Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

Vận dụng quan điểm của V.L. Lê-nin về xây dựng tổ chức cơ sở đảng vào thực tiễn Việt Nam

 

TCCS - Theo V.I. Lê-nin, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Những quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng là kinh nghiệm quý để Đảng ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục_Ảnh: Tư liệu

Tổ chức cơ sở đảng là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở tuân thủ đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, đấu tranh về quan điểm và rèn luyện đảng viên; gắn kết Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện tốt chủ trương của Đảng. Thực hiện tốt công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở là điều kiện tiên quyết để Đảng vững mạnh. Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Đó là:

Thứ nhất, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng ở cơ sở. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I. Lê-nin cho rằng, để sự nghiệp cách mạng thành công “đòi hỏi phải có cho toàn nước Nga một tổ chức thống nhất gồm những người cách mạng, một tổ chức có khả năng đảm nhiệm việc lãnh đạo các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân trong phạm vi toàn Nga”(1). Đặc biệt, khi đề cập đến vấn đề xây dựng đảng kiểu mới, V.I. Lê-nin khẳng định cần thành lập tổ chức đảng ở các công xưởng, nhà máy, các địa phương theo chế độ phân cấp rõ ràng. “Ở tất cả các tổ chức, các hội, các hiệp hội, không trừ một loại nào... phải tổ chức những tiểu tổ hay những chi bộ Cộng sản... những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng”(2). Sau khi thành lập, các chi bộ phải thực hiện cổ động, tuyên truyền,... thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi tầng lớp quần chúng lao động. Thông qua thực tiễn ở cơ sở để kiểm nghiệm chủ trương, đường lối và bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, lấy kết quả hoạt động thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng.

Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; liên hệ chặt chẽ với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện lý tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”(3). Trong đó, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng, vì vậy, V.I. Lê-nin yêu cầu các chi bộ “thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”(4); qua lao động, thực tiễn đấu tranh cách mạng mà thử thách đảng viên để nâng cao uy tín của Đảng, tạo sự gắn bó, tin tưởng của nhân dân với Đảng. Trong bài viết Nhà nước của công nhân và Tuần lễ Đảng, V.I. Lê-nin cho rằng, cần “quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên”(5).

Thứ ba, bảo đảm tính đảng của tổ chức cơ sở đảng. Tính đảng được hiểu là sự thừa nhận một cách tự nguyện và trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng đã lựa chọn; tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính tổ chức, tính kỷ luật của Đảng; là những chuẩn mực giữa lời nói và hành động trong các hoạt động xã hội. Trong bài viết Về việc phá hoại sự thống nhất, che đậy bằng những lời kêu gào thống nhất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ở nơi nào mà đa số công nhân giác ngộ đoàn kết xung quanh những nghị quyết rõ ràng và chính xác, thì ở đó có sự nhất trí về tư tưởng và hành động, ở đó có tính đảng và đảng”(6). Tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên phải nhận thức sâu sắc nghị quyết, thấm nhuần tư tưởng của Đảng, bền bỉ phấn đấu, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức đảng ở cơ sở. Theo V.I. Lê-nin, tập trung dân chủ nghĩa là kết hợp lãnh đạo, quản lý tập trung với tinh thần tích cực sáng tạo của quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước Nga, V.I. Lê-nin luôn nhất quán quan điểm: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(7). Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt dân chủ và tập trung; tập trung và dân chủ vừa đối lập nhau, vừa liên kết với nhau, mặt này là tiền đề, điều kiện cho mặt kia và ngược lại. Tập trung và dân chủ kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức đảng vô sản, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, còn tập trung là điều kiện để bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Phủ định hay loại trừ bất cứ mặt nào đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng làm việc với Ban thường vụ Tỉnh ủy Long An về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 (Trong ảnh: Đồng chí Võ Văn Thưởng thăm Hợp tác xã rau an toàn Phước Thịnh tại xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)_Ảnh: TTXVN

Hiện nay, toàn Đảng ta có 52.125 tổ chức cơ sở đảng với 5.192.533 đảng viên. Trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.478 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi bộ(8) thuộc các loại hình tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp; doanh nghiệp; đơn vị quân đội, công an; đơn vị ở ngoài nước.

Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện rõ qua các kỳ Đại hội. Những năm gần đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở; bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng(9). Đây là hệ thống những văn bản quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.

Tại các cơ sở đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng thường xuyên đổi mới, tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã nhanh chóng tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Đơn cử, Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII được truyền hình trực tuyến với 2.700 điểm cầu, hơn 405.000 cán bộ, đảng viên tham dự(10); Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được kết nối với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến hơn 7.400 điểm cầu cơ sở với gần 1 triệu đảng viên tham gia(11). Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực.

Quán triệt Nghị quyết 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng(12). Chú trọng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng. Giai đoạn 2015 - 2020, đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Hầu hết các chi bộ đều đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên mới cho tổ chức đảng ở cơ sở được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ta đã kết nạp được 880.155 đảng viên, trình độ chuyên môn của đảng viên mới kết nạp được nâng lên, có đến 41,5% đảng viên có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 3% là thạc sĩ và 0,15% là tiến sĩ, cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ với 67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ(13). Đặc biệt, thành công trong việc thí điểm kết nạp 6.652 chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng(14).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận một số yếu kém nhất định trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được xem trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên(15).

Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng

Buổi sinh hoạt chi bộ của Chi bộ 4, xã Đường Hoa, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh được tổ chức trên chính phương tiện khai thác của bà con ngư dân trong những chuyến vươn khơi bám biển_Nguồn: baoquangninh.com.vn

Quán triệt quan điểm “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”(16), cùng với vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin, hướng tới xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, cần triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm chấn chỉnh tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là đổi mới bộ máy bên trong. Rà soát, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm túc thực hiện quy chế làm việc cấp cơ sở.

Ba là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.

Bốn là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu là việc làm trọng yếu, thường xuyên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về lượng và chất, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương: Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thực hiện

 

TCCS - Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đặt ra yêu cầu đến năm 2025 phải cơ bản bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh không là người địa phương và hoàn thành ở cấp huyện, đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác. Để thực hiện thành công mục tiêu này, cấp ủy các cấp từ Trung ương tới cơ sở phải có sự thống nhất về nhận thức, xây dựng được kế hoạch triển khai cụ thể và chỉ đạo chặt chẽ, hiệu quả việc tổ chức thực hiện. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Đảng bộ và nhân dân tỉnh Hưng Yên_Ảnh: TTXVN 

Thực tiễn 20 năm thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương

Chủ trương bố trí lãnh đạo không là người địa phương được Đảng ta nêu lên từ Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 25-1-2002, của Bộ Chính trị, “Về luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý”, trong đó có nội dung “thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo và quản lý cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương” và trước mắt tổ chức thí điểm việc điều động, luân chuyển một số đồng chí về làm bí thư tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương, làm điểm việc bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương ở một số tỉnh, thành phố. Khi thực hiện việc luân chuyển này có hiệu quả sẽ nhân rộng ra các đối tượng khác và luân chuyển từ vùng, miền này sang vùng, miền khác.

Trong 20 năm qua, chủ trương này luôn được Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị nhất quán lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và thường xuyên được nhắc tới trong các văn kiện lãnh đạo của Đảng liên quan tới công tác cán bộ(1), với mục tiêu, yêu cầu ngày càng cao(2).

Thực tiễn cho thấy, quá trình thực hiện việc luân chuyển, bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực, đáng ghi nhận: 1- Đã tạo ra sự đổi mới mang tính đột phá trong công tác cán bộ, gắn kết chặt chẽ giữa luân chuyển với thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương cả về mục tiêu và nhiệm vụ; 2- Ở những nơi bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, tình hình kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng, tác phong, lề lối làm việc của đội ngũ cán bộ, đảng viên có nhiều chuyển biến tích cực; 3- Nhiều vấn đề khó, phức tạp tồn tại qua nhiều nhiệm kỳ đã được xử lý, giải quyết; khắc phục những hạn chế trong công tác cán bộ, tình trạng cục bộ địa phương, “một người làm quan cả họ được nhờ”, phát huy tính sáng tạo, năng động, chủ động và tâm huyết, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ; 4- Góp phần phòng ngừa quan liêu, tham nhũng, tiêu cực và giúp cán bộ trưởng thành vững chắc; giúp kiểm soát quyền lực tốt hơn, giảm thiểu nguy cơ không tuân thủ sự lãnh đạo của cấp trên; 5- Hầu hết cán bộ qua luân chuyển, bố trí đều có bước trưởng thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm thực tiễn trong lãnh đạo, điều hành; 6- Góp phần quan trọng vào việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống quy định về công tác cán bộ, kiểm soát quyền lực; 7- Góp phần quan trọng trong việc xây dựng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc luân chuyển, bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương còn bộc lộ một số hạn chế, bất cập như sau:

Thứ nhất, công tác điều động, luân chuyển cán bộ gắn với bố trí cán bộ lãnh đạo không là người địa phương trong ba nhiệm kỳ qua, trong đó có bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện còn một số bất cập, chưa đạt yêu cầu.

Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa nhận thức sâu sắc, đầy đủ và thống nhất về ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương; thiếu sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất; chưa có quy định cụ thể việc thực hiện chủ trương nên việc thực hiện giữa các địa phương còn khác nhau, thiếu sự thống nhất và kết quả còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa chủ động xây dựng kế hoạch bố trí các chức danh bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, chưa gắn công tác luân chuyển, bố trí cán bộ với quy hoạch cán bộ. Việc thực hiện bố trí còn thiếu chủ động, chưa tích cực. Khâu đánh giá, lựa chọn, điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử để bố trí, sắp xếp chức danh bí thư cấp ủy không là người địa phương còn nhiều bất hợp lý. Số lượng, chất lượng bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra. Quá trình tổ chức triển khai bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế; cơ chế, chính sách, quy định liên quan đến chủ trương này còn nhiều bất cập.

Thứ hai, hạn chế trong việc nắm bắt tình hình, tiếp cận công việc của người đứng đầu. Vì không là người địa phương nên bí thư cấp ủy phải mất thời gian nắm vững địa bàn, con người, văn hóa, tài nguyên, làm quen với phong cách, lề lối làm việc, tổ chức bộ máy... Vì vậy, một số cán bộ thời gian đầu mới xuống cơ sở công tác còn lúng túng, xử lý, giải quyết một số vụ, việc còn chậm, thiếu kiên quyết. Bên cạnh đó, tư tưởng cục bộ tại một số địa phương đã gây ra những khó khăn cho cán bộ được bố trí về làm bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện mà không phải là người địa phương. Một mặt, ở một số địa phương, có những cán bộ chủ chốt còn có tư tưởng không muốn tiếp nhận người ở nơi khác đến công tác, nên không nhiệt tình giúp đỡ cán bộ được điều động đến, thậm chí có nơi còn có thái độ chống đối. Thực trạng này dẫn tới hệ lụy là, nhiều đồng chí bí thư thời gian đầu nhận nhiệm vụ thường cảm thấy rất “cô đơn”, “lạc lõng”. Mặt khác, có không ít cán bộ còn nhận thức rằng đi luân chuyển để được đề bạt lên chức vụ cao hơn, việc giữ chức vụ này chỉ mang tính chất tạm thời hoặc chỉ là bước đệm, vì vậy, có biểu hiện nể nang, né tránh, ngại va chạm, thiếu quyết liệt, chỉ lo “tròn vai”, giữ mình chờ ngày về, chưa thực sự tâm huyết, nỗ lực, phấn đấu, rèn luyện để khẳng định rõ hơn năng lực bản thân, vì thế chưa thực sự có những đóng góp thiết thực, hiệu quả ở địa phương.

Thứ ba, bố trí cán bộ còn chưa bảo đảm đúng yêu cầu, nhiệm vụ, chưa đúng sở trường của cán bộ. Một số cán bộ được bố trí về làm bí thư cấp ủy một số tỉnh, huyện thời gian qua còn mang tính xử lý tình huống trước mắt; có hiện tượng một số cán bộ được bố trí chưa bảo đảm thời gian đã được cấp có thẩm quyền phân công, bố trí công tác khác hoặc rút về và được bổ nhiệm vào chức vụ cao hơn, do vậy, không đủ quỹ thời gian cần thiết để làm được những gì mình mong muốn, chưa tạo dựng được những dấu ấn cần thiết. Phần lớn cán bộ cơ quan cấp trên được bố trí xuống làm bí thư cấp ủy địa phương là cán bộ trưởng thành từ công tác chuyên môn, quản lý ngành và lĩnh vực cụ thể, trong khi làm bí thư tỉnh ủy, huyện ủy là một nhiệm vụ đòi hỏi lãnh đạo toàn diện; bên cạnh đó, một số cán bộ còn thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thiếu kỹ năng cần thiết nên lúng túng, khó hòa nhập, không phát huy được vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu tại địa phương.

Thứ tư, khi đưa cán bộ từ nơi khác về làm bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện, phát sinh tâm tư trong nội bộ, làm ảnh hưởng đến động lực phấn đấu của cán bộ địa phương. Trong thực tế, một số cán bộ ở địa phương có đủ năng lực, kinh nghiệm và uy tín để đảm nhận vị trí người đứng đầu và mong muốn được cống hiến cho quê hương của mình, nhưng lại không được bố trí.

Thứ năm, chậm có cơ chế theo dõi, nhận xét, đánh giá, khuyến khích và bảo vệ cán bộ được bố trí làm bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện. Chế độ, chính sách cho việc bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương còn nhiều hạn chế, bất cập; chưa có chính sách hỗ trợ hiệu quả việc đi lại thăm gia đình, chưa có quy định bố trí công việc cho vợ hoặc chồng, trợ giúp gia đình đi cùng để cán bộ yên tâm công tác...

Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn 20 năm thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương

Thực tiễn 20 năm thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương đã mang lại nhiều kết quả và bài học kinh nghiệm rất quan trọng đối với công tác cán bộ của Đảng; góp phần đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là đội ngũ bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, nhận được sự đồng tình cao của đội ngũ cán bộ, đảng viên và cấp ủy cơ sở. Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức thực hiện chủ trương này thời gian qua cũng bộc lộ một số vấn đề cần quan tâm, cụ thể như sau:

Một là, nhận thức về vai trò, ý nghĩa, tầm quan trọng của chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương còn chưa thực sự đầy đủ, sâu sắc và còn thiếu sự thống nhất, đồng thuận cao. Khái niệm thế nào là người địa phương, thế nào không là người địa phương vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau, chưa thực sự thống nhất. Hiện tại vẫn chưa có cơ chế đánh giá một cách căn cơ, hiệu quả cán bộ qua các giai đoạn trước, trong và sau luân chuyển, bố trí. Bố trí cán bộ là theo yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của Trung ương hay địa phương, không hạn định chặt chẽ về tuổi, về thời hạn, có thể là cán bộ không trong quy hoạch, có thể gắn với luân chuyển cán bộ hoặc không..., trong khi đó, cán bộ luân chuyển phải là cán bộ trong quy hoạch, tuổi trẻ, thực hiện có thời hạn, mục đích chính là để đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện cán bộ.

Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương làm việc với Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hòa Bình_Ảnh: Tư liệu

Hai là, về cơ bản, đa số ý kiến đồng tình với chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương nhưng cho rằng, khi thực hiện cần quan tâm đến yếu tố liên vùng, tương đồng và có cơ chế, chính sách đồng bộ, chú ý hiệu quả và chất lượng công việc. Có ý kiến cho rằng, Trung ương cần xem xét, cân nhắc kỹ, nên căn cứ vào điều kiện, tình hình thực tiễn của từng địa phương, tính toán một cách khoa học để bố trí bí thư cấp ủy hoặc chủ tịch ủy ban nhân dân (UBND) không là người địa phương, trường hợp đặc biệt có thể bố trí cả hai chức danh này không là người địa phương. Mục tiêu là lựa chọn cán bộ có phẩm chất, năng lực và uy tín để làm bí thư cấp ủy, tránh tuyệt đối hóa, quan niệm người khác địa phương tốt hơn người địa phương.

Ba là, chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương chưa được thực hiện bài bản, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả do còn thiếu những quy định, hướng dẫn cụ thể. Nguyên tắc tổ chức của Đảng là đại hội bầu bí thư cấp ủy, nhưng ở một số địa phương đến đại hội vẫn không biết ai là người làm bí thư, vì vậy cần cân nhắc để tránh áp đặt từ trên xuống. Việc bố trí cán bộ nơi khác về địa phương làm bí thư cấp ủy được thực hiện cụ thể như thế nào, nhất là thời điểm bố trí, điều động sao cho phù hợp? (bố trí đến trước hay sau đại hội đảng bộ, hay là sau Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng khi cán bộ trúng cử là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, sau đó mới đưa về làm bí thư tỉnh ủy?).

Bốn là, chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương cần phải được kết hợp với nhiều giải pháp quyết liệt khác, nhằm khắc phục tình trạng cục bộ, bè phái, tiêu cực trong công tác cán bộ, ngăn chặn nạn chạy chức, chạy quyền, thao túng và phân phát quyền lực, “lợi ích nhóm”...

Một số giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện hiệu quả chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương

Để tiếp tục thực hiện tốt chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, đưa Nghị quyết số 26-NQ/TW vào cuộc sống, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tập trung thực hiện tốt các giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục thống nhất nhận thức, quyết tâm cao trong thực hiện chủ trương.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đặt mục tiêu, lộ trình từ năm 2020 đẩy mạnh bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và đến năm 2025 cơ bản hoàn thành ở cấp tỉnh, hoàn thành ở cấp huyện, đồng thời khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, trước hết là chủ tịch UBND.

Để chủ trương này tiếp tục đi vào thực tiễn, có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự thống nhất nhận thức từ Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến cấp ủy các cấp; phải tiếp tục đẩy mạnh công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt, tuyên truyền sâu rộng để tạo sự thống nhất cao đối với chủ trương này. Muốn tiếp tục đổi mới, nâng cao nhận thức và thực hiện tốt chủ trương này, cần có thêm xung lực mạnh mẽ từ công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng trong tình hình mới. Khi đã tạo được sự thống nhất và đồng thuận về nhận thức, cấp ủy và người đứng đầu phải có cách thức lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt và quyết tâm thực hiện thống nhất, nhất là đối với việc bố trí cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý.

Thứ hai, xây dựng kế hoạch tổng thể và lộ trình thực hiện.

Thực hiện các nghị quyết, nhất là Nghị quyết Đại hội XII và Đại hội XIII của Đảng cũng như các nghị quyết của Trung ương về quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, bảo đảm sự đồng bộ, liên thông, gắn kết giữa quy hoạch của cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương với địa phương, giữa các địa phương, bộ, ban, ngành với nhau, giữa cán bộ đảng, đoàn thể với cán bộ nhà nước; đặc biệt, cần phải làm tốt công tác đánh giá, quy hoạch, xây dựng kế hoạch tổng thể với lộ trình và bước đi cụ thể về bố trí cán bộ không là người địa phương làm bí thư các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cũng như đối với cấp huyện. Các cấp ủy cần rà soát đội ngũ cán bộ, nắm chắc lý lịch cán bộ, đánh giá, lựa chọn những người thực sự có năng lực, phẩm chất tốt, có kết quả công tác nổi bật để đưa vào kế hoạch bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương.

Các cấp ủy cần phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả, đúng quy trình cả nơi đi và nơi đến khi điều động cán bộ. Chuẩn bị các điều kiện cần thiết, thống nhất kế hoạch bố trí, thuận tiện về thủ tục, quy trình và giải quyết những khó khăn về công tác cán bộ ở nơi đến. Trước khi bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, cần phải chuẩn bị đầy đủ, chu đáo và làm tốt công tác tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương, để mọi người đều thống nhất trong nhận thức rằng, việc bố trí cán bộ đến và thay thế cán bộ sở tại là việc làm cần thiết, thường xuyên trong công tác cán bộ; từ đó, nhân dân mới tin tưởng, yên tâm giúp đỡ, ủng hộ các cấp ủy, chính quyền và cán bộ được bố trí. Thực tế cho thấy, thái độ ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ của cán bộ, nhân dân nơi đến có ý nghĩa to lớn đối với cán bộ được bố trí.

Bên cạnh đó, để bảo đảm cho bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm, thẩm quyền, không sợ bị cô lập bởi tình trạng “cục bộ địa phương”, cần xem xét bố trí đồng thời các chức danh lãnh đạo khác không là người địa phương như các nghị quyết, kết luận của Trung ương đã đề ra. Các chức danh quan trọng khác, như chủ tịch UBND, chánh án toà án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và cán bộ lãnh đạo cấp trưởng các ngành thanh tra, tài chính, thuế, hải quan... nhìn chung cũng cần bố trí người từ địa phương khác đến. Đặc biệt, vị trí chủ tịch UBND có quan hệ trực tiếp với bí thư cấp ủy cùng cấp, vì vậy, cần khẩn trương áp dụng chủ trương không bố trí người địa phương(3).

Thứ ba, lựa chọn và bố trí đúng cán bộ đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương.

Việc lựa chọn người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phải cao hơn về tiêu chí và cần được rà soát thận trọng. Trước hết, đó phải là những cán bộ có năng lực, phẩm chất, uy tín, có trách nhiệm, là hạt nhân đoàn kết và có bản lĩnh, dám nghĩ, dám làm, dám đương đầu với mọi khó khăn, thách thức. Muốn vậy, khi chuẩn bị nhân sự phải làm tốt khâu quy hoạch, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cả về chuyên môn, nghiệp vụ và những kiến thức, kỹ năng cần thiết của người bí thư cho cán bộ được quy hoạch. Đặc biệt, đối với cán bộ thuộc diện luân chuyển từ trên xuống gắn với thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương, phải có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian và công tác chuẩn bị kỹ càng trước khi về công tác ở địa phương.

Một mặt, tiêu chí lựa chọn người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện phải theo đúng quy định của Đảng, đó là có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức mẫu mực, có năng lực chuyên môn cao, hiểu biết về chính sách, pháp luật. Việc lựa chọn phải dân chủ, công tâm, khách quan, công bằng, công khai, minh bạch, xuyên suốt, nhiều chiều, bằng hiệu quả công việc và sản phẩm cụ thể, gắn kết chặt chẽ kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương với hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành trong vai trò của người đứng đầu.

Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị Lê Quang Tùng kiểm tra xây dựng khu tái định cư phục vụ dự án Khu công nghiệp Quảng Trị tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị_Nguồn: baoquangtri.vn

Mặt khác, việc bố trí người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện hướng tới sự phù hợp với từng khu vực địa phương, nên hướng tới khu vực hoặc theo địa bàn lân cận. Trên cơ sở tương đồng về vị trí địa lý, về bản sắc văn hóa, về các thế mạnh, mũi nhọn phát triển của tỉnh, huyện,... để xây dựng tiêu chuẩn cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng, bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương phù hợp với từng địa bàn cụ thể. Tránh tình trạng đưa cán bộ có sở trường, thế mạnh ở lĩnh vực này về một địa phương có tiềm năng, thế mạnh ở lĩnh vực khác.

Thứ tư, phải bố trí đủ thời gian để cán bộ rèn luyện, thử thách và cống hiến.

Để thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương có hiệu quả, ít nhất phải bố trí cán bộ đủ một nhiệm kỳ 5 năm, tránh về chỉ từ 1 năm đến 2 năm rồi lại đi, vì khó có thể đánh giá hiệu quả công việc trong thời gian công tác quá ngắn. Về địa phương với chức danh chủ chốt là bí thư tỉnh ủy (huyện ủy), người cán bộ cần quỹ thời gian từ 1 đến 2 nhiệm kỳ mới đủ thời gian để làm được những gì mong muốn, tạo dựng được những dấu ấn cần thiết và có thành quả đủ rõ cho sự phát triển của địa phương. Tuy nhiên, nếu bố trí cán bộ ở một vị trí quá lâu sẽ tạo sức ỳ, ít có đột phá, sáng tạo, thậm chí có thể dẫn đến trì trệ…

Bên cạnh đó, cần có cơ chế tạo điều kiện cho cán bộ tiếp cận, tìm hiểu địa phương một cách sâu sắc, đầy đủ thì mới đưa ra được những quyết sách đúng, trúng; tránh hiện tượng “chân ướt chân ráo”, chưa hiểu sâu tình hình đã tiến hành chỉ đạo. Cần chuẩn bị kỹ lưỡng và cung cấp đầy đủ, chính xác những thông tin cần thiết, nhất là tình hình của địa phương nơi đến cho cán bộ nắm vững, hiểu rõ. Chủ động bồi dưỡng, trang bị kiến thức, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, điều hành, đặc biệt là kiến thức về xây dựng Đảng, quản lý nhà nước… để hỗ trợ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Thứ năm, nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện quy định, cơ chế, thể chế, chính sách có liên quan.

Trung ương cần sớm xây dựng và ban hành quy định để cụ thể hóa, tạo sự thống nhất từ Trung ương đến địa phương và tạo sự thuận lợi trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện chủ trương bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương.

Để cán bộ từ địa phương khác đến làm bí thư tỉnh ủy, huyện ủy phát huy năng lực và làm việc hiệu quả, cần quy định kỹ ba nội dung quan trọng: Một là, sự khuyến khích, bảo vệ của cấp trên đối với cán bộ. Muốn vậy, phải có cơ chế ưu tiên bảo vệ người tài, bảo đảm tạo điều kiện cho người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện bộc lộ hết khả năng, dám nghĩ, dám làm, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng cán bộ được điều động từ nơi khác đến bị cô lập, bị tập thể cấp ủy hoặc các chức danh chủ chốt khác là người địa phương vô hiệu hóa... Cơ quan có thẩm quyền quản lý cán bộ cần phải theo dõi, giám sát chặt chẽ và can thiệp để hỗ trợ, bảo vệ kịp thời. Bên cạnh đó, cũng phải chuẩn bị phương án để rút cán bộ đó trong những điều kiện nhất định, bảo đảm không để bị mất cán bộ. Hai là, tăng cường kiểm tra, giám sát quyền lực đối với người đứng đầu. Phải có cơ chế và nhiều kênh khách quan để giám sát, đánh giá, xử lý, kiên quyết ngăn chặn “lợi ích nhóm”, “bè phái”, “cánh hẩu”…; không để người đứng đầu cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện lợi dụng, lạm dụng quyền lực, độc đoán, chuyên quyền; hoặc buông lỏng quản lý, “dĩ hòa vi quý”... Ba là, cần nhanh chóng hoàn thiện về cơ chế, chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến thực hiện chủ trương này. Những chế độ, chính sách phải được quy định thống nhất ở tầm quốc gia và cần phải tính toán đến mức độ tương quan giữa chế độ, chính sách ưu đãi đối với cán bộ được bố trí với chế độ, chính sách chung đối với cán bộ tại chỗ cho hợp lý, không tạo cảm giác đặc quyền, đặc lợi, sao cho công bằng, nhưng không cào bằng. Bên cạnh đó, cần chú ý thêm về chính sách hỗ trợ để cán bộ về thăm gia đình trong trường hợp chưa có điều kiện đưa cả gia đình riêng vào chung sống.

Thứ sáu, xây dựng một nền hành chính chuyên nghiệp từ Trung ương tới địa phương.

Một quốc gia muốn ổn định đều cần phải thiết lập được một nền hành chính công vụ chuyên nghiệp và độc lập. Các viên chức hành chính chỉ được làm những gì pháp luật cho phép, tuân thủ các chuẩn mực hành chính một cách chính xác. Các bí thư tỉnh ủy có thể được thay thế sau mỗi nhiệm kỳ, nhưng người đứng đầu bộ máy hành chính thì cần phải chuyên nghiệp liên tục. Khi nào có bí thư tỉnh mới đến, họ lại tham mưu để giúp người đứng đầu biết rõ giới hạn, thủ tục khi ra quyết định. Viên chức hành chính là một ngạch có thể chọn qua quá trình thi tuyển. Khi đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, cùng một nền hành chính công vụ chuyên nghiệp, các quy định, quy trình, quy chế được đồng bộ, bộ máy hoạt động chuyên nghiệp, thông suốt, hiệu quả thì việc luân chuyển, bố trí cán bộ nói chung và bố trí bí thư cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương nói riêng sẽ thuận lợi và đạt hiệu quả cao hơn./.

-------------------------

* TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, Trần Văn Thiết, Viện Khoa học tổ chức, cán bộ, Ban Tổ chức Trung ương

(1) Tháng 12-2008, tại Hội nghị Trung ương 9 khóa X, Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” và đề ra một số nhiệm vụ, giải pháp lớn về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ đến năm 2020; Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16-1-2012, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Kết luận số 24-KL/TWngày 5-6-2012, Bộ Chính trị, Về đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theoQuy định số 98-QĐ/TW, ngày 7-10-2017, của Bộ Chính trị, “Về luân chuyển cán bộ”; Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”; Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””.

(2) Nhiệm kỳ 2000 - 2005, Trung ương luân chuyển 23 cán bộ, trong đó 16/63 đồng chí được bố trí là bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương (chiếm 25,4%) (Khóa IX, Bộ Chính trị đã thực hiện chủ trương thí điểm luân chuyển, bố trí 6 chức danh cán bộ của tỉnh Hà Tây (cũ) không phải là người địa phương, gồm: bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND, giám đốc công an tỉnh, giám đốc sở kế hoạch đầu tư, giám đốc sở tài chính và viện trưởng viện kiểm sát nhân dân. Việc luân chuyển đồng thời 6 chức danh cán bộ không phải là người địa phương đã tạo ra phong trào, khí thế mới; là cơ sở để tỉnh luân chuyển, thay đổi 17 bí thư, phó bí thư, chủ tịch ủy ban nhân dân huyện; luân chuyển, tăng cường 97 trưởng, phó phòng thuộc các sở, ngành của tỉnh về làm trưởng, phó phòng cấp huyện; 67 trưởng, phó phòng cấp huyện về làm bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch UBND cấp xã; 10/14 huyện, thành phố có bí thư hoặc chủ tịch UBND, hoặc cả bí thư và chủ tịch UBND là cán bộ luân chuyển, không là người địa phương). Sau luân chuyển, 15 đồng chí được bố trí chức vụ cao hơn, trong đó có 5 đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị.

Nhiệm kỳ 2005 - 2010, Trung ương đã luân chuyển 39 đồng chí, trong đó bố trí 16/63 (25,4%) bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương. Sau luân chuyển, 14 đồng chí được bố trí chức vụ cao hơn, trong đó có 1 đồng chí được bầu vào Ban Bí thư, 1 đồng chí làm Phó Chủ tịch nước, 1 đồng chí làm Phó Thủ tướng Chính phủ.

Nhiệm kỳ 2010 - 2015, Trung ương đã luân chuyển 57 đồng chí, trong đó bố trí 16/63 (25,4%) bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương. Sau luân chuyển, 12 đồng chí được bố trí chức vụ cao hơn, trong đó 2 đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị. Trên cả nước, số lượng bí thư cấp huyện không là người địa phương chỉ có 291/715 (40,7%); có 24 tỉnh, thành phố đạt tỷ lệ bố trí trên 50%, trong đó 8 tỉnh, thành phố trên 75% bí thư không là người địa phương (Các tỉnh Hà Giang và Tây Ninh có 100% bí thư cấp huyện; Hà Giang, Phú Thọ, Lai Châu, Đắk Nông, Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu có 100% chủ tịch UBND cấp huyện không là người địa phương).

Nhiệm kỳ 2015 - 2020, thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, Bộ Chính trị đã bố trí bí thư không là người địa phương ở 23/63 tỉnh ủy, thành ủy (chiếm tỷ lệ 36,5%). 63 tỉnh ủy, thành ủy đã bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương, đạt tỷ lệ 62,7% (tương ứng với 443/707 huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); khu vực miền Bắc đạt tỷ lệ 63,2% (tương ứng với 208/329 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh); khu vực miền Trung - Tây Nguyên đạt tỷ lệ 58,04% (tương ứng với 83/143 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh); khu vực miền Nam đạt tỷ lệ 64,7% (tương ứng với 152/235 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh).

Nhiệm kỳ 2020 - 2025, cả nước có 27 bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương, đạt tỷ lệ 42,9%. Đáng chú ý, số cán bộ thực hiện quyết định của Bộ Chính trị về phân công, chỉ định nhân sự tham gia ban chấp hành, ban thường vụ và giới thiệu để bầu giữ chức bí thư tỉnh ủy, thành ủy đều trúng cử với tỷ lệ phiếu 100%. Tính đến tháng 7-2021, cả nước có 30/63 tỉnh ủy, thành ủy đã bố trí bí thư không là người địa phương, chiếm tỷ lệ 47,6%. Đến nay, cả nước có 36/63 bí thư tỉnh ủy, thành ủy không là người địa phương.

Đối với cấp huyện, tính đến cuối năm 2021, 100% các tỉnh, thành ủy trong cả nước thực hiện bố trí bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương, đạt tỷ lệ 73,4% (tương ứng với 516/703 huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh); trong đó, khu vực miền Bắc đạt tỷ lệ 75,7% (tương ứng với 249/329 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), khu vực miền Trung - Tây Nguyên đạt tỷ lệ 62% (tương ứng với 88/142 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh), khu vực miền Nam đạt tỷ lệ 77,2% (tương ứng với 179/232 quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh). Theo số liệu của Ban Tổ chức Trung ương, tính đến thời điểm tháng 3-2022, cả nước có 555 bí thư cấp ủy cấp huyện (chiếm 78,9%) không là người địa phương. Đến nay, có một số tỉnh ủy, thành ủy đã hoàn thành bố trí 100% bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương, đạt mục tiêu theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, như Quảng Ninh (14/14), Cao Bằng (10/10), Thái Bình (8/8), Hà Giang (11/11), Sơn La (12/12), Quảng Bình, Kon Tum (10/10), Đắk Nông (8/8), Bạc Liêu (7/7), Bến Tre (9/9), Cà Mau (11/11), Long An (15/15), Tây Ninh (12/12). Nhiều địa phương có tỷ lệ bí thư cấp ủy cấp huyện không là người địa phương rất cao, như Hà Nội (28/30), Quảng Ngãi (11/13), Đắk Lắk (14/15), Đà Nẵng (6/7), Lai Châu (7/8), Lạng Sơn (9/10), Bắc Kạn (6/8), Thanh Hóa (20/27), Hải Phòng (11/15), Hòa Bình (10/11), Bắc Giang (8/10), Điện Biên (9/10), Yên Bái (8/9), Lào Cai (8/9), Nghệ An (14/21)…

(3) Tại các hội nghị, hội thảo, các cuộc trao đổi, phỏng vấn và qua nhiều tài liệu nghiên cứu cho thấy, hầu hết các ý kiến đánh giá tốt chủ trương bố trí bí thư không là người địa phương và đề nghị thực hiện nhất quán đồng thời cả chức danh bí thư cấp ủy và chủ tịch UBND cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương.

DỰA VÀO DÂN ĐỂ XÂY DỰNG VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG!

     Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ thực trạng: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”... Cùng với đó, Đảng ta cũng nhận định, cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện trên diễn ra rất khó khăn, phức tạp, thực sự là vấn đề cấp bách đối với sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Để làm tốt công tác đấu tranh, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đòi hỏi phải có nhiều biện pháp cụ thể, kiên trì, với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, cần thấy rõ và phát huy có hiệu quả vai trò quan trọng của Nhân dân trong cuộc đấu tranh này.

Khi nói về mục tiêu, lý tưởng của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cũng đã chứng minh, muốn hoàn thành mục tiêu, lý tưởng của mình, muốn trường tồn và phát triển vững mạnh, Đảng phải gắn bó máu thịt với Nhân dân. Đảng phải biết dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò của Nhân dân.

Những thành tựu to lớn mà Đảng và Nhân dân ta đã giành được 36 năm đổi mới xây dựng và bảo vệ đất nước đã chứng minh rất rõ vai trò to lớn của Nhân dân. Một trong những bài học sâu sắc mà Đảng ta rút ra đó là: Phải luôn quán triệt quan điểm “Dân là gốc”, vì lợi ích của Nhân dân, dựa vào Nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của Nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cuộc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta những năm qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Nhiều biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên đã được nhân dân phát hiện, chỉ rõ, đặc biệt là những hành vi tham nhũng, tiêu cực.

Từ thực tiễn trên, có thể khẳng định rằng: Đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ là trách nhiệm của các tổ chức đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội, mà là trách nhiệm của toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Nhân dân là tai mắt của Đảng”. Đặc biệt, trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh toàn diện nói chung, trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nói riêng, Nhân dân đóng vai trò rất quan trọng. Đúng như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”.

Với sự giúp đỡ, ủng hộ của nhân dân thì công việc dù khó khăn phức tạp đến mấy, nhất định Đảng ta sẽ vượt qua, và công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhất định sẽ đạt được mục tiêu đề ra, để Đảng ta mãi mãi “là đạo đức, là văn minh”, xứng đáng với niềm tin tưởng tuyệt đối của Nhân dân./.
Môi trường ST.

MỘT QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆT NAM LÀM CẢ THẾ GIỚI NGẠC NHIÊN!

         Theo Thông tin từ Chính phủ 2 nước thì Việt Nam đã quyết định giao một phần cảng Vũng áng cho bạn Lào. Bạn sẽ toàn quyền xuất - nhập hàng hóa tại Cảng Vũng Áng cũng như ở tất cả cảng biển Việt Nam, thuế phí cũng như thuế của các doanh nghiệp của Việt Nam. Đây là sự sẻ chia của Việt Nam với Lào vì bạn là nước duy nhất trong khối Asean không có biển. 

Thế nhưng từ nay, giấc mơ người dân Lào đã thành hiện thực. Lào cũng quyết định khởi công xây dựng tuyến giao thông Viên Chăn - Vũng Áng trở thành tuyến giao thông chiến lược để Lào tự chủ lưu thông hàng hóa ra thế giới và ngược lại. 

Thỏa thuận giữa Việt Nam và Lào về Cảng Vũng Áng tiếp tục thể hiện sâu sắc quan hệ mẫu mực có một không hai trên thế giới. Giữa hai dân tộc không có sự áp bức và nô dịch, không có hiềm khích và thù hằn, từ xa xưa là láng giềng chí cốt của nhau. Nhân dân hai nước từng có cả ngàn năm giúp đỡ, che chở lẫn nhau. Việt Nam và Lào không chỉ là đối tác chiến lược mà còn là anh em, được đặt nền tảng từ thời Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Kaysone Phomvihane. Chứng kiến những khó khăn mà Lào gặp phải, Việt Nam đã quyết định kéo “biển” về cho người anh em của mình, thể hiện đúng truyền thống "hạt muối cắn đôi cọng rau xẻ nửa" trong trong lịch sử vẫn in đậm cho đến ngày nay... 

Có lẽ trên thế giới hiếm có tình cảm đặc biệt này. Đối với Việt Nam, ai cũng là bạn của ta, nhưng một tình bạn sắt son mãi mãi ngàn đời không ai khác đó là Cuba, Lào và Liên Xô trước đây - nước Nga ngày nay. Thế giới đang ồn ào chia phe để tìm kiếm lợi ích thì Việt Nam đã làm 1 điều đặc biệt với người anh em làm cả thế giới trầm trồ, ngạc nhiên!
Yêu nước ST.

Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới

 

Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc.

Như thế cũng là tự diễn biến

 

Ông bạn cùng cơ quan tôi nhận quyết định nghỉ hưu thì đề nghị ngay cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng về nơi cư trú.

Hút thuốc lá – lợi ít hại nhiều

 


Xã hội hiện đại giúp cho con người trở nên văn minh hơn, song nó cũng luôn ẩn chứa những mặt trái với các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Hút thuốc lá chưa phải là một tệ nạn mang

Rừng – nguồn tài nguyên quý giá


 Rừng nguồn tài nguyên mà thiên nhiên ban tặng cho thế giới. Nước ta là một nước may mắn với diện tích rừng rộng lớn. Tài nguyên rừng đem lại cho đất nước ta rất nhiều lợi ích. Nhưng

Rác thải nhựa – ô nhiễm trắng

 


Là quốc gia đang phát triển, Việt Nam phải đối mặt với nhiều vấn đề về suy thoái, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, đặc biệt là ô nhiễm do rác thải nhựa hay còn gọi là “ô

Lòng biết ơn

 

Từ xa xưa, lòng biết ơn luôn được cha ông ta đề cao, phát huy như một truyền thống quý báu:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng.

THỰC HÀNH NGUYÊN TẮC ĐẠO ĐỨC "NÓI ĐI ĐÔI VỚI LÀM"

 “Nói đi đôi với làm” là một trong những nguyên tắc căn bản của đạo đức cách mạng. Đồng thời, “Nói đi đôi với làm” còn là yêu cầu, phương châm, lẽ sống của  người cán

“Con đường tiến tới xã hội chủ nghĩa của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không ai ngăn cản nổi”.

 


Câu nói trên được trích trong phát biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại tiệc chiêu đãi của Chủ tịch Dapôtốtxki nước Cộng hòa Tiệp Khắc ngày 20 tháng 7 năm 1957 nhân dịp

Lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 



“ …Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây

Học tập và làm theo lời Bác dạy vè phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực

 


“Tệ tham ô, lãng phí, quan liêu là cái xấu xa do xã hội cũ để lại, như cái ung nhọt còn sót lại trên thân thể của người khổng lồ. Công khai và mạnh dạn gạt bỏ cho thật sạch những ung nhọt ấy thì thân thể càng mạnh khỏe thêm”.

Quân đội “tinh, gọn, mạnh” vì hòa bình

 


Lo giữ nước từ khi chưa nguy” là bài học vô cùng quý báu của dân tộc ta được đúc kết qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, đến nay vẫn còn nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Tuân thủ các quy luật khách quan, kế thừa và phát triển những bài học ông cha ta

BỘ ĐỘI CỤ HỒ” VÀ KHÁT VỌNG HÒA BÌNH CHO THẾ GIỚI


 Là một đất nước từng đi qua chiến tranh, Việt Nam hiểu rõ giá trị của hòa bình. Bản thân những người lính sinh ra khi đất nước đã im tiếng súng lại càng trân trọng hơn những điều

MỘT DÂN TỘC KHÔNG BIẾT CÚI ĐẦU


 Dân tộc Việt Nam đã phải trải qua mấy nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, hàng trăm năm chiến tranh triền miên, gánh chịu biết bao mất mát đau thương, nên thấu hiểu sâu sắc giá trị của HÒA BÌNH. Không một thế lực nào có thể phủ nhận được điều đó và

VĂN MINH MỸ VÀ GIÁ TRỊ LIÊN XÔ

 Hơn 40 năm trước người Nga giúp Việt Nam chinh phục dòng Sông Đà hung dữ, xây dựng nhà máy thủy điện ngăn lũ cho đồng bằng Bắc Bộ. Hơn 40 năm trôi qua, bây giờ Liên Xô cũng không còn, những kỹ sư Liên Xô trên đại công trường Thủy điện Hòa

HÃY TRÂN QUÝ GIÁ TRỊ CỦA HÒA BÌNH

 


"Lịch sử của Việt Nam được viết bởi những cuộc chiến tranh và những chiến thắng. Đó là một nỗi niềm tự hào mà không phải dân tộc nào cũng có được, nhưng bên cạnh niềm tự hào thì còn những mất mát. Một thế hệ chiến thắng cũng chính là một thế hệ phải nếm trải đủ những đau thương."

VIỆT NAM LÊN TIẾNG VỀ TÌNH HÌNH Ở EO BIỂN ĐÀI LOAN!

 


Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nêu rõ: Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách “một Trung Quốc” và mong muốn các bên liên quan kiềm chế, không làm căng thẳng tình hình eo biển Đài Loan.

Ngày 3/8, trả lời câu hỏi phóng viên về tình hình eo biển Đài Loan hiện nay, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng nêu rõ:

"Việt Nam kiên trì thực hiện chính sách “một Trung Quốc” và mong muốn các bên liên quan kiềm chế, không làm căng thẳng tình hình eo biển Đài Loan. Đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác và phát triển của khu vực và trên thế giới", bà Hằng khẳng định.

Trước đó, tối 2/8, máy bay quân sự Mỹ đã đưa Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi tới Đài Loan, đánh dấu chuyến thăm của một trong những quan chức cấp cao nhất của Mỹ tới hòn đảo sau 25 năm.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã phát đi một loạt cảnh báo. Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra tuyên bố nêu rằng đây là “hành động khiêu khích chính trị nghiêm trọng” và phản đối mạnh mẽ. Quân đội Trung Quốc cũng thông báo sẽ tập trận bắn đạn thật tại 6 vùng biển và bầu trời xung quanh đảo Đài Loan vào các ngày 4 - 7/8. St

 

ĐẨY NHANH HOÀN THIỆN DỰ ÁN LUẬT PHÒNG KHÔNG NHÂN DÂN

 


Sáng 3-8, Bộ Quốc phòng tổ chức Hội nghị Ban chỉ đạo lập đề nghị xây dựng Dự án Luật Phòng không nhân dân. Thượng tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Trưởng ban chỉ đạo, chủ trì hội nghị.

Dự hội nghị có Trung tướng Nguyễn Trọng Bình, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó trưởng ban chỉ đạo; Trung tướng Vũ Văn Kha, quyền Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, Phó trưởng ban Thường trực ban chỉ đạo; đại biểu Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ; đại biểu một số cơ quan, đơn vị thuộc Bộ Quốc phòng.

Hội nghị nhằm đánh giá quá trình tổ chức, triển khai quyết định của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và kế hoạch lập đề nghị xây dựng Dự án Luật Phòng không nhân dân của ban chỉ đạo; thảo luận, đưa ra những quan điểm chỉ đạo trong lập đề nghị xây dựng dự án Luật Phòng không nhân dân và định hướng, phân công các cơ quan, đơn vị trong tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ lập đề nghị xây dựng dự án luật trong thời gian tới, bảo đảm chất lượng, đúng quy trình và thời gian quy định.

Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, cho ý kiến về sự cần thiết ban hành luật; mục đích, quan điểm xây dựng luật; đối tượng phạm vi điều chỉnh của luật; tổ chức, xây dựng, huy động lực lượng phòng không nhân dân; huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng, diễn tập phòng không nhân dân; quản lý Nhà nước đối với phòng không nhân dân; chế độ, chính sách đối với lực lượng phòng không nhân dân…

Phát biểu kết luận hội nghị, Thượng tướng Nguyễn Tân Cương biểu dương cơ quan thường trực ban chỉ đạo, tổ nghiên cứu đã chủ động làm tốt công tác chuẩn bị, nghiên cứu soạn thảo các văn bản lập đề nghị xây dựng Dự án Luật Phòng không nhân dân bảo đảm chặt chẽ, đúng tiến độ. Đồng thời cho rằng, việc xây dựng Luật Phòng không nhân dân phải quán triệt đúng chủ trương, quan điểm của Đảng; Hiến pháp, pháp luật Nhà nước, tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật; đồng thời hướng tới mục tiêu phát huy sức mạnh tổng hợp từ Trung ương đến địa phương và toàn dân trong quản lý, bảo vệ vùng trời Tổ quốc, xây dựng thế trận phòng không nhân dân rộng khắp, toàn dân, toàn diện, nhiều tầng, nhiều hướng, không để bị động, bất ngờ, làm chủ trong mọi tình huống; góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đồng chí Tổng Tham mưu trưởng yêu cầu cơ quan thường trực ban chỉ đạo, tổ nghiên cứu tiếp thu các ý kiến của các đại biểu tại hội nghị để bổ sung, chỉnh lý hoàn chỉnh dự thảo các văn bản; tổ chức khảo sát đánh giá tác động của chính sách, những vấn đề hạn chế bất cập về thể chế và tổ chức triển khai thực hiện công tác phòng không nhân dân ở đơn vị, địa phương, phục vụ công tác nghiên cứu soạn thảo các văn bản lập đề nghị xây dựng dự thảo hồ sơ đề nghị xây dựng ự án Luật Phòng không nhân dân.

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng Bộ Quốc phòng, các cơ quan chuyên môn có nhiều kinh nghiệm xây dựng luật để xây dựng dự luật bảo đảm tính khả thi, đúng quy trình, trình tự quy định; tổ chức hội nghị, hội thảo ở nhiều nơi, nhiều cấp tranh thủ ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, các đồng chí có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này; chủ động phối hợp để các bộ, ngành, địa phương có liên quan cho ý kiến tổng hợp, tiếp thu, giải trình, chỉnh lý hồ sơ đề nghị, báo cáo Bộ Quốc phòng gửi Bộ Tư pháp thẩm định và trình Chính phủ đúng thời gian quy định.St

 

NGẠI PHÊ BÌNH, GÓP Ý - BIỂU HIỆN CỦA SỰ SUY THOÁI


 Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ rõ: Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa".

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo không ngừng tiếp nhận những “con rối”


Không riêng gì Việt Nam, các nước đang phát triển thường xuyên là mục tiêu của một số tổ chức phi chính phủ khoác áo nhân quyền, tự do dân chủ như CPJ. Tần suất xuyên tạc, vu cáo của họ càng lúc càng thô thiển, bất chấp tình hình thực tế khách quan tại các nước.

Luận điệu xuyên tạc của Ủy ban Bảo vệ Nhà báo


Nếu Việt Nam không có tự do ngôn luận, e rằng ngay bài đầu tiên bày tỏ sự khác biệt chính kiến, Phạm Đoan Trang đã bị “bắt bớ” (từ mà các tổ chức như CPJ vẫn hay dùng) ngay lập tức, chứ không phải đợi

“NƯỚC VIỆT NAM LÀ MỘT KHỐI THỐNG NHẤT VỀ MẶT DÂN TỘC, LỊCH SỬ VÀ KINH TẾ, VÀ KHÔNG MỘT LỰC LƯỢNG NÀO TRÊN THẾ GIỚI CÓ THỂ CHIA CẮT ĐƯỢC VIỆT NAM”

 

“Nước việt nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử và kinh tế, và không một lực lượng nào trên thế giới có thể chia cắt được việt nam” là sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Diễn từ tiệc chiêu đãi ở Bêôgrát (Nam Tư)”, Báo Nhân dân đăng trên số 1248, ngày 08 tháng 8 năm 1957.

Trong chuyến thăm và làm việc của Đoàn cao cấp Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đến Nam Tư, phát biểu tại tiệc chiêu đãi của nước chủ nhà dành cho Đoàn ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông báo cho bạn biết về việc đế quốc Mỹ đã nhảy vào thế chân thực dân Pháp, cấu kết với bọn bù nhìn ở miền Nam Việt Nam bội ước, phá hủy các điều ước đã ký tại Hiệp nghị Giơnevơ, biến đường giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17 thành một đường biên giới, cố tình chia cắt đất nước Việt Nam lâu dài.

Với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lấy độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn thể dân tộc Việt Nam. Lời của Bác là ý chí sắt đá của Đảng, quyết tâm của cả dân tộc, động viên quân và dân cả nước giữ vững ý chí, quyết tâm, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa anh em để chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Quân đội nhân dân Việt nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, khắc ghi lời Bác Hồ dạy luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao đã cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ toàn quân cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”./.


Ủy ban Bảo vệ Nhà báo đã làm gì với Việt Nam?

 


Sau sự việc trao giải “Tự do báo chí” cho đối tượng Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Mẹ Nấm), CPJ tiếp tục thực hiện một chuỗi các chiêu trò nhằm gây sức ép, buộc chính quyền Việt Nam trả tự do ngay lập tức cho các đối tượng Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Đình Lượng, Trần Thị Nga… Họ hy vọng có thể châm ngòi cho cái gọi là “phong trào đấu tranh vì tự do, dân chủ nhân quyền và tự do báo chí”. Họ cũng

Ủy ban Bảo vệ Nhà báo và những “con rối” đứt dây


Việc Ủy ban Bảo vệ Nhà Báo (CPJ) công bố trao tặng cái gọi là “Giải thưởng Tự do Báo chí Quốc tế năm 2022” cho đối tượng Phạm Đoan Trang đã thấy rõ bản chất của tổ chức này.

NHỚ LỜI BÁC DẠY “CHÍNH TRỊ LÀ LINH HỒN, CHUYÊN MÔN LÀ CÁI XÁC. CÓ CHUYÊN MÔN MÀ KHÔNG CÓ CHÍNH TRỊ THÌ CHỈ CÒN CÁI XÁC KHÔNG HỒN. PHẢI CÓ CHÍNH TRỊ TRƯỚC RỒI CÓ CHUYÊN MÔN”.

 

Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên, đầu tháng 8 năm 1959.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy, nhà giáo dục vĩ đại. Cả cuộc đời Người đã đào tạo biết bao thế hệ cán bộ, những chiến sĩ ưu tú cho cách mạng và dành nhiều tình cảm quan tâm đến với các thầy, cô giáo. Bác đặc biệt đề cao vai trò của người thầy, bởi người thầy không chỉ dạy chữ mà còn dạy người, không chỉ truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm, khơi nguồn sáng tạo mà còn là tấm gương mẫu mực về đạo đức cho học sinh noi theo qua từng giờ lên lớp. Người thầy là những người “đạo cao”, “đức trọng”, người có uy tín được xã hội tôn kính. Có thể nói, ở bất cứ xã hội nào nghề dạy học luôn được coi là nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng tạo. Do vậy, người thầy phải có lập trường tư tưởng đúng, bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng, có chuyên môn giỏi và không ngừng được phát triển, sáng tạo thì mới hoàn thành trọng trách vẻ vang mà xã hội tin tưởng trao gửi.

Thấu triệt lời Bác dạy, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn khắc ghi tinh thần “chính trị là linh hồn” mà Bác đã huấn thị “Tên Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự” và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tập trung nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội; phù hợp với yêu cầu, nội dung của nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới.

Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính qui, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, phải tập trung giáo dục, rèn luyện bộ đội có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy. Nói và làm đúng nghị quyết; ra sức học tập, tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, trình độ, năng lực, phương pháp, tác phong công tác đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; giữ vững và không ngừng phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, các tổ chức quần chúng vững mạnh xuất sắc./.