Phát triển kinh tế thị
trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta. Đó là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận, vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, tiếp thu có chọn lọc những quan điểm, kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển
KTTT của các nước trên thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Tuy nhiên, hiện nay nhiều
quan điểm khác biệt, thậm chí là trái ngược, xuyên tạc, gây cản trở đến quá
trình thực hiện mô hình kinh tế này ở Việt Nam. Do vậy, nhận diện, đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc về nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, các cơ quan,
đơn vị và cá nhân mỗi chúng ta.
Nguồn gốc và bản chất của
KTTT là kinh tế hàng hoá. Các phạm trù (giá trị, giá cả, hàng hoá, tiền
tệ), quy luật (giá trị, cạnh tranh, cung- cầu) của nền kinh tế hàng hoá là các
phạm trù, quy luật của KTTT. Các phạm trù, quy luật này có trước chủ nghĩa tư
bản, được chủ nghĩa tư bản sử dụng để phát triển KTTT tư bản chủ nghĩa. KTTT tư
bản chủ nghĩa thời kỳ đầu mới ra đời là KTTT tự do cạnh tranh, chưa có hoặc rất
ít sự can thiệp của nhà nước. Sự điều tiết của thị trường - “bàn tay vô hình”,
ngoài những mặt tích cực còn đưa đến nhiều hệ quả tiêu cực, đặc biệt là khủng
hoảng kinh tế chu kỳ, đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước - “bàn tay hữu
hình” để hạn chế, khắc phục những khuyết tật do điều tiết tự phát của cơ chế
thị trường. Ngày nay, nền KTTT hiện đại của các nước tư bản phát triển trên thế
giới đều là nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, vừa có điều tiết bởi “bàn tay
vô hình”, vừa có điều tiết bởi “bàn tay hữu hình”. KTTT có sự quản lý của nhà
nước ở các nước trên thế giới không hoàn toàn giống nhau mà có nhiều mô hình
khác nhau, tuỳ thuộc vào mức độ can thiệp và nội dung can thiệp của nhà nước.
KTTT là sản phẩm của văn
minh nhân loại, không phải là sản phẩm “riêng có” của chủ nghĩa tư bản. Chủ
nghĩa tư bản đã sử dụng KTTT làm cơ sở cho sự tồn tại, vận động, phát triển của
mình. Đến nay đã xuất hiện nhiều mô hình KTTT ở các nước tư bản phát triển,
như: KTTT tự do ở Mỹ, KTTT xã hội ở Đức, KTTT nhà nước phúc lợi ở Thuỵ Điển,
KTTT phối hợp ở Nhật Bản… Các mô hình KTTT này ở những mức độ khác nhau, dù
được thừa nhận hay không thừa nhận đều có các nhân tố khách quan XHCN. Đây là
xu hướng tiến bộ, là những mầm mống của CNXH ngay trong lòng các nước tư bản
phát triển.
Việt Nam đi lên CNXH từ
một nước kinh tế chưa phát triển, bỏ quan chế độ tư bản chủ nghĩa nên việc phát
triển KTTT định hướng XHCN là rất cần thiết, nhằm giải phóng lực lượng sản xuất,
khai thác mọi tiềm năng, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để phát triển, từng
bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế
tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Mô hình này là một kiểu tổ
chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của KTTT, vừa dựa trên cơ sở và được
dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH.
Sẽ là sai lầm khi cho rằng
các quy luật của KTTT và định hướng XHCN hoàn toàn đối lập nhau, loại trừ nhau.
“Nền KTTT phải vận hành theo các quy luật của KTTT như quy luật cạnh tranh, giá
trị cung- cầu…, trong đó quy luật giá trị là trung tâm. Đặc trưng của KTTT là
cạnh tranh, các chủ thể kinh tế luôn cạnh tranh với nhau để chiếm các nguồn lực
sản xuất, dự án đầu tư, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Cạnh tranh là sức ép,
động lực thúc đẩy các chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, hợp lí hoá tổ chức
sản xuất; ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ, tăng năng suất lao động; đổi
mới, nâng cao chất lượng sản phẩm; tiết kiệm, giảm chi phí sản xuất, nâng cao
hiệu quả sản xuất, kinh doanh; qua đó thúc đẩy kinh tế phát triển, thanh lọc
các chủ thể kinh tế yếu kém. Mặt tiêu cực của cạnh tranh không lành mạnh là làm
hàng giả, trốn thuế, chuyển giá, gây ô nhiễm môi trường, ăn cắp công nghệ….
Trong nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, nhất là ở các nước phát triển hiện
nay, nhà nước tạo khung khổ pháp luật cho cạnh tranh; bảo vệ, thúc đẩy, tôn
trọng cạnh tranh lành mạnh; ngăn ngừa, hạn chế độc quyền cản trở cạnh tranh và
chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh; điều tiết và giải quyết các
thất bại của thị trường”.
“Quy luật giá trị là quy
luật trung tâm, cơ bản của KTTT. Giá trị hàng hoá là lao động xã hội cần thiết
kết tinh trong hàng hoá. Chi phí để sản xuất hàng hoá xét đến cùng là chi phí lao
động, bao gồm lao động sống (lao động của người trực tiếp sản xuất ra hàng hoá)
và lao động quá khứ (lao động chi phí để sản xuất ra các tư liệu sản xuất được
sử dụng để sản xuất ra hàng hoá này). Lượng giá trị là hao phí lao động xã hội
cần thiết (hao phí lao động ở mức trung bình của xã hội, năng suất lao động
trung bình, cường độ lao động trung bình, được hình thành do cạnh tranh). Giá
trị biểu hiện ra bên ngoài thành giá cả, giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá
trị. Giá trị là hình thái của cải trong nền KTTT, là mục tiêu, là yếu tố chi
phối mọi hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nền KTTT”.
Tác động tích cực của quy
luật giá trị là thúc đẩy chủ thể kinh tế năng động, sáng tạo, không ngừng hợp
lý hoá sản xuất, cải tiến quản lý, đổi mới công nghệ…. Tác động tiêu cực như
khủng hoảng chu kỳ, phân hoá xã hội, cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm môi trường…
Trong nền KTTT có sự quản lý của nhà nước, Nhà nước vận dụng quy luật giá trị
thông qua việc tạo khung khổ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch và điều kiện thuận lợi cho quy luật giá trị vận động để phát huy mặt tích
cực, đồng thời hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực.
Sự điều tiết của quy luật
cung - cầu được thể hiện khi cung lớn hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ giảm xuống;
khi cung nhỏ hơn cầu, giá cả hàng hoá sẽ tăng lên. Sự tăng lên hay giảm xuống
của giá cả hàng hoá là tín hiệu của thị trường để các chủ thể kinh tế chuyển
hàng hoá từ nơi giá thấp đến nơi giá cao, từ nơi thừa đến nơi thiếu, để các nhà
sản xuất thu hẹp hay dừng sản xuất các hàng hoá thừa khi cung lớn hơn cầu, tăng
cường, mở rộng sản xuất các hoàng hoá thiếu khi cung nhỏ hơn cầu. Đó chính là
sự điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá linh hoạt, nhanh nhạy của cơ chế
thị trường, là mặt tích cực của quy luật cung- cầu. Tuy nhiên, trong nền KTTT
những người sản xuất và lưu thông hàng hoá đều chạy theo lợi nhuận tối đa, luôn
muốn đè ép đối thủ nên dẫn đến sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ, tác động tiêu
cực đến nền kinh tế, gây bất ổn xã hội. Đây là mặt trái của quy luật cung- cầu
và cơ chế tự điều tiết của thị trường. Nền KTTT có sự điều tiết của nhà nước,
sự can thiệp của nhà nước là để khắc phục những khiếm khuyết này, khắc phục
những mất cân đối lớn, khủng hoảng chu kỳ do tự điều tiết của cơ chế thị trường
gây ra.
Về vai trò quản lý, điều tiết
của nhà nước trong nền KTTT: Các nền KTTT hiện đại trên thế giới hiện nay đều
có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và vai trò quản lý, điều tiết của nhà
nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng, tạo môi trường hoạt động cho các quy
luật KTTT; vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, tự phát do các quy
luật KTTT gây ra; giữ môi trường ổn định cho phát triển kinh tế và hướng sự
phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm
đến an sinh xã hội. Dù nhà nước tư bản có sự điều chỉnh, điều tiết đến đâu thì
bản chất của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn là phục vụ cho thiểu số lợi ích
của giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động; và
khi nó còn tồn tại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất thì những mâu thuẫn đối kháng của xã hội tư bản chủ nghĩa do
khuyết tật của nền KTTT tạo ra không những không mất đi mà ngày càng gia tăng
và thêm gay gắt.
Từ thực tiễn quá trình đổi
mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền
KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các
thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà
pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các
loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ...; vai trò của nhà nước về quản
lý kinh tế đã được đổi mới, như quản lý bằng luật pháp, chính sách, chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp
vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ
mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường,... Trong điều kiện đó,
các quy luật của KTTT vận hành đồng bộ, các chủ thể kinh tế cạnh tranh để tồn
tại và phát triển; giá cả hàng hóa cơ bản do thị trường quyết định; sản xuất và
lưu thông hàng hóa phải chú ý đến tín hiệu giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị
trường; thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng
hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn
lực của sản xuất,... Các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với
vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm
các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền
vững đất nước,....
Chúng ta cần một xã hội mà
trong đó sự phát triển là thực sự vì con người chứ không phải vì lợi nhuận mà
bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh
tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội chứ không phải gia tăng khoảng cách
giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết,
tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn chứ không phải cạnh
tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và
các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để
bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai chứ
không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và
hủy hoại môi trường.
Nội dung và phương thức
quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo không
mâu thuẫn, đối lập, không cản trở hoạt động của các quy luật KTTT mà tạo điều
kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của các quy luật,
để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công băng, văn minh. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân
dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có.
Những mong ước tốt đẹp đó
chính là những giá trị đích thực của CNXH và cũng chính là mục tiêu, là con
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên
định, kiên trì theo đuổi. Vì vậy, chắc chắn rằng, các quy luật của KTTT và định
hướng XHCN hoàn toàn không đối lập nhau, không loại trừ nhau trong nền KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam”.
HAIVAN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét