Thứ Tư, 1 tháng 3, 2023

CẦN VẠCH TRẦN LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CUỘC ĐẤU PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

 Luận điệu xuyên tạc cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cần vạch trần, phản bác

            Chủ trương đúng, quyết sách hay

            Tham ô, tham nhũng, tiêu cực là “những căn bệnh nan y, nguy hiểm” không chỉ gây hại về kinh tế, mà còn làm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; làm hư hỏng cán bộ, đảng viên; suy yếu bộ máy của Đảng, Nhà nước; xói mòn lòng tin của nhân dân; làm cho trắng đen, thật giả, đúng sai, phải trái, tốt xấu và các chuẩn mực đạo đức, văn hóa, xã hội “bị đảo lộn”…

            Đây là một trong bốn nguy cơ đe dọa sinh mệnh của Đảng, sự an nguy của chế độ, lợi ích quốc gia – dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “cuộc chiến đấu trong thời bình” vô cùng gay go, quyết liệt và phức tạp, là “cuộc đấu trí, đấu lý và sức mạnh” giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, cái tiến bộ và thoái bộ; giữa đạo đức cách mạng và kẻ địch “giấu mặt” – những thói hư, tật xấu, tệ tham ô, lãng phí, quan liêu…, những thế lực “ngầm” cản bước, ngăn đường chúng ta đi lên CNXH, phá hoại cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của nhân dân.

            Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, từ năm 2013, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được thành lập; công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng được tiến hành ráo riết, quyết liệt, được nhân dân cả nước hoan nghênh, đồng tình, ủng hộ vì cuộc chiến đấu này đã và đang phát triển đúng định hướng, đạt nhiều kết quả quan trọng.

            Qua thực tiễn tổ chức lãnh đạo, chỉ đạocuộc chiến đấu này, nhất là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được bổ sung, hoàn thiện,đi vào nền nếp, có chiều sâu, đã gắn kết chặt chẽ, đồng bộ, thống nhất giữa phòng vớichống”; giữa phòng, chống tham nhũng với phòng, chống tiêu cực; đấu tranh phòng, chống tham nhũngtiêu cực với phòng, chống các quan điểm sai trái trong lĩnh vực này, đem lại luồng sinh khí mới trong xã hội ta.

            Những ý kiến khác chiều, quan điểm lệch lạc

            Thế nhưng, do nhận thức, trình độ hiểu biết và quan niệm khác nhau, lại được các thế lực xấu “hậu thuẫn”, trên các trang mạng xã hội, tài liệu phản động vẫn còn có những ý kiến khác nhau về cuộc chiến đấu cam go, quyết liệt và phức tạp này. Ngoài các thông tin, ý kiến đánh giá tốt, cơ bản đồng tình, ủng hộ; đó đây, vẫn còn không ít ý kiến chưa đồng thuận, thậm chí trái chiều, bài xích, châm chính, xuyên tạc bản chất cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực rất đáng để chúng ta suy ngẫm, phải có biện pháp tăng cường xây dựng, củng cố niềm tin của nhân dân vào cuộc chiến đấu không nghỉ, không ngừng.

            Gần đây, có ý kiến cho rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta là “cuộc đấu đá nội bộ”, là “cuộc thanh trừng”, loại trừ lẫn nhau giữa các “phe cánh”, “sự tranh giành quyền lực” giữa phe Đảng với các phe Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ và các “nhóm lợi ích” của phái miền Bắc, miền Trung và miền Nam” (!) Có ý kiến cho rằng “đấu tranh phòng, chống tham nhũng là cái cớ để duy trì sự độc tôn, độc quyền, toàn trị của đảng cộng sản”, là “sự thắng thế của phe Đảng đối với phe Nhà nước”, v.v..

            Ý kiến khác lại cho rằng “nếu Đảng quá tập trung vào đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ làm cho đội ngũ cán bộ “nhụt chí”, vì lo sợ “mất chức, mất quyền” nên “chùn chân, lùi bước”, không dám nghĩ, dám làm vì sợ trách nhiệm “sợ sai lầm trong quá khứ bị khui ra”, “lòi đôi tay nhúng chàm và cái đuôi tham nhũng trước đây”; vả lại, “làm nhiều thì khuyết điểm nhiều, lại không thể chia nhau lợi ích, nhận quà biếu xén” nên tạm “dừng tay, nghe ngóng, chờ thời”. Đây là nguyên nhân của sự trì trệ, “chậm giải ngân” trong thời gian qua; đã làm “chậm” sự phát triển của đất nước.

            Một số ý kiến khác lại cho rằng giữa tham nhũng và tiêu cực không có liên hệ gì với nhau, vì “tham nhũng là tham nhũng”, “tiêu cực là tiêu cực”, mỗi loại có phạm vi, mức độ, đối tượng khác nhau; không thể cấy ghép hai thứ này vào với nhau “thành một phạm trù” để bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ, tăng thêm quyền lực cho Tổng Bí thư, cho Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng; làm như thế là phình to bộ máy, đưa “tay chân”, “cánh hẩu vào tổ chức này để tăng cường lực lượng, tạo uy thế so với các nhóm lợi ích đảng” và “bội chi ngân sách, tăng gánh nặng cho dân”.

            Có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc bản chất cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực với động cơ sai, dụng ý xấu; cho rằng tham nhũng, tham ô, nhũng nhiễu là hiện tượng xã hội tiêu cực, xấu xa mà thời nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có. Đó là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, của “chế độ đảng cộng sản độc quyền, toàn trị”. Hơn nữa, “các quốc gia văn minh cũng tiến hành đấu tranh chống tham nhũng nhưng không đạt hiệu quả”.

            Từ đó, họ cho rằng “tham nhũng là một phần tất yếu của cuộc sống”; “xã hội cần có nó để có dân chủ, các phe phái kiểm soát lẫn nhau, kiềm chế lẫn nhau”. Vì thế, không nhất thiết phải thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; không cần gán ghép “tham nhũng” với “tiêu cực”; không cần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; không cần “chạy đôn chạy đáo” làm gì cho mệt sức, tốn công, tốn kém tiền thuế của dân; để công sức, tiền của làm việc khác, v.v..

             Xu thế tất yếu khách quan, không thể đảo ngược

            Phải nói ngay rằng các ý kiến nêu trên là sai trái, tỏ rõ “thái độ coi thường Đảng, khinh nhờn pháp luật Nhà nước”, là sự phản ứng tiêu cực với cách nhìn phiến diện, một chiều, thiếu trách nhiệm, luôn “bàn lùi”, “phá ngang”, chẳng khác gì “những kẻ chọc gậy bánh xe”, “nhăm nhe phá đám”, là sự đồng lõa với các xấu, cái ác; cản trở tiến bộ xã hội; chống đối chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

             Những người này chỉ là số ít, phần lớn là những phần tử cơ hội, bất mãn, có thâm thù với chế độ; không thỏa mãn với sở thích, ý muốn của cá nhân nên đã theo đuôi bọn xấu; cố tình không hiểu hoặc không muốn thừa nhận quyết tâm chính trị của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là khi cuộc chiến đấu này do Đảng lãnh đạo đã trở thành phong trào, một xu thế không thể đảo ngược, phản ánh đúng “lòng dân, vận nước”; được đông đảo cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân đồng tình, ủng hộ; được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

             Chúng ta cực lực phản đối các quan điểm sai trái, thái độ, hành vi, lời nói, phát ngôn thiếu trách nhiệm, luôn bài xích, kích động, xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cũng như phủ nhận sự cần thiết phải kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xuyên tạc vai trò, trách nhiệm của những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và người dân “đứng nơi đầu sóng, ngọn gió” và tự giác, tự nguyện tham gia cuộc chiến đấu này.

            Người có lương tâm và liêm sỉ chắc chắn là không bao giờ chấp nhận, tha thứ cho những hành vi ăn cắpăn bớt, ăn chặn của công; lấy tiền tài, của cải, vật chất của tập thể để làm của riêng hoặc lợi dụng chức quyền đểo ép người khác “biếu xén”, “cho, tặng”, hối lộ, dưới nhiều hình thức… với động cơ không trong sáng; dùng những đồng tiền bất lương để tiêu xài, ăn chơi xa sỉ, làm giàu bất chính và cực lực phản đối các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc bản chất cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng lãnh đạo.

            Đặc biệt, sẽ là sai lầm nếu ai đó lợi dụng uy quyền, chức vụ đang nắm giữ để “rung chà cá nhảy”, “thả thính, quăng chài” nhằm vơ vét, làm giầu cho cá nhân, gia đình, ê kíp, lợi nhóm; sử dụng tiền, vàng có được để xây nhà lầu, “biệt thự, phủ chúa”, sắm xe hơi sang trọng, dùng đồ đắt tiền, cho con cháu đi du học nước ngoài với chi phí hàng trăm ngàn đô la mỗi năm, trong khi đất nước còn nghèo, dân còn khổ; đồng lương chỉ đủ sống… Chúng ta cần phải vạch mặt, chỉ tên những người tung tin xấu, độc; kiên quyết đưa “lũ sâu mọt” ra ánh sáng, phải nghiêm trị chúng theo đúng pháp luật Việt Nam…

            Tham nhũng và tiêu cực dính chặt vào nhau, cùng tương tác, gây hại cho dân, cho nước. Tham nhũng và tiêu cực không phải là “hai lĩnh vực khác nhau” như một số người suy nghĩ “siêu hình”, viết bài, tung tin “bào chữa”, bênh vực cho hành vi sai trái ấy.So với “tham nhũng” thì “tiêu cực” có nghĩa rộng hơnlà những hành vi có liên quan đến tham nhũng; đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.Còn tham nhũng,đương nhiên là một loại hành vi tiêu cực nhưng do người có chức, có quyền thực hiện, là biểu hiện cụ thể của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sốngcó mối quan hệ chặt chẽ với nhau, vào hùa với nhau phá hoại công cuộc đổi mới đất nước.

            Nguồn gốc sản sinh ra tham nhũng là do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo  đức, lối  sống. Ở đây, tiêu cực là môi trường làm nảy  sinh tham nhũng và chính tham nhũng tác động trở lại làm trầm trọng hơn tình trạng tiêu cực. Nó giống như “một con đỉa hai vòi – một vòi là tham nhũng, vòi kia là tiêu cực”. Vì vậy, phòng, chống tiêu cực phải gắn chặt với phòng chống tham nhũng, phải chặt đứt cả hai vòi của con đỉa. Cần phải xác định cho rõ: phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là đặc biệt cần thiết vì nó là gốc của tham nhũng; không thể tách rời hai vấn đề trên. Vì lẽ đó, Đảng ta phải huy động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, cả hệ thống chính trị để cùng vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, phản bác các quan điểm sai trái trong lĩnh vực này.

            Đến nay, điều đáng mừng là “trên nóng dưới cũng nóng”, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Niềm tin, sự kỳ vọng của nhân dân ngày càng được củng cố vững chắc bởi tất cả 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và nhanh chóng đi vào hoạt động, đạt được những kết quả ban đầu đáng khích lệ.

            Sự thật nói lên tất cả; phẩm giá khẳng định niềm tin

            Việc xử lý kịp thời, nghiêm minh và công khai, không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai, hễ vướng vào tham nhũng và hành vi bao che cho nó cho dù nó có chạy trốn ở đâu cũng không thể thoát tội. Tính nhân văn, nhân đạo của việc xử lý tham nhũng, tiêu cực là để “trị bệnh cứu người”, là để cảnh báo, răn đe, giáo dục, phòng ngừa là chính nhằm thực hiện “bốn không”: “không thể” – “không dám” – “không muốn” – “không cần” tham nhũng, tiêu cực. Ai đó xuyên tạc bản chất cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “cuộc đấu đá nội bộ”, “thanh trừng lẫn nhau” là hết sức vô lý, không thể chấp nhận.

            Có thể khẳng định các chủ trương, quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là hợp lòng dân, vận nước, đúng ý Đảng; là sự tự giác, tự tin cùng vào cuộc đấu tranh, thể hiện sự thống nhất cao về ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; biểu hiện đáng mừng nhất là trong công tác cán bộ; tình trạng chạy chức, chạy quyền, cục bộ, địa phương, “thân quen”, “cánh hẩu”, “lợi ích nhóm” đã giảm hẳn; các luận điệu tuyên truyền sai trái về vấn đề này đã được người dân cảnh giác cao.

            Luận điệu cho rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là “cuộc đấu đá nội bộ”, “thanh trừng lẫn nhau” là vu cáo, xuyên tạc sự thật. Nếu như có hiện tượng ấy thì làm sao lòng dân, vận nước hưng thịnh, nhân dân ta có được sự đoàn kết, thống nhất như hôm nay; làm sao nước ta có được cơ ngơi, tiền đồ, tiềm lực, uy tín, vị thế quốc tế như bây giờ.

            Hãy nhìn lại tất cả các vụ xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự của Nhà nước trong hơn 10 năm qua đều đã cho thấy rõ quyết tâm, nỗ lực của Đảng, Nhà nước ta mạnh mẽ biết dường nào. Đảng ta đã nói là làm; nói được, làm được. Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không chỉ là tuyên ngôn mà trở thành quyết tâm chính trị và hành động thực tế. Hãy xem xét kỹ các số liệu, tài liệu về kết quả 10 năm kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (2013-2023) có thể khẳng định chân lý. Sự thật nói lên tất cả; phẩm giá khẳng định niềm tin; uy tín, danh dự người đảng viên là điều thiêng liêng nhất. Các luận điệu sai trái, xuyên tạc cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã thất bại; không thể ngăn bước, cản đường chúng ta đi tới (!).

Cán bộ, đảng viên Quân đội phải luôn đi đầu trong phát huy trách nhiệm nêu gương

Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, là đội quân cách mạng, bách chiến bách thắng, giàu đức hy sinh, hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Được các giai tầng trong xã hội đặt niềm tin, tình cảm và trở thành chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước. Bởi quân đội đã chăm lo giáo dục, trui rèn, tôi luyện được một đội ngũ cán bộ, đảng viên trung kiên, gương mẫu về mọi mặt. Từ khi thành lập đến nay, suốt hơn 78 năm qua, quân đội ta luôn gắn bó, đồng hành với những chặng đường xây dựng, phát triển của đất nước và gắn liền với sự chăm lo giáo dục, rèn luyện, lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong sâu thẳm trái tim của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam, yêu Tổ quốc cũng là yêu Đảng, yêu nhân dân cũng là yêu đất nước, vì từ lâu “Ý Đảng, lòng dân, nghĩa nước” đã hòa quyện vào nhau, trở thành sức mạnh niềm tin thôi thúc lớp lớp Bộ đội Cụ Hồ sẵn sàng xả thân, cống hiến cho những mục tiêu cao cả của dân tộc. Sức mạnh của quân đội phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố giữ vai trò quyết định, bảo đảm cho quân đội luôn giữ vững bản chất cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, Tổ quốc và nhân dân, đó là đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nhận thức sâu sắc điều đó, những năm qua, hầu hết cán bộ, đảng viên trong quân đội đã nêu cao ý chí, trách nhiệm, nỗ lực rèn luyện, học tập, công tác, thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ, đảng viên đã trở thành tấm gương sáng về lòng tận tụy, ý thức dấn thân, tinh thần xông pha vào những việc khó, nơi khó, miệt mài học tập, siêng năng rèn luyện, chăm chỉ lao động sáng tạo và giành được nhiều kết quả, thành tích cao trong công tác. Cán bộ, đảng viên đã chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, giữ gìn lối sống lành mạnh, giản dị, gần gũi với chiến sĩ, gắn bó với nhân dân, qua đó góp phần giữ vững và làm đẹp thêm hình ảnh cao quý Bộ đội Cụ Hồ. Tuy nhiên, một phần do tác động từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường và xã hội giao lưu hội nhập, phần khác do thiếu ý thức rèn luyện, một số cán bộ, đảng viên quân đội tuy chưa bị phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, "tự chuyển hoá". Những biểu hiện đó là chưa đề cao trách nhiệm nêu gương, còn có tư tưởng trung bình chủ nghĩa, suy giảm ý chí phấn đấu. Cùng với việc một vài cấp ủy, tổ chức chỉ huy có biểu hiện đoàn kết hình thức, xuôi chiều, thì cũng có một số cán bộ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, áp đặt cá nhân, chưa tôn trọng dân chủ nội bộ và ý kiến đóng góp của cấp dưới. Một số cán bộ, đảng viên ở một vài đơn vị, doanh nghiệp chưa thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác quản lý đất quốc phòng, quản lý tài sản công dẫn đến những vi phạm đáng tiếc, khiến các cơ quan có thẩm quyền phải xử lý kỷ luật, thậm chí có trường hợp bị xử lý hình sự. Mặc dù số cán bộ, đảng viên mắc khuyết điểm, vi phạm và bị xử lý kỷ luật chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ, nhưng cũng ít nhiều làm ảnh hưởng đến truyền thống, uy tín, danh dự của đơn vị và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ. Từ những sai sót, vi phạm này đã tạo cơ hội cho các thế lực thù địch, phản động, phần tử cực đoan lợi dụng suy diễn, quy chụp, thổi phồng khuyết điểm, làm phức tạp và nghiêm trọng hóa vấn đề hòng mưu đồ chống phá quân đội, gây hoài nghi niềm tin trong nhân dân đối với quân đội. Do vậy, trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, đội ngũ cán bộ, đảng viên cũng phải giữ vững lập trường, bản lĩnh chính trị; kiên trì rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh; kiên quyết tránh xa và không a dua làm theo những điều sai trái, tiêu cực, phương hại đến truyền thống quân đội và uy tín, danh dự Bộ đội Cụ Hồ. Mỗi cán bộ, đảng viên quân đội phải tự giác gương mẫu làm trong sạch chính mình, qua đó góp phần bảo đảm cho quân đội nói chung, mỗi đơn vị nói riêng trở thành “thành lũy” về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ Đảng trong tình hình mới, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên quân đội càng phải đề cao trách nhiệm nêu gương để phát huy hình ảnh tích cực của mình trong hệ thống chính trị, trong xã hội. Khi cán bộ, đảng viên quân đội “nhân đôi” trách nhiệm nêu gương là thiết thực góp phần bảo vệ, giữ vững trận địa chính trị tư tưởng của Đảng trong quân đội.

TUYÊN NGÔN CỦA ĐCS LUÔN GIỮ NGUYÊN GIÁ TRỊ

             Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản được C.Mác và Ph.Ăngghen soạn thảo vào tháng 2/1848. Đây không chỉ là một tác phẩm lý luận mà còn là bản cương lĩnh cách mạng đầu tiên của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là lời tuyên bố cách mạng không ngừng của những người cộng sản trên toàn thế giới. Đây là một cương lĩnh của Đảng với sự đầy đủ chi tiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.

            Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Tuyên ngôn) ra đời với mục đích là: “những người cộng sản phải công khai trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, mục đích, ý đồ của mình, và phải có một tuyên ngôn của Đảng của mình để đập lại câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản”[1]. Tuyên ngôn đã nêu ra tính tất yếu của cuộc cách mạng vô sản: “xã hội tư sản hiện đại, sinh ra từ trong lòng xã hội phong kiến đã bị diệt vong, không xoá bỏ được những đối kháng giai cấp – nó chỉ đem những giai cấp mới,những điều kiện áp bức mới, những hình thức đấu tranh mới, thay thế cho những giai cấp, những điều kiện áp bức, những hình thức đấu tranh cũ mà thôi”[2]. Tuyên ngôn cũng nêu ra các giai đoạn của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, từ công nhân riêng lẻ đến công nhân trong một công xưởng sau đó người công nhân của một ngành công nghiệp, một địa phương chống lại người tư sản trực tiếp bóc lột họ… và tiến đến đỉnh cao, cuộc đấu tranh toàn bộ giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản. Phong trào từ tự phát đến tự giác, từ kinh tế lên chính trị. Cuộc đấu tranh này phát triển đến giai đoạn cao (đỉnh điểm), mâu thuẫn giai cấp gay gắt, đồng thời giai cấp vô sản lớn mạnh về chính trị, và tổ chức, nó sẽ nổ ra cách mạng vô sản. Khi đó, “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền”[3]; giai cấp vô sản thiết lập sự thống trị của mình bằng cách lật đổ giai cấp tư sản, bằng bạo lực.

            Tuyên ngôn nêu ra các giai đoạn của cách mạng vô sản: “bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ. Giai cấp vô sản sẽ dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản, để tập trung tất cả những công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước, tức là trong tay giai cấp vô sản đã được tổ chức thành giai cấp thống trị, và để tăng thật nhanh số lượng những lực lượng sản xuất”[4]. “Nếu giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản, nhất định phải tự tổ chức thành giai cấp, nếu giai cấp vô sản thông qua con đường cách mạng mà trở thành giai cấp thống trị và với tư cách là giai cấp thống trị, nó dùng bạo lực tiêu diệt những quan hệ sản xuất cũ, thì đồng thời với việc tiêu diệt những quan hệ sản xuất ấy, nó cũng tiêu diệt luôn cả những điều kiện tồn tại của sự đối kháng giai cấp, nó tiêu diệt các giai cấp nói chung và cũng do đấy, tiêu diệt cả sự thống trị của chính nó với tư cách là một giai cấp”[5]. Đồng thời, giai cấp vô sản dùng sự thống trị chính trị của mình để từng bước xây dựng xã hội mới, xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là một xã hội: “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[6]. Như vậy, khi luận chứng về mặt lý luận, C.Mác và Ph.Ăngghen xem cách mạng như một quá trình không ngừng cho đến khi sự nghiệp giải phóng con người được thực hiện. Vì thế, giai cấp vô sản cần nhận thức rõ tiến trình và xu thế của cách mạng.

            C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ, giai cấp công nhân với tư cách lực lượng chính trị độc lập, phải chủ động tham gia vào cuộc cách mạng dân chủ, xây dựng chế độ mới. “Chủ nghĩa xã hội là lời tuyên bố cách mạng không ngừng là chuyên chính giai cấp của giai cấp vô sản”[7].

            Công xã Pari (1871) là sự kiện cách mạng chính thức đầu tiên đánh dấu cho sự ra đời của nền chuyên chính vô sản. Công xã Pari chính là thành quả của nhân dân lao động. Dưới sự dẫn dắt của giai cấp vô sản, đây chính là công sức cuộc đấu tranh bền bỉ của giai cấp công nhân nhằm chống lại giai cấp tư sản phản động cũng như quân Phổ. Công xã Pari là cuộc đấu tranh vì quyền lợi của số đông quần chúng, đặc biệt là vì quyền lợi của nhân dân lao động. Nó đã giải quyết được một số những mâu thuẫn trong lòng nhà nước tư bản chủ nghĩa trước đây. Tuy thất bại, nhưng Công xã Pari đã để lại nhiều bài học, trong đó có tư tưởng cách mạng tiến công, kiên quyết trấn áp kẻ thù; phải không ngừng gia tăng sức mạnh toàn diện, tăng cường nội lực, sự trong sạch nội bộ, vừa phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, ứng phó khôn khéo, chính xác với biến động của tình hình, sự chống phá cả bên trong và bên ngoài; xây dựng, củng cố và sử dụng chính quyền ấy để kiến tạo xã hội mới trong tiến trình cách mạng.

            Đánh dấu cho sự thắng lợi to lớn và triệt để hơn trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản ấy chính là Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, cùng với sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa và nền chuyên chính vô sản đã minh chứng cho tư tưởng cách mạng không ngừng mà Tuyên ngôn đã nêu ra. Từ tháng 10/1917 đến tháng 3/1918, chính quyền Xô Viết được thành lập trong cả nước, đưa đến sự thành lập Liên bang cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên Xô). Cuộc cách mạng tháng Mười Nga có một ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, mở ra thời đại mới – thời đại đấu tranh, giải phóng các giai cấp bị bóc lột, giải phóng các dân tộc bị áp bức trên quy mô toàn thế giới. Mặc dù vậy, chính quyền Xô viết non trẻ ấy vừa phải đương đầu với cuộc nội chiến do các thế lực phản động trong nước, vừa phải chiến đấu chống cuộc can thiệp vũ trang của 14 nước đế quốc bên ngoài tiến hành, kéo dài trong ba năm kể từ đầu năm 1918 đến cuối năm 1920 và tiếp tục thực hiện cách mạng không ngừng để củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa đến tận năm 1991.

            Tuy hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ năm 1991, nhưng cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội vẫn tiếp tục diễn ra trên phạm vi thế giới. Trước sự chống phá quyết liệt ấy, nhiều nước xã hội chủ nghĩa vẫn tiếp tục duy trì được nền chuyên chính, đóng góp cho sự nghiệp cách mạng thế giới.

            Ở Việt Nam, ngay sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ đã bị các thế lực đế quốc, phản động bao vây, tấn công với ý đồ tiêu diệt chính quyền nhà nước Việt Nam non trẻ. Chính ở những thời điểm đầy cam go, thử thách ấy, ánh sáng và những bài học sâu sắc về củng cố và giữ vững chính quyền Xô viết của Cách mạng Tháng Mười Nga đã trở thành nguồn cổ vũ lớn lao để Đảng và nhân dân Việt Nam vững bước tiến lên, vượt qua mọi gian lao, thử thách, giành những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

            Trong điều kiện hiện nay, các thế lực cản trở hòa bình, tiến bộ xã hội tiếp tục gây ra những cuộc chiến tranh về lãnh thổ, tài nguyên, dân tộc, tôn giáo… đe dọa đến sự sống, an ninh của toàn nhân loại. Điều đó đòi hỏi các lực lượng cách mạng thế giới phải tiếp tục thực hiện cách mạng không ngừng, tăng cường ảnh hưởng lẫn nhau và khả năng kết hợp mục tiêu của các phong trào đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội với độc lập dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội, tạo nên những hình thức phong phú của con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nêu ra.


HỌC TAP, QUÁN, TRIỆT SÁCH QUÝ CỦA TỔNG BÍ THƯ

 Học tập, quán triệt và tuyên truyền nội dung cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong các cơ quan Trung ương

Chiều 28/2, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương tổ chức Hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt và tuyên truyền những tư tưởng chủ đạo, nội dung cơ bản, cốt lõi của Cuốn sách "Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thực hiện đồng bộ "4 không" để phòng, chống tham nhũng hiệu quả

 

Quyết liệt triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp để bảo đảm "4 không" thì chắc chắn tham nhũng, tiêu cực sẽ được đẩy lùi, giảm nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"...

Đừng vội nói bừa

 

Về tới đầu làng, ông Tính ngạc nhiên khi thấy ông Thích, người xóm dưới, đang khua tay múa chân nói về việc khám tuyển nghĩa vụ quân sự. Thấy vậy, ông dựng xe gọn một chỗ, lại gần tìm hiểu.

Tuyên ngôn của đảng Cộng sản vẫn là ngọn cờ, kim chỉ nam cho sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta

Ra đời cách đây 175 năm (tháng 02/1848) và trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi của hoàn cảnh, nhưng những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn là cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc luận giải các vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta; vẫn là kim chỉ nam, ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân, nhân dân lao động toàn thế giới và nhân dân ta trên con đường đi tới xã hội chủ nghĩa.

1. Chủ nghĩa Mác được hình thành với sự ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Tháng 02/1848, C.Mác và Ph.Ăngghen chính thức công bố Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do các ông soạn thảo bởi sự ủy nhiệm của Đồng minh những người cộng sản - một tổ chức công nhân quốc tế; công khai “trình bày trước toàn thế giới những quan điểm, ý đồ” của những người cộng sản, đập lại “câu chuyện hoang đường về bóng ma cộng sản” ở châu Âu mà các thế lực chống đối rêu rao.

Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đánh dấu sự hình thành về cơ bản lý luận chủ nghĩa Mác với sự hoàn bị của ba bộ phận hợp thành: triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học; trở thành cương lĩnh chính trị đầu tiên, kim chỉ nam cho hành động của phong trào cộng sản và công nhân thế giới. Làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và con đường, biện pháp thực hiện sứ mệnh lịch sử ấy là phát kiến vĩ đại và công lao to lớn của chủ nghĩa Mác.

Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã phân tích sâu sắc địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân và chỉ rõ, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp thực sự cách mạng; khẳng định: “Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”1. Những phạm trù, những nguyên lý cơ bản, then chốt của chủ nghĩa Mác được trình bày và luận chứng một cách khoa học, rõ ràng và có hệ thống. Đó là các vấn đề: quy luật phát triển của lịch sử xã hội; giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, đưa con người đến cuộc sống tự do, hạnh phúc; cách mạng xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản; Đảng Cộng sản và liên minh giai cấp; các vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, gia đình, văn hóa mới,... là những vấn đề rất cơ bản về thế giới quan, phương pháp luận khoa học, lập trường cách mạng, con đường, biện pháp và điều kiện để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình.

Những phạm trù, những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn mang tính chất phổ biến cả về lý luận và thực tiễn; thực sự là kim chỉ nam, ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; trở thành “cuốn sách gối đầu giường” cho tất cả những người cộng sản và công nhân giác ngộ. V.I.Lênin từng đánh giá: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng hàng ngàn bộ sách, tinh thần của nó đến bây giờ vẫn cổ vũ và thúc đẩy toàn thế giới giai cấp vô sản có tổ chức và đang chiến đấu của thế giới văn minh”2.

2. Trong gần hai thế kỷ qua, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã ảnh hưởng rất sâu sắc đến nhận thức của nhân loại và tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Nó là cơ sở, nền tảng tư tưởng cho sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; sự ra đời của các đảng cộng sản; là kim chỉ nam cho đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân khỏi áp bức, bóc lột; hình thành nên các nước xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều thử thách với những thay đổi to lớn và cả biến cố lớn lao, có nhiều vấn đề rất mới về lý‎ luận và thực tiễn đặt ra cần giải quyết, nhưng những nguyên lý cơ bản mà C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn tỏ rõ sức sống mãnh liệt, còn nguyên giá trị. Tuy sự phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực - sản phẩm trực tiếp của những tư tưởng trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, của chủ nghĩa Mác – Lênin có những bước thăng trầm và cả tổn thất nặng nề; song hiện nay, một số nước vẫn vững vàng, tiếp tục hành trình, đạt thành tựu to lớn trên con đường xây dựng xã hội mới, tạo diện mạo mới đầy năng động và sáng tạo. Nhiều chính khách, học giả có uy tín lớn trên thế giới vẫn xem C.Mác là nhà tư tưởng, nhà khoa học xã hội, nhân văn lớn của nhân loại; vẫn khẳng định Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản là một tác phẩm bất hủ. Ngay ở nhiều nước tư bản phát triển, người ta vẫn thấy có những tiếng nói về những giá trị của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác, của học thuyết kinh tế Mác; trong những cuộc khủng hoảng, suy thoái kinh tế, ở nhiều nước tư bản phương Tây lại thấy xuất hiện phong trào “trở về với Mác”, tìm đọc Tuyên ngôn và các tác phẩm của C.Mác.

Hiện thực sinh động đó đã cho thấy giá trị to lớn cả về phương diện lý luận, thực tiễn và sức sống bất diệt của Tuyên ngôn, của chủ nghĩa Mác với tính cách là cương lĩnh chính trị, học thuyết cách mạng và khoa học của giai cấp công nhân. Dù cho trong thế kỷ này, tình hình có biến đổi như thế nào chăng nữa, nhưng những nguyên lý trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản vẫn là cơ sở khoa học, phương pháp luận cho việc luận giải các vấn đề cơ bản của thời đại chúng ta; vẫn là kim chỉ nam, ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới trên con đường đi tới tương lai xã hội chủ nghĩa.

3. Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng hơn 90 năm qua, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác trong Tuyên ngôn; đồng thời, trực tiếp bảo vệ và phát triển những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng. Trước mỗi bước ngoặt lịch sử của cách mạng, Đảng ta luôn vững vàng về bản lĩnh chính trị, kiên định, giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa, loại trừ mọi biểu hiện và ảnh hưởng của chủ nghĩa giáo điều, cơ hội, xét lại; tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với những nguyên lý cơ bản mà Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã chỉ ra. Những nguyên lý đó luôn là ngọn đuốc soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.

Hơn chín thập kỷ qua d­ư­ới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cả n­ư­ớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã giải quyết một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra. Những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội được nhận thức ngày càng rõ hơn. Nhiều vấn đề lý luận, thực tiễn mới đã được Đảng ta ngày càng nhận thức đúng đắn qua các kỳ đại hội và vận dụng sáng tạo vào công cuộc đổi mới, thu được những thành tựu quan trọng, trở thành “xương sống” lý luận của sự nghiệp đổi mới.

Trước những biến động phức tạp của tình hình thế giới, sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta vẫn tiếp tục phát triển. Sau hơn 35 năm đổi mới, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử, “thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”3. Thành tựu đó tạo ra thế và lực mới cả bên trong và bên ngoài, để nhân dân ta bước vào một thời kỳ phát triển mới với nhiều triển vọng. Điều đáng nói là, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới đất nước mà nhân dân ta đạt được, suy đến cùng đều do sự dẫn dắt và soi sáng bởi chủ nghĩa Mác - Lênin, hay nói cách khác, đó là do Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong thực tiễn cách mạng. Thực tiễn đó càng khẳng định giá trị lịch sử và ý nghĩa to lớn của Tuyên ngôn trong thời đại mới.

4. Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Đại hội XIII của Đảng nhận định về những vấn đề rất cơ bản: xu thế, cục diện thế giới; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; kinh tế thế giới; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; chiến tranh và xung đột vũ trang; các thách thức an ninh phi truyền thống; và những vấn đề toàn cầu khác,… diễn biến phức tạp, khó dự báo trong thời gian tới. Sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhân dân ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức đan xen; trong đó, “Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực,... còn diễn biến phức tạp”4.

Trong bối cảnh mới, những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng của đất nước và thế giới đương đại vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho sự phát triển của lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin cùng những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Xuất phát từ thực tế khách quan, vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận là yêu cầu quan trọng nhằm bảo đảm sức sống và phát huy vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản trong thực tiễn. Thoát ly hiện thực, xa rời thực tế thì việc vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin sẽ kém chất lượng, những kết luận lý luận được rút ra sẽ trở nên trống rỗng, vô giá trị, thậm chí phản giá trị.

Chính C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, trong cuộc đời hoạt động của mình, đã liên tục phát triển lý luận, bao gồm cả việc sửa chữa, hoàn thiện các luận điểm cũ và phát triển những luận điểm mới khi thực tiễn đã thay đổi. C.Mác, đặc biệt là Ph.Ăngghen, khi viết lời tựa cho những lần xuất bản sau, mặc dù vẫn giữ nguyên các quan điểm trong Tuyên ngôn, vì tôn trọng lịch sử, nhưng đã có sự phát triển, vì tình hình đã có nhiều thay đổi, vì “đại công nghiệp đã có bước tiến hết sức lớn”. Ph.Ăngghen nhấn mạnh: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”5. V.I.Lênin - người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, đã chỉ rõ: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”6. Người cũng đã phát triển một loạt luận điểm lý luận mới của chủ nghĩa Mác, mà trước đó do hạn chế của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen, cũng như Tuyên ngôn chưa đề cập đến hoặc đề cập chưa đầy đủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề sự thay đổi của tình hình, thì đấu tranh giai cấp cũng sẽ thay đổi; khi chủ nghĩa tư bản phương Tây làm thay đổi phương Đông, thì đấu tranh giai cấp sẽ trở nên quyết liệt. Người yêu cầu vận dụng, nghiên cứu chủ nghĩa Mác phải trên cơ sở lịch sử, phải “củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”7

Phương pháp luận khoa học đó chỉ ra rằng: việc trung thành, vận dụng sáng tạo và phát triển những nguyên lý cơ bản trong Tuyên ngôn và của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta không thể chỉ trích dẫn nguyên xi những nhận định, những luận điểm của các nhà kinh điển để làm luận chứng duy nhất (tuy là cần thiết), mà điều quan trọng là phải nắm bắt tinh thần cách mạng, bản chất khoa học, linh hồn sống, phương pháp luận khoa học mà các nhà kinh điển, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã cung cấp, đặt nó trên “mảnh đất hiện thực” đương đại, bổ sung cho nó những “cơ sở lịch sử”, những hiện thực tươi mới. Đảng ta chỉ rõ, chúng ta phải “Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”8.

5. Trong tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng xác định rõ chiến lược phát triển đất nước với những khát vọng mạnh mẽ; nêu cao tinh thần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xác định tầm nhìn đến năm 2045 Việt Nam trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản nói riêng, vẫn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam, ngọn cờ dẫn dắt nhân dân ta đi đến thắng lợi khát vọng phát triển ấy.

Bản chất Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, của chủ nghĩa Mác - Lênin là cách mạng và khoa học; đòi hỏi chúng ta khi vận dụng, phát triển vừa phải đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, vừa phải thực hiện với tinh thần và phương pháp khoa học nghiêm túc, đúng đắn. Dù cho trong thế kỷ này sẽ có những biến động bất trắc, khó l­ư­ờng, nhưng chủ nghĩa Mác - Lênin, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, vẫn tiếp tục soi sáng những vấn đề cơ bản của thời đại và sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta, vẫn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và Nhân dân ta; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn là giá trị cơ bản của nhân loại, là con đường, mục tiêu lý tưởng mà Đảng và Nhân dân ta phấn đấu. Chỉ có đi theo con đường cách mạng dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, của Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, thì dân tộc Việt Nam mới có thể ngẩng cao đầu, vững bước tiến lên. Vì thế, chúng ta phải luôn cảnh giác, kiên quyết đấu tranh bác bỏ mọi xuyên tạc hòng hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ, BẢO VỆ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, hợp tác và hội nhập quốc tế vẫn luôn là xu thế lớn, lâu dài của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp và đa chiều, tác động sâu sắc đến môi trường hòa bình, an ninh và phát triển của đất nước ta. Một mặt, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng với mức độ ngày càng tinh vi hơn, nguy hiểm hơn; trong đó, đội ngũ cán bộ, đảng viên là mục tiêu quan trọng đầu tiên mà chúng nhắm tới; mặt khác, hiện nay vẫn còn tồn tại những vấn đề trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra nguy cơ đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng, sự tồn vong của chế độ. Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ cán bộ, đảng viên trong bối cảnh tăng cường hội nhập quốc tế, công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần tập trung thực hiện một số nội dung trọng tâm sau đây:

Phát huy vai trò của tổ chức cơ sở Đảng, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong BĐBP


 Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là vấn đề cấp bách, đồng thời cũng là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nói chung, BĐBP nói riêng trong giai đoạn hiện nay. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này, các tổ chức cơ sở Đảng trong toàn lực lượng BĐBP cần nâng cao bản lĩnh chính trị, nhận thức và hành động cho từng cán bộ, đảng viên và quần chúng.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là quá trình diễn biến bên trong của một bộ phận cán bộ, đảng viên, theo hướng tiêu cực. Nếu không ngăn chặn, khắc phục kịp thời có thể dẫn đến tình trạng thoái hóa, biến chất.

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Phải gắn xây dựng, chỉnh đốn Đảng với xây dựng hệ thống chính trị theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng; cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải tích cực phòng ngừa và chủ động, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực”.

Hoạt động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra rất phức tạp, nguy hiểm nhất là phai nhạt lý tưởng cách mạng, dao động về lập trường, quan điểm chính trị, sa sút ý chí chiến đấu, mơ hồ, hoài nghi về con đường đi lên CNXH ở nước ta. Từ đó, phủ nhận các giá trị truyền thống, đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Dẫn đến vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, thậm chí có cá nhân ý thức chính trị kém đã phụ họa, cổ súy cho những quan điểm sai trái, lệch lạc, chống phá sự nghiệp cách mạng, gây tổn hại đến uy tín và vai trò lãnh đạo của Đảng…

Nguy hiểm hơn, đó là biểu hiện xuyên tạc, cố tình hiểu sai bản chất nền quốc phòng, thay đổi bản chất cách mạng của lực lượng vũ trang, hướng đến thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an. Tuyên truyền, xuyên tạc các vấn đề nội bộ của quốc gia, hướng dư luận quốc tế ủng hộ cho mục đích can dự lật đổ từ bên ngoài của các thế lực thù địch...

Để kịp thời ngăn chặn và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các tổ chức cơ sở Đảng trong toàn lực lượng BĐBP cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, quản lý tốt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ, coi lãnh đạo, quản lý chặt chẽ tư tưởng là một chủ trương, biện pháp đặc biệt quan trọng. Các tổ chức cơ sở Đảng, nhất là các đơn vị độc lập cần tập trung quản lý, kịp thời nắm bắt, giải quyết những tư tưởng mới nảy sinh.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả, thực chất Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm. Duy trì nghiêm túc hoạt động tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng.

Coi trọng khâu đột phá trong giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nhằm tăng cường sức đề kháng, ngăn chặn chủ nghĩa cá nhân. Phê phán những biểu hiện ngại rèn luyện, lười suy nghĩ, lười học tập chính trị. Bởi vì đây là nguyên nhân trực tiếp làm cho cán bộ, đảng viên trở nên lạc hậu, nảy sinh chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến tình trạng vun vén cho bản thân, gia đình, lợi ích nhóm. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản nhất làm suy giảm nghiêm trọng sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng cách mạng chân chính, hết lòng vì nước, vì dân.

Song hành với đó, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Nâng cao nhận thức về lập trường, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH. Kịp thời thông tin, tuyên truyền cung cấp thông tin chính thống, định hướng tốt về những vấn đề được dư luận quan tâm, không để các thế lực xấu lợi dụng xuyên tạc, kích động, chống phá tình hình nội bộ. Giữ gìn, củng cố đoàn kết, thống nhất trong cấp ủy, chi bộ cơ quan, đơn vị...

Việc đổi mới nội dung, hình thức và nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức cơ sở Đảng phải gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thường xuyên tuyên truyền các tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt chú trọng 2 tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” và “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Cách tuyên truyền phải vận dụng linh hoạt phương châm “mưa dầm thấm lâu”, mỗi tháng chỉ học tập 1 phần nhưng phải cụ thể, sinh động có vận dụng vào thực tế đơn vị để tránh nhàm chán.

Cấp ủy, chỉ huy các đơn vị, nhất là cán bộ đảm nhiệm công tác giáo dục chính trị phải là người am hiểu về tư tưởng Hồ Chí Minh, có kỹ năng sư phạm, báo cáo có cơ sở lý luận và có tính thuyết phục cao, tuyên truyền gắn với thực tiễn. Xây dựng, ban hành quy định về tự phê bình và phê bình trên tinh thần tự giác, nghiêm túc, nhằm khắc phục triệt để tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, phê bình kiểu nịnh bợ nhau, nói lấy lòng, đồng thuận xuôi chiều, tự phê bình thì quanh co che giấu sai phạm, khuyết điểm rồi đổ lỗi do khách quan… Có cơ chế bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh vì lẽ phải, vì tập thể, vì cái chung, vì mục tiêu cao cả của Đảng.

Như vậy, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết, kết luận và quy định được Đảng ta ban hành gần đây là tấm gương để mỗi cán bộ, đảng viên soi vào trong quá trình thực thi nhiệm vụ. Đâycũng là cách để tạo ra “kháng thể” phòng, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh về chính trị, lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới.

CẦN CẢNH GIÁC KHI TIẾP CẬN THÔNG TIN TRÊN MẠNG XÃ HỘI

  

Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0 và đi kèm theo đó là hệ thống mạng xã hội như: Zalo, Facebook, Youtube…đang trở thành kênh cập nhật, cung cấp, chia sẻ nhiều thông tin nhanh chóng và được sử dụng khá phổ biến rộng rãi trên toàn cầu. Người dùng mạng xã hội có thể tùy ý đăng tải hoặc chia sẽ những thông tin mà chính bản thân mình thu thập được.

CẢNH GIÁC NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ LẤY PHIẾU TÍN NHIỆM


Đồng chí Võ Văn Thưởng, Thường trực Ban Bí thư vừa thay mặt Bộ Chính trị ký ban hành Quy định số 96-QĐ/TW về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị. Quy định này thay thế Quy định số 262-QĐ/TW ngày 8-10-2014 của Bộ Chính trị về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với thành viên lãnh đạo cấp ủy và cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.

TRÒ DƠ BẨN CỦA NHỮNG KẺ XUYÊN TẠC KẾT QUẢ HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 6, KHÓA XIII

 


                                                           

Khắp những ngày qua, trên các trang mạng xã hội, các trang RFA, VOA, Dân Luận… đã liên tục đăng tải nhiều bài viết với nội dung kích động, nhào nặn thông tin đủ các kiểu nhằm gây nhiễu dư luận, làm mất lòng tin trong các giai tầng xã hội về kết quả Hội nghị Trung ương 6. Đó như thành thông lệ, trước mỗi sự kiện trọng đại của đất nước ta, các thế lực thù địch luôn thực hiện nhiều chiêu trò phá hoại nhằm cản trở sự phát triển của đất nước Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với con đường cách mạng của nước ta.

ĐOÀN KẾT ĐỂ PHỤNG SỰ TỔ QUỐC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN, KIÊN QUYẾT CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC, LỢI ÍCH NHÓM


Đại đoàn kết toàn dân tộc - di sản vô giá, truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, tạo nên sức mạnh to lớn của dân tộc trong công cuộc dựng nước và giữ nước.

TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH ĐẤU TRANH, PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC, XÂY DỰNG, CHỈNH ĐỐN ĐẢNG VÀ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH

 Hiện nay, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn hiện hữu, có mặt còn gay gắt, phức tạp hơn, nhất là tình trạng tham nhũng, tiêu cực diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi, còn xảy ra ở nhiều nơi, ở hầu hết các lĩnh vực… Thực tế đó đòi hỏi phải tiếp tục giương cao ngọn cờ đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; đồng thời, đập tan luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc về cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Một là, đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng để tăng cường sức mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng: “Nhất hô bá ứng”, “Tiền hô hậu ủng”, “Trên dưới đồng lòng”, “Dọc ngang thông suốt” để nói lên sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động, vì sự nghiệp cách mạng chung và công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng. Theo đó, trong chính nội bộ Đảng phải trên dưới đồng chí, đồng lòng, kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng với mọi biểu hiện của tham nhũng, tiêu cực; tránh nói khác, làm khác với quan điểm, chủ trương của Đảng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cần gạt bỏ chủ nghĩa cá nhân, giữ gìn đạo đức cách mạng trong sáng, hết lòng, hết sức vì nhiệm vụ chung.

Hai là, phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo chủ chốt các cấp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Lãnh đạo chủ chốt các cấp phát huy vai trò nêu gương trong công việc, đời sống, sinh hoạt hằng ngày, phải thực sự liêm khiết, chính trực, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều; nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý cơ quan, đơn vị, địa phương; là hạt nhân đoàn kết, quy tụ sức mạnh trí tuệ của tập thể trong thực hiện các nhiệm vụ; xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; luôn đặt lợi ích của Đảng, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Khi phát hiện trong cơ quan, đơn vị, địa phương có dấu hiệu bè phái, cục bộ, nội bộ không đoàn kết, thống nhất, cần chấn chỉnh, xử lý dứt điểm, không để kéo dài; đặc biệt, cán bộ chủ chốt các cấp phải có “đức, tầm, tâm, trí” trong điều hành, giải quyết những việc khó, việc mới, các vấn đề phức tạp nảy sinh nhằm tạo môi trường, điều kiện thuận lợi nhất cho cơ quan, đơn vị, địa phương phát triển. Lãnh đạo chủ chốt các cấp ngoài năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý, cần phải thực sự trong sạch, coi trọng danh dự, uy tín. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Danh dự là điều thiêng liêng, cao quý nhất(13).

Ba là, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, “kiểm tra, giám sát là thanh bảo kiếm để chữa lành các vết thương(14). Theo đó, ủy ban kiểm tra các cấp tăng cường kiểm tra, giám sát, nhất là tập trung vào những nội dung trọng tâm, trọng điểm dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như đấu thầu, giải phóng mặt bằng, xây dựng công trình, dự án, bổ nhiệm, luân chuyển cán bộ…; nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát của ủy ban kiểm tra các cấp. Các thành viên của ủy ban kiểm tra các cấp nắm rõ chức trách, nhiệm vụ; tiến hành kiểm tra, giám sát khách quan, công tâm, minh bạch, không được có động cơ cá nhân, áp đặt, bao che; có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ giữa công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra, kiểm toán của Nhà nước, điều tra, truy tố, xét xử.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tham khảo có chọn lọc mô hình, kinh nghiệm, cách thức phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở các nước trên thế giới… Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, cấp ủy các cấp cụ thể hóa vào điều kiện cụ thể ở từng cơ quan, đơn vị, địa phương; rà soát, điều chỉnh, bổ sung những quy định của đơn vị đúng với tinh thần chỉ đạo của Trung ương; phát huy vai trò, trách nhiệm của bộ phận tham mưu xây dựng cơ chế, chính sách về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, trong phát hiện và lấp những “lỗ hổng” pháp lý để cán bộ, đảng viên không dám, không thể và không muốn tham nhũng, tiêu cực./.

ST




HỘI THẢO KHOA HỌC CẤP QUỐC GIA: “80 NĂM ĐỀ CƯƠNG VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM - KHỞI NGUỒN VÀ ĐỘNG LỰC PHÁT TRIỂN”

Hội thảo khoa học quốc gia: “80 năm Đề cương về văn hóa Việt Nam - Khởi nguồn và động lực phát triển” là hoạt động rất có ý nghĩa nhằm khẳng định, tôn vinh ý nghĩa và tầm vóc lịch sử, kế thừa và phát huy những giá trị bền vững của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam trong tiến trình phát triển của nền văn hóa và sự nghiệp cách mạng của dân tộc, góp phần triển khai thắng lợi quan điểm, mục tiêu, định hướng và nhiệm vụ phát triển văn hóa, con người Việt Nam mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra, quán triệt bài phát biểu chỉ đạo rất quan trọng, sâu sắc và toàn diện của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

Lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã hun đúc, hình thành nên một nền văn hóa Việt Nam giàu bản sắc, mang đậm truyền thống quý báu của dân tộc ta, thể hiện nổi bật phẩm chất, lương tri, trí tuệ, bản lĩnh và khí phách của con người Việt Nam. Từ trong cội nguồn sâu thẳm, văn hóa đã trở thành hồn cốt, là điểm tựa, dệt kết nên sức mạnh vĩ đại và trường tồn của sức mạnh nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam trong các cuộc đấu tranh giành, giữ và bảo vệ nền độc lập dân tộc, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược từ giữa thế kỷ XIX, dù đó là các cuộc khởi nghĩa nông dân hay phong trào của các sĩ phu phong kiến, canh tân tư sản, dù đi theo nhiều con đường, nhiều khuynh hướng khác nhau, nhưng xét ở góc độ văn hóa đều đã tìm đến một ý chí tương đồng trong mục tiêu cứu nước, cứu dân, đó là: chống lại sự nô dịch, áp bức, băng hoại văn hóa của chế độ thực dân, phát xít.

Bằng nhãn quan chính trị phong phú, sáng tạo và nhạy bén, ngay từ trong tác phẩm Đường cách mệnh để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng nước ta, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã mang đến một cách tiếp cận hoàn toàn mới mẻ trong xây dựng những giá trị văn hóa, con người Việt Nam, mà trước hết là xây dựng tư cách của một người cách mạng chân chính. Với những áng thơ dung dị nhưng đong đầy cảm xúc trong Lịch sử nước ta, Người đã thắp sáng niềm tin, niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của dân tộc, kêu gọi toàn thể người dân Việt Nam đoàn kết, đứng lên đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân.

Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời năm 1943, do đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh khởi thảo, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng ta về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Cùng với lập trường, lý luận khoa học mác-xít mới mẻ về văn hóa, bản Đề cương còn là sự kế thừa và bổ sung hết sức quan trọng tư tưởng Hồ Chí Minh, Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, những chủ trương, đường lối và sự tổng kết thực tiễn lãnh đạo trong lĩnh vực văn hóa của Đảng ta qua các cao trào đấu tranh cách mạng kể từ sau khi thành lập. Mang sứ mệnh khơi thông những mạch nguồn của văn hóa dân tộc trong bối cảnh đẩy mạnh cao trào phản đế, phản phong, tiến tới Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, bản Đề cương đã tạo ra sự thống nhất về nhận thức, tư tưởng văn hóa cho nhân dân, nhất là tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ có tâm huyết, cổ vũ lòng tự hào dân tộc, khích lệ tinh thần dấn thân cho cách mạng, thật sự trở thành ngọn đuốc soi đường cho sự phát triển nền văn hóa mới.

Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, bản Đề cương có cách đặt vấn đề ngắn gọn nhưng đã trình bày rất nổi bật quan điểm lý luận, thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của một đảng cách mạng về văn hóa khi Đảng mới chỉ hơn 13 năm tuổi; khẳng định văn hóa luôn sinh tồn và phát triển trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế và chính trị như một quy luật khách quan của mọi thời đại. Quan điểm “văn hóa là một mặt trận” từ bản Đề cương nêu ra đã xác lập vị thế đặc biệt của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa và nhiệm vụ cần kíp “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân” trong cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống đế quốc, phát xít, thực dân và phong kiến tay sai bán nước.

Đề cương về văn hóa Việt Nam đã khẳng định tầm quan trọng đặc biệt của nhiệm vụ xây dựng nền văn hóa mới trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với nhận thức đúng đắn rằng: sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa vừa là một tất yếu chính trị, vừa là một tất yếu khách quan. Cách mạng muốn xây dựng thành công nền văn hóa mới dứt khoát phải do Đảng tiền phong lãnh đạo. Mặt khác, có lãnh đạo được phong trào văn hóa, Đảng mới lan tỏa được tư tưởng cách mạng, tạo nên ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội. Việc xây dựng nền văn hóa mới phải gắn liền với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Công cuộc cải tạo xã hội, loại bỏ những gì cũ kỹ, lạc hậu, hướng tới xây dựng một chế độ xã hội mới ưu việt hơn chỉ hoàn thành khi hình thành được nền văn hóa mới: “Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa”.

Nhìn lại chặng đường 80 năm qua, được thấm nhuần, kết tinh trong những chủ trương, đường lối của Đảng, được kiểm chứng bằng những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc ta, Đề cương về văn hóa Việt Nam đã tỏa sáng những giá trị cốt lõi của một văn kiện mang tầm cương lĩnh.

Ra đời trong thời điểm có tính chất bước ngoặt của lịch sử, bản Đề cương đã khơi dậy tinh thần yêu nước, thổi bùng lên ngọn lửa quyết tâm của toàn thể dân tộc Việt Nam theo lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dù hy sinh lớn tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho kỳ được độc lập dân tộc”, “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(1), vùng đứng lên, đập tan xiềng xích nô lệ, làm nên thắng lợi huy hoàng của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Với chủ trương văn hóa, nghệ thuật cũng là một mặt trận; văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy, Đảng ta đã tập hợp được đông đảo đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ yêu nước, nhiều người đã từ bỏ con đường “vinh thân, phì gia” sát cánh cùng mọi tầng lớp nhân dân dấn thân đi theo cách mạng, cống hiến tâm huyết, tài năng và sức lực của mình cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Bản Đề cương đã góp phần hình thành nên những chân lý bất diệt, như: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi… văn hóa lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự cường và tự chủ, xây dựng một nền văn hóa mới lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở, “phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân(2), “Văn hóa là hồn cốt của Dân tộc… Văn hóa còn thì Dân tộc còn(3),... trở thành kim chỉ nam soi đường, dẫn lối cho dân tộc ta đi qua hai cuộc kháng chiến trường kỳ, vĩ đại và trong công cuộc kiến thiết, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc sau ngày hòa bình, thống nhất.

Năm 1943, khi bản Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, dân tộc ta vẫn chưa giành được độc lập, đất nước ta vẫn chưa có tên trên bản đồ thế giới. Trải qua 80 năm kiên cường đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, nước Việt Nam chúng ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Trong đó, phải thấy rõ rằng, ở bất cứ một giai đoạn, một thời điểm lịch sử nào, Đảng ta đều luôn quan tâm đến lĩnh vực văn hóa, luôn kế thừa, phát huy những luận điểm, nguyên tắc, vấn đề cốt lõi của bản Ðề cương, không ngừng đổi mới tư duy nhận thức, bổ sung lý luận, hoàn thiện các chủ trương, đường lối về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam.

Từ chỗ chỉ tập trung vào phạm vi ba lĩnh vực trọng yếu của văn hóa nước nhà mà bản Đề cương nêu ra là tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, chúng ta đã đặt ra yêu cầu mới về xây dựng đồng bộ và toàn diện các yếu tố cấu thành nên nền văn hóa, các thành tố, các lĩnh vực văn hóa, từ tư tưởng, đạo đức, lối sống đến môi trường và đời sống văn hóa; từ di sản văn hóa, văn học, nghệ thuật đến thể chế và thiết chế văn hóa, xây dựng và phát triển hệ giá trị mới của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trên nền tảng của hệ giá trị quốc gia và mục tiêu phấn đấu vì hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc.

Từ cách đặt vấn đề về mối quan hệ biện chứng giữa văn hóa với kinh tế và chính trị, ngày nay, chúng ta đã nhận thức ngày càng sâu sắc rằng, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, nguồn lực nội sinh và động lực to lớn để phát triển nhanh và bền vững đất nước; cần khơi dậy nguồn sức mạnh “mềm” lớn lao, chuyển hóa các tài nguyên, giá trị văn hóa, các giá trị quốc gia, giá trị gia đình Việt Nam thành những giá trị phát triển; làm cho văn hóa không chỉ được đặt ngang hàng mà còn thấm sâu hơn, lan tỏa mạnh hơn trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội.

Từ yêu cầu thực hiện ba nguyên tắc “dân tộc hóa”, “đại chúng hóa”, “khoa học hóa” trong cuộc vận động văn hóa thời kỳ tiền khởi nghĩa, Ðảng ta đã bổ sung, phát triển thành những thuộc tính “nhân dân”, “nhân văn” và “dân chủ” của nền văn hóa, góp phần xử lý hài hòa nhiều mối quan hệ lớn, phức tạp trong thực tiễn phát triển văn hóa, con người hôm nay, như mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển, giữa xây và chống, giữa giữ gìn bản sắc dân tộc và đẩy mạnh hội nhập quốc tế, giữa tính truyền thống và tính hiện đại, giữa văn hóa đại chúng và văn hóa tinh hoa,...

Càng nhận thức rõ ý nghĩa quan trọng, tính chất đúng đắn của những luận điểm, nguyên tắc, đường lối của bản Đề cương, ngày nay, chúng ta càng thấy được sự cần thiết phải kế thừa và phát huy những giá trị tích cực, tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc, vừa đẩy mạnh giao lưu, tiếp biến, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, khẳng định bản sắc và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế. Khởi nguồn từ tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh” của bản Đề cương, ngày nay, Đảng ta đã hình thành quan điểm: phát triển con người phải được đặt vào vị trí trung tâm và là mục tiêu của quá trình phát triển văn hóa. Nền văn hóa mà chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa của nhân dân, nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo, trao truyền, đồng thời cũng là chủ thể thụ hưởng những giá trị của nền văn hóa ấy. Một mặt, văn hóa phải hướng mọi sáng tạo, mọi hoạt động phục vụ đông đảo quần chúng nhân dân; mặt khác, cần phải vun đắp cho những tài năng văn hóa, nghệ thuật, để có những tác giả với những tác phẩm mang giá trị “đỉnh cao”; kiên quyết chống lại mọi sự xâm lăng về văn hóa, bài trừ các hình thức văn hóa lai căng, mê tín, dị đoan, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục, tăng cường sức đề kháng, miễn nhiễm với những luận điệu xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự nghiệp cách mạng và truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta

 Với sự khởi nguồn từ bản Đề cương về văn hóa Việt Nam về xây dựng một nền văn hóa mới và khát vọng chấn hưng, phát triển nền văn hóa Việt Nam, tại Hội thảo này, tôi đề nghị các nhà khoa học, quý vị đại biểu tập trung thảo luận, làm sâu sắc hơn các vấn đề chủ yếu sau:

1- Khẳng định ý nghĩa khoa học, chính trị, tầm vóc lịch sử và những giá trị bền vững của bản Đề cương trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc và tiến trình phát triển của nền văn hóa Việt Nam. Đặc biệt, cả phương diện lý luận và thực tiễn, cần tập trung luận giải về nội dung, cách thức để kế thừa và phát huy giá trị của Đề cương trong sự nghiệp xây dựng, phát triển toàn diện văn hóa, con người Việt Nam trên tinh thần Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 40 năm tiến hành công cuộc đổi mớinhất là thực tiễn phát triển văn hóa đất nước, tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện lý luận về phát triển văn hóa, con người mới trong lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta; xây dựng, triển khai hệ giá trị của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, gắn với các đặc trưng: Dân tộc, dân chủ, nhân văn và khoa học, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi cấp thiết của bối cảnh mới, nền tảng phát triển mới và nhận thức mới.

2- Tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa đối với phát triển. Phải nhìn thẳng vào thực tế là, vẫn còn nhiều lúc, nhiều nơi, văn hóa chưa được đặt thật đúng vị trí, chưa thật sự xứng tầm trong các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Thậm chí, từng có quan niệm lệch lạc cho rằng, bảo tồn, phát triển văn hóa cần nguồn lực đầu tư lớn song mang lại hiệu quả kinh tế không cao. Từ quan điểm biện chứng về văn hóa của bản Đề cương cùng với những chủ trương, chính sách mới của Đảng, chúng ta nhận thức rõ hơn vai trò, sự đóng góp của các thành tựu về phát triển văn hóa; về đầu tư cho văn hóa cũng là đầu tư cho phát triển; trên cơ sở đó, xây dựng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các đề án phát triển bảo đảm tính đồng bộ, tổng thể và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và môi trường, với sự ưu tiên thực thi trọng trách gìn giữ, bảo tồn các di sản văn hóa, di sản thiên nhiên của đất nước.

3- Hoàn thiện thể chế, pháp luật và chính sách tạo môi trường cho các hoạt động văn hóa và huy động nguồn lực cho phát triển văn hóa, con người. Những tư tưởng mới của bản Đề cương là nguồn động viên, khích lệ chúng ta trong nỗ lực xây dựng, ban hành những quy định, chính sách, mô hình quản lý mới thúc đẩy các hoạt động văn hóa, nghệ thuật phát triển tích cực và lành mạnh, phù hợp với điều kiện ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; phát triển đồng bộ mọi phương diện văn hóa quốc gia, như văn hóa chính trị, văn hóa kinh doanh và đạo đức doanh nhân, văn hóa ứng xử trong gia đình và xã hội. Đặc biệt, cần có quyết tâm đột phá nhằm tháo gỡ những điểm nghẽn, vướng mắc trong huy động, phân bổ các nguồn lực từ Nhà nước và xã hội, nhất là về các cơ chế phân cấp, phân quyền, hợp tác công - tư, khuyến khích các doanh nghiệp, người dân tham gia bảo tồn, phát triển văn hóa, nghệ thuật… khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, nhỏ giọt, kéo dài; xây dựng, tổ chức thực hiện thật sự hiệu quả các chương trình, kế hoạch, dự án phát triển văn hóa, con người trong giai đoạn tới.

4- Chăm lo xây dựng đội ngũ những người làm công tác văn hóa có phẩm chất, năng lực chuyên môn xứng tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của tình hình mới. Bản Đề cương đã cho thấy tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ văn hóa có tâm, có tầm, có trách nhiệm trong việc khai thông, mở đường phát triển văn hóa nước nhà. Cùng với yêu cầu về đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ, đội ngũ những người làm công tác văn hóa rất cần được tôn trọng, khuyến khích, động viên, đãi ngộ và tôn vinh, xây dựng cơ chế mở, linh hoạt về tuyển dụng, tiền lương, tạo điều kiện để đội ngũ này phát huy tài năng, sức sáng tạo, cống hiến vào sự nghiệp phát triển văn hóa, con người.

5- Thúc đẩy các ngành công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa phát triển. Đây là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong bối cảnh phát triển mới của đất nước. Cần có các cơ chế, chính sách đồng bộ từ phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú trọng đầu tư không chỉ cho hạ tầng kỹ thuật, như hạ tầng giao thông, hạ tầng số, hạ tầng đô thị mà đặc biệt cần quan tâm đến hạ tầng văn hóa - xã hội, tăng cường quảng bá hình ảnh, thương hiệu quốc gia. Hoàn thiện thể chế, phát huy vai trò của cơ chế thị trường trong huy động và phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực để phát triển văn hóa. Xử lý thật tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong phát triển văn hóa. Quan tâm toàn diện đến cả chủ thể quản lý, chủ thể sáng tạo, chủ thể thực hành, chủ thể truyền bá văn hóa cùng với việc phát huy vai trò của nhân dân với tư cách là trung tâm của sự sáng tạo và người hưởng thụ các giá trị văn hóa. 

Nhân kỷ niệm 80 năm ngày bản Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời, chúng ta có trách nhiệm tôn vinh, lan tỏa và phát huy giá trị của một văn kiện mang tầm cương lĩnh của Đảng về văn hóa, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp phát triển toàn diện con người Việt Nam và chấn hưng, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn mới./

ST

“NỢ NƯỚC NON", MỘT TÁC PHẨM XÚC ĐỘNG VỀ CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 “Nợ nước non” (NXB Văn học, 2022), quyển mở đầu bộ ba tác phẩm về thân thế, cuộc đời cách mạng, sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và tiến lên chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhà văn, nhà viết kịch Nguyễn Thế Kỷ ấp ủ thai nghén từ lâu, cuối cùng cũng đã ra mắt với đông đảo độc giả vào trung tuần tháng 5 năm 2022.

Tác phẩm kể về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn ở làng Chùa, làng Sen, rồi mấy lần ra vô Huế, vào Quy Nhơn, Phan Thiết, rồi vào Sài Gòn, trước khi lên tàu Admiral Latouche Tréville một ngày tháng 6 năm 1911, bắt đầu bôn ba hải ngoại, “đi tìm hình của nước”. Quãng thơ ấu chiếm phần lớn dung lượng thời gian của chuyện kể, và đó là quãng thơ ấu của một cậu bé bình thường chứ không phải một thần đồng với những lời nói hay hành động đột xuất.
Qua mô tả của nhà văn Nguyễn Thế Kỷ, người đọc hoàn toàn có thể xây dựng một hình dung về cậu bé Nguyễn Sinh Cung: sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo xứ Nghệ, lớn lên trong sự rèn cặp nghiêm cẩn của người cha, trong tình thương yêu và đức hy sinh vô bờ của bà ngoại và mẹ, trong sự chan hòa thân ái với bà con xóm giềng và bè bạn cùng trang lứa. Nhưng tuổi thơ của cậu không êm đềm: nó được đánh dấu bằng những cuộc dịch chuyển liên tục theo cha nay đây mai đó, thực chất là đi học để đỗ đạt cao, hoặc đơn giản là đi dạy học cho thiên hạ, lấy đó làm kế sinh nhai.
Ngay ở cuộc dịch chuyển đầu tiên, cả nhà vào Huế để ông Nguyễn Sinh Sắc theo học Quốc tử giám, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã nếm trải đến tận cùng nỗi đau mất mát: mẹ và đứa em mới chào đời của cậu đã chết, vì ốm và đói, khi cha còn đang bận chấm thi ngoài Thanh Hóa. Ở đoạn văn mô tả thời khắc bà Hoàng Thị Loan qua đời, để lại một hài nhi bấy bớt cho đứa bé mới mười tuổi hơn, Nguyễn Thế Kỷ dùng liên tiếp các câu văn ngắn, nhịp nhanh, tựa như những giọt nước mắt lã chã nối nhau trong nỗi đau xé người. Nỗi đau ấy, trong khung khổ một tuổi thơ như thế, có lẽ chính là điều mà Nguyễn Thế Kỷ muốn nhấn mạnh như một dẫn nhập vào cái cốt lõi của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh sau này: đó là tình thương yêu con người, đau cùng nỗi đau của con người và nỗi đau của nhân loại lao khổ.
Có ba nhân vật có thật của lịch sử đã được Nguyễn Thế Kỷ đưa vào thành ba nhân vật của tiểu thuyết, tạo ra những tình huống đối thoại đa dạng với Nguyễn Tất Thành, từ đó mở rộng tư tưởng và mài sắc thêm cho quyết định xuất dương của nhà cách mạng trẻ tuổi.
Nhân vật thứ nhất chính là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân phụ của Nguyễn Tất Thành, một nhà Nho ưu thời mẫn thế, nhưng cũng là một nhà Nho bị mắc kẹt trong chính những nguyên tắc truyền thống của Nho gia, yêu nước nhưng đành bất lực ôm mối đau mất nước đến hết đời.
Nhân vật thứ hai là ông giải San, tức Phan Bội Châu, người chủ trương cứu nước bằng con đường thiết huyết, tức đấu tranh bạo động trên cơ sở cầu viện (sau đó là cầu học) đế quốc Nhật Bản, một nước châu Á “đồng văn đồng chủng”. /.
ST