Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ thiên tài của Đảng
và cách mạng Việt Nam, người chiến sĩ kiên cường, người bạn thân thiết của các
dân tộc bị áp bức trên thế giới; Người cũng là vị “kiến trúc sư vĩ đại” của mô
hình xã hội xã hội chủ nghĩa tươi đẹp, tiến bộ, hạnh phúc mà đất nước ta đã và
đang nỗ lực xây dựng, hoàn thiện. Những giá trị lý luận và thực tiễn mà Người
để lại trong công cuộc xây dựng xã hội mới vẫn vẹn nguyên giá trị, cần được vận
dụng phù hợp, khoa học vào thực tiễn đất nước hôm nay và mai sau.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp xây dựng xã hội tốt đẹp, tiến bộ, hạnh phúc cho
dân tộc Việt Nam
Thứ nhất,
là Người đầu tiên tìm kiếm và lựa chọn đúng đắn mô hình xã hội phù hợp, tốt đẹp
cho đất nước.
Cuối thế
kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đất nước ta rơi vào khủng hoảng toàn diện, nhất là về lựa
chọn mô hình xây dựng xã hội mới. Mô hình xã hội phong kiến (mà hiện thân là
triều đình nhà Nguyễn) hay xã hội tư sản (mô hình xã hội do chính quyền thuộc
địa thực dân Pháp tạo dựng) đều chứa đầy mâu thuẫn, hạn chế, bất công nên không
phù hợp với thực tiễn lịch sử, không được nhân dân chấp nhận. Trong hoàn cảnh
ấy, ở nước ta chưa có ai, tổ chức hay lực lượng nào đủ khả năng tìm kiếm, lựa
chọn đường lối cứu nước đúng đắn và một mô hình xã hội tốt đẹp, phù hợp.
Mặc dù
các phong trào yêu nước lúc bấy giờ đều nhằm mục đích đánh đuổi thực dân Pháp,
giành lại độc lập dân tộc, nhưng có sự khác biệt cơ bản về đường lối cách mạng,
phương pháp tiến hành, lập trường giai cấp (đặc biệt là quan điểm về một mô
hình xã hội mới sẽ được xây dựng ),... Trong đó, các sĩ phu yêu nước chủ trương
phát động phong trào Cần Vương (giai đoạn 1885 - 1896), sau là cuộc khởi nghĩa
nông dân Yên Thế (giai đoạn 1884 - 1913) của vị anh hùng Hoàng Hoa Thám chống
thực dân Pháp; tuy nhiên, tất cả bị đàn áp dã man và dẫn đến kết cục thất bại.
Một trong những nguyên nhân chính là bởi các vị tiền bối trên mang trong mình ý
thức hệ của giai cấp phong kiến đã lạc hậu, lỗi thời, mong muốn khôi phục xã
hội phong kiến (kiểu xã hội đã hết vai trò trong tiến trình lịch sử dân tộc)
nên không được sự ủng hộ của toàn thể nhân dân. Trong khi đó, nhiều phong trào
yêu nước theo khuynh hướng tư tưởng tư sản, như Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục,
Duy Tân,... của các nhân sĩ, trí thức nổi tiếng, như Phan Bội Châu (muốn dựa
vào Nhật để đánh đuổi Pháp, giành độc lập dân tộc và xây dựng một xã hội mới
theo mô hình xã hội nước Nhật lúc bấy giờ); Phan Châu Trinh (chủ trương dựa vào
Pháp để nâng cao dân trí, dân quyền) phát triển rộng khắp, nhưng cuối cùng cũng
lâm vào bế tắc và thất bại. Thực tế, tư tưởng xây dựng mô hình xã hội kiểu tư
sản theo các phong trào trên còn thiếu thực tế và không đáp ứng được yêu cầu
hiện thực xã hội thời bấy giờ.
Đứng
trước tình hình đó, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau này là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ
đại), một con người ưu tú với bản lĩnh quyết đoán và tầm nhìn vượt lên trên những
hạn chế của điều kiện lịch sử; có trí tuệ siêu việt, sự nhạy cảm chính trị sâu
sắc, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo,... đã tìm ra con đường, hướng đi đúng
đắn cho dân tộc Việt Nam. Kể từ thời điểm bắt đầu ra đi tìm đường cứu nước (năm
1911) đến khi xác định được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tiếp nhận
thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nỗ lực tìm
kiếm và lựa chọn mô hình đúng đắn về một xã hội mới, tốt đẹp cho dân tộc; thực
tiễn hoạt động cách mạng ở trong nước và quốc tế đã giúp Người hiểu rõ sự lỗi
thời, lạc hậu của xã hội phong kiến và mặt xấu xa, tàn bạo, bất công của xã hội
tư sản ở cả chính quốc lẫn thuộc địa. Trên cơ sở phân tích, đối chiếu các
kiểu xã hội trong dòng chảy liền mạch của tiến trình lịch sử nhân loại, Người
cho rằng tính chất phiến diện, nửa vời, không triệt để của xã hội tư sản khiến
ngay trong bản chất của nó đã bộc lộ những mâu thuẫn đối kháng không thể điều
hòa và sẽ làm bùng nổ các cuộc cách mạng xã hội trong tương lai, rằng “chế độ tư
bản có những mâu thuẫn to, nó không giải quyết được”.
Khác hẳn
với xã hội tư sản là xã hội Xô-viết, tuy lúc bấy giờ còn non trẻ, nhưng đã sớm
bộc lộ sức sống và tính ưu việt, mục tiêu phục vụ đều hướng đến lợi ích của đại
đa số nhân dân lao động, khi mà “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ
thành người tự do”. Như vậy, từ con đường cách mạng vô sản, hướng cách mạng
giải phóng dân tộc theo những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời được tận
mắt chứng kiến, nhìn nhận thực tiễn sinh động về mô hình xã hội Xô-viết, Chủ
tịch Hồ Chí Minh lựa chọn mô hình xã hội Xô-viết làm nền tảng để xây dựng đất
nước ta. Người chỉ rõ: “Cách mạng Tháng Mười đã chứng tỏ có khả năng lật đổ nền
chuyên chính của bọn bóc lột, xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội bảo
đảm cho đất nước phát triển rực rỡ một cách nhanh chóng chưa từng thấy, đưa
quần chúng lao động đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn
vinh, làm cho người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường,
hướng tới những chân trời tươi sáng, mà trước kia không thể nghĩ tới”.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh kiên định về mục đích, nguyên tắc của mô hình xã hội mới, nhưng về
hình thức, bước đi và cách làm cụ thể khi vận dụng vào hoàn cảnh thực tiễn của
Việt Nam, Người lại có sự độc lập, sáng tạo và các bước phát triển mới, hoàn
toàn không giáo điều, bảo thủ, rập khuôn, máy móc. Có thể nói, thực tiễn đã
chứng minh, quyết định của Người về con đường cách mạng của dân tộc là sự lựa
chọn sáng suốt, phù hợp với quy luật khách quan, đáp ứng được yêu cầu cơ bản
của thực tiễn đất nước cũng như nguyện vọng, lợi ích toàn thể dân tộc.
Thứ hai,
khẳng định tính tất yếu đối với sứ mệnh xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa của
dân tộc Việt Nam; đồng thời, chuẩn bị những tiền đề cốt yếu, nền tảng tư tưởng
quan trọng để củng cố, hoàn thiện mô hình xã hội tốt đẹp.
Năm 1920,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lê-nin đăng trên báo Nhân đạo - tác phẩm
có tác động mạnh mẽ, khiến Người cảm động, sáng tỏ niềm tin về một con đường
giải phóng dân tộc đầy hy vọng mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua, đồng thời
định hình rõ mô hình về một xã hội tốt đẹp trong tương lai. Theo đó, Người
khẳng định “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các
dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”, bởi vì
trong chế độ cộng sản “ai cũng no ấm, sung sướng, tự do; ai cũng thông thái và
có đạo đức. Đó là một xã hội tốt đẹp vẻ vang”. Trên cơ sở lý luận được tiếp thu
từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, một học thuyết khoa học, cách mạng nhất của thời đại
và từ thực tiễn khảo nghiệm của bản thân, Người dồn tâm huyết để chuẩn bị toàn
diện, đầy đủ mọi khía cạnh cho sự ra đời của một xã hội mới, đầy tươi đẹp.
Theo đó,
đầu tiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi sâu, phân tích và khẳng định tính tất yếu
khách quan của nhiệm vụ xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa - mô hình lý tưởng về
một xã hội phù hợp với đất nước. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, ngay trong
Chánh cương vắn tắt (năm 1930), Người xác định nhiệm vụ “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”; sau khi nước nhà
giành được độc lập, “cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”, rằng “có tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi
ngày một giàu mạnh thêm”.
Chủ tịch
Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ, chỉ có con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho đất nước phát triển phồn vinh, bền vững,
nhân dân có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, hoàn thành mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Người cho rằng, “tiến lên xây dựng một
nước xã hội chủ nghĩa tức là một nước có một cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do
và độc lập, tức là nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh”. Bên cạnh việc khẳng định tính tất yếu trong xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, Người còn dày công phân tích, phác thảo đường hướng lớn về nội dung, động
lực, con đường, bước đi, phương thức và biện pháp,... để xây dựng xã hội tốt
đẹp ấy. Trong đó, nội dung xây dựng xã hội mới được Người khái quát hết sức
giản dị, thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, như chủ nghĩa xã hội là làm sao cho
dân giàu, nước mạnh; là tất cả mọi người, tất cả đồng bào các dân tộc ngày càng
ấm no; con cháu “chúng ta” ngày càng sung sướng, ai nấy đều được đi học, ốm đau
có thuốc, phong tục, tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ,...
Thứ ba,
xác định, vạch rõ chủ trương, nguyên tắc xuyên suốt, hướng đi lâu dài đối với
nhiệm vụ xây dựng xã hội tốt đẹp ở Việt Nam.
Nội dung
đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dù được diễn đạt với ngôn từ, nội hàm
khái niệm khác nhau,... song về bản chất, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí
Minh luôn thống nhất với lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học và phù hợp với
điều kiện đất nước. Đó là một xã hội hiện thực do con người, vì con người, giá
trị con người được giải phóng triệt để; đề cao giá trị tự do, ấm no, hạnh phúc
và phát triển toàn diện, có sự kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với tập thể
và lợi ích xã hội; giải quyết thỏa đáng giữa cống hiến và hưởng thụ, một xã hội
đạt đến trình độ đạo đức nhân văn cao cả nhất mà nhân loại nói chung, dân tộc
và nhân dân Việt Nam nói riêng hằng mong ước. Người cho rằng, chủ nghĩa xã hội
là một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, là nơi sẽ “đưa quần chúng
đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người
lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân
trời tươi sáng”.
Tuy
nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không phải cứ “ngồi chờ” là sẽ có chủ
nghĩa xã hội, trái lại, “cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó
khăn nhất và sâu sắc nhất... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành
một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”. Vì vậy, để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội, theo Người, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là
phải xác định đúng, trúng phương thức, bước đi cùng với quyết tâm cao và những
biện pháp, cách làm sáng tạo, phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam
và với đặc điểm, xu thế của thời đại. Người chỉ rõ, công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, nên động lực và phương cách
cơ bản, lâu dài, quyết định nhất là huy động sức mạnh tổng hợp trong nhân dân,
cụ thể:
Trên lĩnh
vực kinh tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, phát triển lực lượng sản xuất là
vấn đề then chốt, đồng thời cần chú trọng nâng cao năng suất lao động trên cơ
sở công nghiệp hóa, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, quan
hệ phân phối và quản lý kinh tế phù hợp; nền kinh tế đất nước ta xây dựng là
nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công, nông nghiệp hiện đại, khoa học, kỹ thuật
tiên tiến, bởi “công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu
chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta”. Song, Người nhấn mạnh, một
xã hội tốt đẹp không thuần túy chạy theo lợi ích kinh tế, trái lại, phát triển
kinh tế phải gắn liền với nâng cao đời sống nhân dân cũng như bảo đảm tiến bộ,
công bằng xã hội. Đó chính là mục tiêu, đồng thời cũng là thước đo tính đúng
đắn, ý nghĩa, giá trị đích thực của xã hội mới tốt đẹp mà chúng ta đang xây
dựng, hoàn thiện, rằng “xây dựng cho nhân dân một đời sống ngày càng sung
sướng. Đó là chủ nghĩa xã hội”.
Trên lĩnh
vực chính trị - xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nội dung quan trọng nhất là
phải giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền - một
Đảng “chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”. Bên cạnh đó, phải xây dựng Nhà nước của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân; củng cố, mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất với nòng
cốt là liên minh công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức nhằm không ngừng tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân
dân, thực hành dân chủ triệt để.
Trên lĩnh
vực văn hóa, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xem yếu tố văn hóa là mục tiêu cơ bản và
động lực của một xã hội tốt đẹp, có sự hiện diện trong mọi sinh hoạt tinh thần
của xã hội. Cũng theo Người, mục tiêu cơ bản và trọng tâm của văn hóa phải là
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, trong đó bao gồm các phẩm chất “vừa
hồng, vừa chuyên”, vừa có đức, vừa có tài và nền tảng đạo đức luôn được coi là
gốc rễ. Sức hấp dẫn của một xã hội tốt đẹp hay của chủ nghĩa xã hội không phải
chỉ ở mức sống vật chất cao, mà cốt lõi là ở giá trị đạo đức của nó và ở phẩm
chất đạo đức của những con người sinh sống trong xã hội ấy.
Có thể
nói, mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp không phải là ước vọng, giấc mơ, ý
tưởng hay là lời hiệu triệu thuần túy. Xã hội đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh
hiện thực hóa không chỉ bằng cơ sở lý luận và thực tiễn sâu sắc, những luận
chứng, luận cứ đầy đủ, rõ ràng, mà còn bằng sự chuẩn bị hết sức kỹ lưỡng, chu
toàn thông qua việc xác định rõ những bước đi, lộ trình, cách thức, biện pháp
hết sức cụ thể, khoa học, hiệu quả và phù hợp với đất nước. Có thể nói, Người
chính là “vị kiến trúc sư vĩ đại” đã kiến tạo nền tảng cơ bản, điều kiện tiên
quyết cho sự ra đời của một xã hội tốt đẹp ở nước ta, đồng thời đặt nền móng
cho việc củng cố, hoàn thiện xã hội ấy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét