giai đoạn tới, Đại hội XIII của Đảng
nhấn mạnh: “Xác định rõ hơn vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên
cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất có sự
phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà
nước”. Theo đó, cần phải tạo ra sự chuyển biến tích cực trên một số mặt sau
đây:
Thứ nhất, nhận thức một cách
đầy đủ và sâu sắc về bản chất và vai trò của Hiến pháp như Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quan niệm trong xây dựng Hiến pháp năm 1946.
Trong mô hình chủ nghĩa xã
hội hiện thực xô-viết với nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp, Hiến
pháp cũng như pháp luật được quan niệm là của Nhà nước, do Nhà nước đặt ra,
trước hết và chủ yếu là để quản lý xã hội, mà không phải là phương tiện trước
hết và chủ yếu để tổ chức quyền lực nhà nước, quản lý bản thân Nhà nước và để
giới hạn quyền lực nhà nước. Tuy đã có sự đổi mới một cách căn bản trong Hiến
pháp năm 2013, nhưng những tư duy pháp lý này vẫn còn tồn tại trong thực tiễn
lập pháp và thi hành pháp luật. Theo đó, Hiến pháp cũng như pháp luật hiện hành
chưa thật sự được xem trước hết và chủ yếu là để tổ chức và quản lý bản thân
Nhà nước, bảo đảm cho “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; không bị
tha hóa sau khi nhân dân giao quyền và ủy quyền, đồng thời để bảo đảm và tạo
điều kiện cho các quyền con người, quyền công dân được phát huy trong thực
tiễn.
Những nhận thức chưa đầy đủ
về Hiến pháp không những không phát huy được toàn vẹn vai trò của nó là phương
tiện để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền quyền lực nhà nước của mình,
thiết lập nên quyền lực nhà nước, mà còn thể hiện nhận thức chưa sâu sắc quyền
lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, nên nhân dân
chưa được xem là chủ thể thực sự của quyền lập hiến, chủ thể phân công quyền
lực nhà nước mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan niệm khi xây dựng Hiến pháp năm
1946. Vì thế, Hiến pháp chưa được coi là phương tiện để giới hạn quyền lực nhà
nước, để ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân. Chừng nào chưa có nhận thức một cách đầy đủ và sâu sắc quyền lực nhà nước
là của nhân dân, thì Nhà nước vẫn còn tìm cách làm lợi cho mình, mà trên thực
tế là lợi ích của con người, của công dân vẫn còn bị vi phạm. Vì thế, phải
thường xuyên nâng cao ý thức thượng tôn Hiến pháp như “thần linh pháp quyền”
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội.
Thứ hai, cần nhận thức một
cách đúng đắn việc phân công quyền lực.
Từ “tập quyền” sang “phân
công quyền lực nhà nước” là một bước tiến mới về chất trong tổ chức quyền lực
nhà nước theo nguyên tắc pháp quyền, được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng một
cách sáng tạo trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta theo Hiến pháp năm
1946 và được Đảng và Nhà nước ta kế thừa và phát triển thành một nguyên tắc mới
về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được ghi nhận
trong Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và
trong Hiến pháp năm 2013. Tuy nhiên, cho đến nay nhận thức về nguyên tắc này
chưa thật sự đầy đủ và sâu sắc, sức ỳ của nguyên tắc “tập quyền” và lợi ích cục
bộ còn cản trở việc tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “phân công quyền
lực nhà nước”, việc phân cấp, phân quyền chưa rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả của
hoạt động còn hạn chế.
Mặc dù, tổ chức quyền lực
nhà nước ở nước ta đã theo nguyên tắc mới nói trên, nhưng nhiều người vẫn còn
chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa trong mô hình nhà nước
kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, mà nội dung cốt lõi của nguyên tắc này là
“tất cả quyền lực nhà nước tập trung, thống nhất ở Quốc hội”. Theo đó, Quốc hội
là cơ quan có toàn quyền, tổ chức quyền lực nhà nước không coi trọng việc phân
công quyền lực giữa các quyền. Nếu có phân công thì cũng chỉ là sự phân công
mang tính nội bộ do Quốc hội phân công cho Chính phủ và cho tòa án, nhằm mục
đích thống nhất quyền lực nhà nước mà không phải phân công để đề cao trách
nhiệm, để kiểm soát quyền lực nhà nước. Vì thế, nguyên tắc tập quyền xã hội chủ
nghĩa không phù hợp với nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực
nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta theo tinh thần
Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp năm 2013. Thật ra, tính thống nhất của quyền
lực nhà nước là một thuộc tính cơ bản của bất kỳ một nhà nước nào, dù đó là nhà
nước tổ chức theo nguyên tắc tập quyền hay nguyên tắc phân quyền. Bởi, tập
quyền hay phân quyền là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và không phải nhằm
mục đích bảo đảm tính thống nhất của quyền lực nhà nước. Thực tiễn chỉ ra rằng,
dẫu phân quyền một cách cứng rắn như ở nước Mỹ, thì giữa quyền lập pháp và
quyền hành pháp chế ước và đối trọng nhau một cách quyết liệt, nhưng cuối cùng
giữa các nhánh quyền lực cũng phải tìm cách thỏa hiệp để đi đến thống nhất.
Quyền lực nhà nước không thống nhất thì xã hội rối loạn, Nhà nước sẽ sụp đổ,
điều mà giai cấp cầm quyền cũng như xã hội không mong muốn. Phân công quyền lực
nhà nước một cách hợp lý là cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước; bảo đảm
quyền con người, quyền công dân không bị xâm hại từ phía Nhà nước, do bị lợi
dụng và lạm dụng quyền lực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước.
Hiện nay, ở nước ta (và hầu
hết các nước dân chủ và pháp quyền) trên 90% dự án luật là do Chính phủ soạn
thảo trình Quốc hội xem xét thông qua. Mặc dù, Hiến pháp năm 2013 đã xác định,
Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp nhưng vẫn còn quy định Chính phủ
là cơ quan chấp hành của Quốc hội. Vì thế, nhiều người vẫn còn quan niệm Chính
phủ được Quốc hội giao nhiệm vụ giúp Quốc hội soạn thảo dự án luật mà không
phải xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của bản thân quyền hành pháp là đề xuất,
soạn thảo và đưa trình chính sách quốc gia của Nhà nước dưới dạng các dự án
luật để Quốc hội với tư cách là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, thay
mặt nhân dân kiểm tra tính phù hợp và tính khả thi của các chính sách. Đồng
thời, thông qua đó mà Quốc hội đánh giá trách nhiệm và năng lực của Chính phủ,
kiểm soát hoạt động của Chính phủ, đặc biệt là kiểm soát các định hướng, chính
sách của Chính phủ trong các dự án luật. Chính vì chưa nhận thức một cách sâu
sắc, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp, là nơi ra chính sách, mà
chỉ nhấn mạnh một chiều tính chấp hành Quốc hội có thể làm cho Chính phủ dựa
dẫm, ỷ lại Quốc hội, không coi trọng đúng mức một trong những quyền hạn và
nhiệm vụ hàng đầu là soạn thảo dự án luật, dẫn đến chất lượng các dự án luật
đưa trình Quốc hội không cao.
Đối với quyền tư pháp, mặc
dù tại Điều 102, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định, tòa án nhân dân thực hiện
quyền tư pháp. Nhưng trong mối quan hệ với quyền lập pháp vẫn còn có những nhận
thức không đầy đủ, vẫn còn chịu ảnh hưởng của nguyên tắc tập quyền nên tính
“trội” vẫn thuộc về quyền lập pháp, chỉ Quốc hội mới có quyền giám sát tối cao
đối với quyền tư pháp mà ngược lại, tòa án không có quyền xem xét tính hợp hiến
của các đạo luật của Quốc hội. Trong mối quan hệ với quyền hành pháp, tòa án
mới chỉ có quyền xem xét và tài phán đối với các quyết định hành chính và hành
vi hành chính mà chưa có quyền tài phán đối với các văn bản quy phạm pháp luật
do Chính phủ và các bộ ban hành. Vì vậy, cần sớm hình thành cơ chế tài phán
tính hợp hiến của các đạo luật và các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật.
Thứ ba, tiếp tục nâng cao
nhận thức và tổ chức thực tiễn việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã
quy định thành nguyên tắc “kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”, nhưng nhìn chung, những người thực thi quyền lực nhà nước
chưa có nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc. Theo Hiến pháp năm 2013, cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bao gồm: giám sát tối cao của Quốc hội
và giám sát của các cơ quan của Quốc hội đối với hoạt động của Nhà nước (Điều
70); kiểm tra, thanh tra trong bộ máy hành chính (Điều 96); thanh tra, kiểm tra
của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới (Điều 74, Điều 98 và Điều 112);
giám đốc thẩm trong hoạt động xét xử của tòa án (Điều 104) và xét xử các quyết
định hành chính và hành vi hành chính của các cấp tòa án; kiểm sát của viện
kiểm sát nhân dân đối với hoạt động tư pháp và giám sát, phản biện xã hội của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9). Tuy nhiên, do nhận thức chưa thực sự đầy đủ
nên các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước do Hiến pháp quy định nói trên
chưa phát huy đầy đủ, hiệu lực và hiệu quả. Ý thức thượng tôn Hiến pháp và pháp
luật trong đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức theo nguyên tắc pháp quyền
chưa như mong muốn. Một số người có chức, có quyền còn lo kiểm soát quyền lực
nhà nước ảnh hưởng đến tính thống nhất, nên kiểm soát quyền lực nhà nước nửa
vời, không làm quyết liệt, đến cùng. Ngược lại, kiểm soát quyền lực nhà nước
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa xuất phát từ quyền lực nhà nước là
của nhân dân, kiểm soát quyền lực nhà nước là để bảo đảm quyền lực nhà nước
không bị tha hóa, luôn luôn thuộc về nhân dân.
Theo đó, kiểm soát quyền lực
nhà nước trước hết là những phương thức, những quy trình, quy định mà dựa
vào đó, xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái với Hiến pháp
và pháp luật của các thiết chế, các cá nhân có thẩm quyền, bảo đảm cho quyền
lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Vì
thế, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải là một
tổng thể bao gồm cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ
thể không phải là Nhà nước thực hiện (Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của Mặt trận, các phương tiện thông tin đại chúng, doanh nghiệp, hiệp hội
doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề và cá nhân công dân); cơ chế kiểm soát quyền lực
nhà nước bên trong do các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
tự kiểm soát mình và kiểm soát lẫn nhau. Đồng thời, phải hình thành cơ chế kiểm
soát quyền lực nhà nước một cách chuyên trách, độc lập do luật định (theo khoản
2, Điều 19, Hiến pháp năm 2013). Có như vậy, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền
lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội,
vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính
mình thì mới giải quyết được vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy
đủ, trọn vẹn.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét