Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2023

KHÔNG ĐỂ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM

 Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam.

Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc
Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là “bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển, Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.
Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.
Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.
Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.
Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.
Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình
Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.
Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.
Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng; điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký kết các hiệp định song phương, đa phương...).
Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.
Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài tạo thành sức mạnh tổng hợp.
Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.
Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước, quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay./.
St

KIÊN TRÌ CHỐNG LẠI TUỔI GIÀ VÀ BỆNH TẬT

 

Sang đến năm 1967, Bác Hồ của tất cả chúng ta đã già và yếu đi nhiều. Nhưng ngày ba bữa, Bác vẫn tự mình từ nhà sàn, đi bộ đến nhà ăn. Một phần, không muốn phiền đồng đội Giao hàng, phần nữa, Bác muốn đặt ra cho mình một kỷ luật, buộc mình phải hoạt động, rèn luyện, chống lại suy yếu của tuổi già .
Các chiến sỹ ship hàng Bác rất áy náy. Phần thương Bác khó khăn vất vả, ngày nắng, còn ngày mưa ; phần lo Bác già yếu, chẳng may vấp ngã, nếu có chuyện gì thì ảnh hưởng tác động lớn đến việc làm của quốc gia và của Đảng .
Ngày đó, con đường quanh ao cá chưa được tôn tạo như lúc bấy giờ. Sau những trận mưa to, đường đi còn ngập nước. Nhưng đến giờ ăn, dù đang còn mưa, Bác vẫn xắn quần quá đầu gối, cầm ô, cùng chiến sỹ bảo vệ, lội nước đi sang nhà ăn. Nhìn ống chân Bác gầy gò, nổi gân xanh, đồng đội thương Bác, trào nước mắt, nhưng không sao thuyết phục được Bác được cho phép dọn cơm bên nhà sàn .
Bác nói :
– Các chú muốn chỉ một người khó khăn vất vả hay muốn cho nhiều người cũng phải khó khăn vất vả vì Bác .
Có hôm, buổi sớm, Bác vào thay quần áo xong, đến bữa, gặp trời mưa, Bác không muốn những chiến sỹ ship hàng phải giặt nhiều, Bác cởi quần dài, gập lại, cắp nách, sang đến nơi mới mặc vào. Bác coi mình cũng chỉ là một người Giao hàng và xem những chiến sỹ ship hàng cũng như mình nên không muốn làm phiền ai .
Tuy vậy, những chiến sỹ ship hàng Bác vẫn nỗ lực tìm mọi cách để hoàn toàn có thể đổi khác tình hình ấy .
Một hôm, Bác cho gọi chị Trần Thị Lý, người con gái miền Nam vào ăn cơm với Bác. Bác mời vào ngày Chủ nhật, nhưng hôm đó chiến sỹ Lý lại đi vắng thành ra hôm sau ( 3-7-1967 ) chị mới vào được .
Hôm đó, trời mưa rất to. Đồng chí Vũ Kỳ cho dọn cơm ngay bên dưới nhà sàn để Bác ăn cùng chị Lý. Thương chị Lý thương tật, đau yếu, đường mưa trơn, đi lại khó khăn vất vả, lần tiên phong, bữa đó Bác Hồ đồng ý chấp thuận ở lại ăn cơm dưới nhà sàn .
Hôm sau, những chiến sỹ ship hàng lại dọn cơm dưới nhà sàn, mời Bác ăn, coi như đã có một tiền lệ và không thỉnh thị Bác. Nhưng Bác đã cho gọi chiến sỹ Vũ Kỳ đến và phê bình :
– Các chú muốn để Bác hư thân đi có phải không ?
Ý Bác đã rõ ràng. Bác muốn mỗi ngày ba bận, mỗi bữa ăn, đi vòng quanh hồ một lần, như một kỷ luật bắt buộc phải rèn luyện so với mình .
Tuổi già, cũng như trẻ thơ, đều muốn được chiều chuộng. Bác biết : Nếu dễ dãi với mình và để cho người khác dễ dãi với mình, từ từ sẽ hư thân đi .
Không ai sinh ra đã thành lãnh tụ. Muốn trở thành vĩ nhân, phải có chí rèn luyện. Làm quản trị nước rồi, trở thành lãnh tụ kính yêu của cả giai cấp và dân tộc bản địa rồi, Bác Hồ vẫn không ngừng rèn luyện. Vì vậy, ở vị trí càng cao, càng nổi tiếng, tinh hoa, phẩm chất, đạo đức của Bác càng sáng, càng trong .
Ý nghĩa câu chuyện:
Câu chuyện nói lên ý chí nghị lực vượt khó khác thường của Bác Hồ, dù ở tuổi cao sức yếu nhưng người vẫn kiên trì rèn luyện chống lại tuổi già và bệnh để có sức khỏe thể chất tốt ship hàng cách mạng, ship hàng tổ quốc, ship hàng nhân dân lâu hơn thế nữa và nhiều hơn thế nữa .
Bài học kinh nghiệm:
Phải có lối sống đơn giản và giản dị, thân thiện dễ thông cảm, luôn chăm sóc đến mọi người, luôn “ Vì mọi người ” không muốn mọi người vì mình, việc gì làm được thì hãy tự làm không nên phiền hà đến người khác. Trong đời sống luôn tôn trọng và chăm sóc đến mọi người, yêu thương con người, đó là đức tính đáng quý chị em phụ nữ cần phải học tập ở Bác .
Sức khỏe là gia tài quý giá nhất của mỗi con người tất cả chúng ta ai cũng mong ước có sức khỏe thể chất tốt. Vì vậy mỗi tất cả chúng ta cần siêng năng rèn luyện thể dục thể thao để có sức khỏe thể chất tốt, tích cực tham gia học tập, lao động, sản xuất đem lại quyền lợi cho bản thân, mái ấm gia đình và xã hội./.
ST

QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN - MỘT DANH XƯNG BẤT HỦ

 Quân đội ta, tính từ ngày thành lập, 22/12/1944 đến tháng 9 năm 1954 đã 5 lần mang những tên gọi khác nhau. Nhưng từ tháng 9 năm 1954 đến nay, qua 65 năm danh xưng "Quân đội nhân dân" vẫn được giữ nguyên, không thay đổi.

Nhằm giải thích danh xưng này, một số người cho rằng “nhân dân” là một thuộc tính vĩnh hằng, bởi lẽ, Quân đội ta là quân đội của dân, do dân và vì dân, như “cá nằm trong nước”, nên Quân đội ta mang tên “Quân đội nhân dân” là duy nhất đúng, có gì mà phải bàn cãi. Cách giải thích như vậy tuy không sai nhưng chưa thật đầy đủ.
Về lý luận, phải hiểu “Quân đội nhân dân” là một danh xưng, thể hiện rõ bản chất của Quân đội ta. Đó chính là sự biểu hiện một cách cơ bản mối quan hệ biện chứng giữa tính dân tộc và tính giai cấp của tư tưởng Hồ Chí Minh trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Để tìm hiểu vấn đề, chúng ta hãy quay trở về với lịch sử dân tộc. Ai cũng biết, sau khi thấy rõ sự thất bại của các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, chứng tỏ rằng những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan của lịch sử. Năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã lặn lội sang phương Tây tìm đường cứu nước.
Sau khi tiếp cận lý luận của V.I.Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước, con đường giải phóng dân tộc là con đường cách mạng vô sản. Như vậy, là vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Người đã đến với học thuyết cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, lựa chọn con đường cách mạng vô sản và quyết tâm đưa dân tộc Việt Nam đi theo con đường đó.
Sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản, cũng như mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh là mối quan hệ cơ bản, có tác động mạnh mẽ đối với công cuộc giải phóng dân tộc và phát triển của toàn xã hội ở nước ta. Mối quan hệ, gắn bó không phải chỉ là để chứng minh cho sự đúng đắn của Chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, nhạy bén, kịp thời, đáp ứng đúng những đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm cho kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin và cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của sự nghiệp cách mạng nước ta trong suốt hơn bảy thập kỷ qua.
Chính những thực tế lịch sử sinh động của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đưa tới sự hình thành danh xưng “Quân đội nhân dân”. Chính cương và đường lối cách mạng của Đảng xác định “phải tổ chức ra đội quân công nông” nhưng trong những năm đầu tiên của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bên cạnh tầng lớp thanh niên công nông gia nhập quân đội còn có rất nhiều thanh niên yêu nước khác. Trong quân đội, bên cạnh yếu tố giai cấp là yếu tố dân tộc. Từ “nhân dân” trong danh xưng “Quân đội nhân dân” nhằm chỉ toàn dân, với ý nghĩa là thu hút hết thảy mọi lớp người, đoàn kết thành một khối thống nhất dân tộc xung quanh giai cấp công nhân, cùng tiến hành chiến tranh nhân dân, một loại hình chiến tranh toàn dân chống xâm lược truyền thống lâu đời của người Việt để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Tóm lại, trong nội dung khái niệm “nhân dân” đã có tính giai cấp vì công nhân và nông dân là thành phần lao động cơ bản, chiếm đại đa số trong nhân dân và “nhân dân” cũng chính là bao gồm tất cả mọi người trong dân tộc.
Trong danh xưng "Quân đội nhân dân", “nhân dân” đã trở thành một tính chất khác lạ, độc đáo và trở thành một thuộc tính vĩnh hằng của Quân đội ta. Chính nhờ thuộc tính đó mà Quân đội ta tồn tại và trưởng thành, danh xưng "Quân đội nhân dân" lấp lánh, lung linh, tỏa sáng. Cũng từ đó mà mọi người dễ dàng nhận thức ra nó và phân biệt nó với các kiểu loại quân đội khác, kể cả các kiểu loại quân đội trên đất nước ta, do giai cấp phong kiến và giai cấp nông dân đã tổ chức ra.
Đối với chúng ta ngày nay, “nhân dân” là một khái niệm rất gần gũi, quen thuộc nhưng cũng mang một ý nghĩa thiêng liêng, cao quý và vĩ đại.
Ở Việt Nam, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc đi theo con đường cách mạng vô sản mà Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga đã vạch ra. Mở đầu cho đường lối cách mạng đó là cuộc Tổng khởi nghĩa trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á và tiếp sau đó là tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và bước sang cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ khi ra đời, sống trong sức mạnh vĩ đại của nhân dân, quân đội đã trở thành một đội quân bách chiến bách thắng. Sở dĩ trở thành vô địch vì Quân đội nhân dân đã đi cùng nhân dân, biết dựa vào sức mạnh vô cùng của nhân dân, như đã nói, nhưng về phía khác chính là Quân đội nhân dân đã biết quên mình chiến đấu để bảo vệ “quyền làm người” (chữ NGƯỜI (NHÂN) viết hoa) mà Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho nhân dân./.
St

TIẾNG HÁT ÁT TIẾNG BOM: MỘT THỜI CHƯA XA

 

Tuổi trẻ Việt Nam đã sống, đã hành động, đã xả thân chiến đấu và cuối cùng đã dành chiến thắng không nhờ cậy ở sức mạnh vật chất đáng kể nào, mà chủ yếu là bằng sức mạnh tinh thần. Đó là những năm tháng nóng bỏng nhất của cuộc chiến tranh phá hoại do đế quốc Mỹ thực hiện trên miền Bắc nước ta – những năm 65 – 68 của thế kỷ trước. Thua đau ở miền Nam, Mỹ nguỵ đã tạo nên cái gọi là “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” để kiếm cớ huy động máy bay công kích miền Bắc vào ngày 5/8/1964 mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại.
Từ đó, chúng liên tục leo thang, mở rộng chiến tranh. Các thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Vinh và lần lượt tất cả thành phố, thị xã, khu công nghiệp đông dân cư đều bị giặc Mỹ ném bom. Sau lời hiệu triệu chống Mỹ cứu nước của Bác Hồ cùng với tuyến đầu, cả hậu phương miền Bắc đã hừng hực khí thế chiến đấu, sẵn sàng “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.
Văn nghệ luôn là một trận địa, và văn nghệ sĩ luôn là chiến sĩ xung kích trên trận địa ấy. Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch, đội ngũ văn nghệ sĩ lúc này nhanh chóng vào cuộc. Hàng loạt bài hát đã ra đời hừng hực khí thế chiến đấu của các tác giả Lưu Hữu Phước, Đỗ Nhuận, Văn Chung, Ngô Sĩ Hiển, Hoàng Vân, Phạm Tuyên mở đầu cho thời kỳ âm nhạc chống Mỹ.
Đó là các bài Thanh niên ba sẵn sàng (Lưu Hữu Phước), Giặc đến nhà ta đánh và Trai anh hùng gái đảm đang (Đỗ Nhuận), Đánh đích đáng (Ngô Sĩ Hiền), Từng bước đi vững chắc (Văn Chung), Phải giết là lũ giặc Mỹ (Trọng Loan)... Hàng trăm bài hát của những nhạc sĩ chuyên nghiệp nổi tiếng nhất đã rầm rộ ra đời như một bản hoà tấu vĩ đại, tạo nên dàn âm thanh hào sảng, giống như thể loại tranh áp phích, cổ động đã có sức cổ vũ lớn lao tới tất cả mọi người.
Lớn, bé, già, trẻ, mọi ngành, mọi giới đều cuốn vào không khí sôi động, khẩn trương nhất. Lúc này, âm nhạc không có chỗ cho nỉ non, thâm trầm, khai thác đời sống tình cảm riêng tư bởi người ta chỉ hướng tới một tình cảm duy nhất: Yêu quê hương đất nước, căm thù giặc ngoại xâm và quyết chiến quyết thắng.
Thể hành khúc, hình thức hát tập thể với tiết tấu sôi động, khẩn trương, dồn dập, hào sảng đã được tận dụng với hiệu quả tối đa nhất để cuốn mọi tâm hồn vào dòng thác thời cuộc với tình cảm lớn lao đặt lên trên hết: Đánh giặc, giải phóng miền Nam, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ.
Bên cạnh đội quân chủ lực là bộ đội giải phóng còn có một đội ngũ hùng hậu đã đóng góp công sức lớn lao làm nên chiến thắng năm xưa. Đó là đội thanh niên xung phong mà chủ yếu là đội quân tóc dài – những người đẹp tạm rời xa quê hương, lên đường ra tiền tuyến.
Các chị em đã cáng đáng những công việc: cứu thương, giao liên, mở đường và nhiều việc khác. Không quản khó khăn gian khổ, hi sinh tính mạng, họ đã mang bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ cống hiến cho sự nghiệp chung. Chính từ những đội quân tóc dài này, một bản hùng ca đầy lãng mạn đã được cất lên từ chiến trường, trên con đường Trường Sơn mà mỗi tấc đất đều thấm mồ hôi và máu của họ.
Vui tươi, yêu đời, dạt dào niềm lạc quan cách mạng, trong bom đạn, họ luôn cất cao lời ca tiếng hát. Từ đây mà TW đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh mới có sáng kiến phát động phong trào Tiếng hát át tiếng bom và rất nhanh chóng, phong trào này được tuổi trẻ cả nước, từ hậu phương ra tiền tuyến hưởng ứng. Đến nay, người ta không còn nhớ rõ ai là người nghĩ ra cụm từ này đặt tên cho phong trào và thời điểm nghĩ là lúc nào. Chỉ biết đó là những ngày tháng nóng bỏng nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Thực tế là trước khi chính thức phát động, tuổi trẻ trong chiến tranh đã cất tiếng hát rất tự nhiên và át được tiếng bom. Bởi bản chất của tuổi trẻ là sôi nổi, năng động, khát khao chiến thắng và thích xả thân vì lý tưởng cao quý, vì nghĩa lớn. Lý tưởng lúc ấy đối với mọi người Việt Nam nói chung và tuổi trẻ nói riêng chính là điều thiêng liêng mà Bác Hồ đã căn dặn “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Tuổi trẻ Việt Nam đã sống, đã hành động, đã xả thân chiến đấu và cuối cùng đã dành chiến thắng không nhờ cậy ở sức mạnh vật chất đáng kể nào, mà chủ yếu là bằng sức mạnh tinh thần. Đó chính là lòng yêu quê hương đất nước, ý thức về độc lập tự do của dân tộc. Và tiếng hát đã là biểu hiện rõ nhất của lý tưởng lạc quan. Chính yếu tố đó đã giúp họ “át tiếng bom”, tức là đè bẹp, chiến thắng được vũ khí tối tân của kẻ thù có sức mạnh vật chất.
Qua đi những ngày đầu tiên sau “Sự kiện vịnh Bắc Bộ” để bước vào cuộc đương đầu với chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc với hàng loạt các bài hát dồn dập, sôi động vừa nhắc ở trên, dần dần đi vào chiều sâu của cuộc kháng chiến, âm nhạc đã có dịp phản ánh, biểu hiện nhiều khía cạnh của tâm hồn người Việt Nam trong chiến tranh.
Bên cạnh những hành khúc, những bài hát tập thể vẫn tiếp tục ra đời, nhiều ca khúc trữ tình dành cho hát đơn ca đã bắt đầu xuất hiện. Tuy vẫn có âm hưởng chung là vui tươi, lạc quan nhưng những ca khúc trữ tình đã đi sâu vào những ngóc ngách tâm hồn con người với nhiều trạng thái phong phú tinh tế. Chính điều này đã tạo nên sức hấp dẫn đặc biệt mà ở giai đoạn hòa bình sau này khó tìm thấy lại.
Và cũng do đó mà rất nhiều người đã nhận định chí lý: Bài hát thời chống Mỹ rất hay, về sau này không thể bằng. Đúng là chẳng bao giờ còn có thể tìm thấy vẻ đẹp của những cô gái mở đường: Em đi lên rừng, cây xanh mở lối. Em đi qua núi, núi phải cúi đầu. Em đi bắc những nhịp cầu. Nối những con đường tổ quốc yêu thương. Cho xe thẳng tới chiến trường…
Đó là những cô gái thanh niên xung phong còn tươi trẻ đáng yêu trong “Cô gái mở đường” của Xuân Giao – những cô nàng mà “chưa thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát”. Đó là những cô giao liên luôn tự hào, kiêu hãnh và ý thức sâu sắc được công việc của mình: Đời giao liên bước tôi đi dài theo đất nước. Đường tôi đi núi chênh vênh có mây bay dưới chân dăng hàng. Đời tôi như những con thoi dệt tình yêu quê hương đất nước. Đời tôi như cánh chim bay suốt dãy Trường Sơn…( Bài Đường tôi đi dài theo đất nước của Vũ Trọng Hối).
Họ hồn nhiên, ung dung tự tại, bước vào cuộc kháng chiến bình thản, giản dị như làm bất cứ công việc gì của đời thường. Họ yêu đời, lạc quan từ trong bản chất. Nhưng họ chỉ là những người “vô danh”, cống hiến, hi sinh mà không cần ai phải trầm trồ, tôn vinh mà chỉ “những con đương mới biết mà thôi”. Hay nói như nhà thơ Thanh Hải, họ luôn nguyện làm “một con chim hót, một nhành hoa, một nốt trầm xao xuyến” để “biến trong hoà ca”.
Phong trào tiếng hát át tiếng bom ngày ấy không chỉ dấy lên mạnh mẽ ở vùng hoả tuyến, trên những cung đường Trường Sơn, bên những hố bom ven đường mà còn âm vang rộn rã ở hậu phương, trên những cánh đồng 5 tấn, trong những nhà máy, hầm lò, xí nghiệp. Tuổi trẻ nông thôn hát: 5 tấn thóc để góp phần đánh Mỹ. Một đóa hoa thơm mang tất cả sức trẻ già. Đất với người cùng một dòng suy nghĩ. Ấy phải làm gì với tiền tuyến hôm nay. Ấy phải làm gì nắm phần thắng trong tay. (Bài ca năm tấn – Nguyễn Văn Tý). Tuổi trẻ hầm mỏ hát: Nhìn gương than lấp lánh như muôn vì sao sáng. Ta đứng đây như đứng trước vũ trụ bao la, trong cuộc chiến đấu trường kỳ, ta là người chiến thắng, nhưng gian khổ nào bằng đồng bào và chiến sĩ miền Nam anh dũng… (Bài ca người thợ mỏ – Hoàng Vân).
Khắp nơi nơi, tiếng hát đã át hẳn tiếng bom. Quả là “Nhịp sống mới rộn rã nơi nơi náo nức lòng người. Sóng thi đua vang khắp nơi nơi, dậy khắp đất trời. Đất nước đang vui mùa chiến thắng. Khắp nơi đang tràn ngập chiến công. Tiền tuyến reo vui cùng hậu phương”.
40 năm đã trôi qua, khói lửa chiến tranh đã tan. Thời đạn bom khốc liệt ấy đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng dư âm của nó vẫn còn mãi và âm điệu hào hùng của thời tiếng hát át tiếng bom ấy vẫn vang vọng trong tâm khảm người Việt Nam hôm nay. Với chúng ta, thời ấy vẫn chưa xa./.
St

TIÊN PHONG TRÊN MỌI TRẬN TUYẾN

 

Trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, đảng viên cũng phải là người chiến sĩ đi đầu trên mọi mặt trận. Sứ mệnh đó đòi hỏi người đảng viên phải có nhiều phẩm chất hơn là chỉ “hiền lành, không làm gì hại ai”. Là người đi trước để “làng nước theo sau”, trước hết đảng viên cần phải thấm nhuần quan điểm, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và không chần chừ, e ngại tiên phong trên mọi trận tuyến, nhất là những khâu khó, việc khó, đòi hỏi phải chịu đựng nhiều hy sinh, gian khổ.
Đảng viên dù là cán bộ có chức vụ hay là công nhân, người lao động, nông dân, chiến sĩ cũng cần có kiến thức, năng lực hành động, có chuyên môn giỏi để đi đầu trong lao động sản xuất, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Trong thời đại ngày nay, yêu cầu này càng phải cao hơn bởi khoa học, công nghệ đã đi sâu vào mọi ngõ ngách đời sống, gắn liền với mọi ngành nghề, lĩnh vực. Bác Hồ từng chỉ dạy: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp gì được ai”.
Ở một trận tuyến khác cam go, khó khăn hơn đòi hỏi đảng viên phải có thêm cả dũng khí là đấu tranh với những thói xấu của chính mình và đồng chí của mình. Thời kỳ nào cũng vậy, trong mỗi con người đều tiềm ẩn "giặc nội xâm". Đó là tệ si mê quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, quan liêu, lạm quyền, vô trách nhiệm trước khó khăn của đồng bào, đồng chí, đồng đội... Để “đánh thắng kẻ địch bên trong của mỗi chúng ta”, người đảng viên phải dám nhìn thẳng vào sự thật, chống mọi biểu hiện của tư tưởng bảo thủ; dũng cảm nhận ra sai lầm, khuyết điểm; không che giấu hạn chế, luôn cầu thị sửa sai; mạnh dạn, thẳng thắn góp ý, phê bình, đấu tranh với các biểu hiện sai trái, lệch lạc của đồng chí, đồng đội, với cả cấp trên và cấp dưới trên tinh thần “giúp bạn là giúp mình”, góp phần diệt trừ thói hư, tật xấu.
Điều quyết định uy tín, năng lực lãnh đạo của Đảng nằm ở chất lượng đảng viên. Vì vậy, cần lựa chọn những quần chúng ưu tú, thực sự xứng đáng để kết nạp vào Đảng. Cùng với đó, Đảng cần kiên quyết đưa ra khỏi hàng ngũ những đảng viên đã mất đi nhiệt huyết, tính tiên phong, gương mẫu, ngại va chạm, thiếu dũng khí đấu tranh.../.
St

NGHĨA VỤ QUÂN SỰ 2024: ƯU TIÊN TRÌNH ĐỘ ĐẠI HỌC, NHẬP NGŨ TỪ NGÀY 25 ĐẾN 27/2/2024

 Theo Công văn 4267/BQP-TM, Bộ Quốc phòng có một số chỉ đạo đối với địa phương giao nhận quân như sau:

- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chính quyền địa phương các cấp, phát huy vai trò, trách nhiệm của các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội và sự giám sát của Nhân dân đối với công tác tuyển quân; chỉ đạo thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về nghĩa vụ quân sự (NVQS) và các quy định về tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ.
- Có kế hoạch cụ thể và triển khai thực hiện quy trình tuyển quân chặt chẽ, dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, đúng pháp luật; đảm bảo đúng địa bàn, đủ chỉ tiêu, chất lượng, thời gian giao nhận quân.
- Chỉ đạo phát huy tốt dân chủ ở cơ sở, tổ chức thực hiện bình cử, đề cử từ các thôn, xóm, tổ dân phố đề xuất công dân nam trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự có chất lượng tốt tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự bảo đảm dân chủ, công khai, chất lượng, hiệu quả.
- Tiến hành sơ tuyển, xét duyệt ở cấp xã chặt chẽ, đúng quy định; chỉ đạo niêm yết công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã và thông báo đến từng thôn về:
+ Chỉ tiêu tuyển quân huyện giao cho xã, thị trấn; điều kiện, tiêu chuẩn tuyển quân; trường hợp tạm hoãn gọi nhập ngũ và miễn gọi nhập ngũ; danh sách công dân trong diện gọi nhập ngũ; danh sách công dân tạm hoãn gọi nhập ngũ, miễn gọi nhập ngũ; danh sách công dân đủ điều kiện nhập ngũ; kết quả phân loại sức khỏe theo kết luận của Hội đồng khám sức khỏe thực hiện nghĩa vụ quân sự; danh sách công dân trúng tuyển nghĩa vụ quân sự sẵn sàng nhập ngũ theo đúng quy định;
+ Chú trọng tuyển chọn những công dân đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng có ngành nghề phù hợp với nhu cầu bố trí, sử dụng của Quân đội, con em vùng đồng bào dân tộc ít người (dưới 10.000 người) để tạo nguồn cán bộ cơ sở cho địa phương; bảo đảm tất cả các xã, phường, thị trấn đều có công dân nhập ngũ.
+ Chú ý về độ tuổi gọi nhập ngũ phải đủ 18 tuổi tính đến ngày giao nhận quân; hạn chế thấp nhất bù đổi, loại trả sau giao nhận quân.
Bên cạnh đó, theo Công văn 4267/BQP-TM thời gian giao nhận quân trong đợt NVQS năm 2024 là từ ngày 25/02/2024 đến hết ngày 27/02/2024./.
St

CÔNG NGHỆ CÀNG CAO, Y ĐỨC CÀNG PHẢI SÁNG

 Trong thời kỳ cách mạng 4.0, người thầy thuốc dễ trở thành tụt hậu và bất lực trước sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ cao; dễ trở nên ỷ lại và dựa dẫm hoàn toàn vào kỹ thuật mà coi nhẹ việc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, dẫn đến xa lánh người bệnh, méo mó đạo đức nghề nghiệp.

Đó là nhấn mạnh của GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng- Nguyên Thứ trưởng Bộ Y tế, Nguyên Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Nguyên Chủ tịch Tổng hội Y học Việt Nam tại buổi Tọa đàm: “Đạo đức y tế trong thời kỳ cách mạng 4.0” tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội vừa qua.
Tại buổi tọa đàm, GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng cho biết, không thể phủ nhận những lợi ích của sự phát triển khoa học kỹ thuật khi ứng dụng trong đời sống của con người và xã hội, đặc biệt là đối với ngành y. Tuy nhiên, dù khoa học công nghệ phát triển đến đâu thì nó cũng do con người tạo ra và áp dụng, vì vậy vẫn còn đó những tồn tại mà nếu chúng ta không làm chủ được khoa học công nghệ thì hậu quả để lại cũng rất lớn.
Trên thế giới và tại Việt Nam, sự phát triển của khoa học công nghệ đã tạo ra những thành tựu trong y học nổi bật như: Thành tựu y sinh học với việc phát hiện 6 bộ phận với chức năng mới trong cơ thể; Điều trị ung thư bằng BNCT; Công nghệ in 3D; Công nghệ Nano và y học; Phẫu thuật bằng Robot; Big DATA và y học; T.r.í t.u.ệ n.h.â.n t.ạ.o và y học; Công nghệ sinh học và y học, Công nghệ Tế bào gốc…
Theo GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng, song song với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng kéo theo những mặt trái của nó, cách mạng 4.0 và thách thức với đạo đức cán bộ y tế như: người thầy thuốc dễ trở thành tụt hậu và bất lực trước sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ cao; dễ trở nên ỷ lại và dựa dẫm hoàn toàn vào kỹ thuật mà coi nhẹ việc tiếp xúc trực tiếp với người bệnh, dẫn đến xa lánh người bệnh, méo mó đạo đức nghề nghiệp; lạm dụng công nghệ cao vào những mục đích khác nhau, trong đó có mục đích vụ lợi được che đậy một cách tinh vi bởi công nghệ cao.
Bằng dẫn chứng cụ thể, GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng đã phân tích và gửi gắm đến những người thầy thuốc của hiện tại; những sinh viên là bác sĩ, điều dưỡng trong tương lai có được cái nhìn tổng quan, có hướng đi cụ thể, tận dụng thành công của khoa học kỹ thuật trong y học nhưng không được lơ là mà phải luôn nâng cao đạo đức y tế. Dù ở đâu, công nghệ càng cao, y đức càng phải sáng. Nếu không, sự xuống cấp của đạo đức y tế sẽ bị che lấp và được ngụy biện bằng công nghệ.
Giáo sư nhấn mạnh, áp dụng những mặt tích cực, tiến bộ, ưu điểm của khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế nói riêng là tất yếu, nhưng khuyến cáo người làm nghề y không được sùng bái, lệ thuộc và tuyệt đối hóa các kỹ thuật cao không cần thiết, không được coi nhẹ “nhìn, sờ, gõ, nghe” trong khám, chữa bệnh, tránh mặt trái của khoa học công nghệ.
GS Phạm Mạnh Hùng chia sẻ, Ban Giám đốc Bệnh viện cần tiếp tục quán triệt, phổ biến sâu rộng lời dạy của các bậc tiền bối ngành Y và lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức người thầy thuốc trong cán bộ, đảng viên và nhân viên y tế Bệnh viện.
Buổi toạ đàm có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng cho các cán bộ y tế về y đức nghề nghiệp, đồng thời cũng nhắc nhở các bác sĩ, điều dưỡng- người đang ứng dụng công nghệ khoa học thời đại 4.0 phải luôn giữ đạo đức y tế trong mọi hoàn cảnh./.
St

CHỐNG BỆNH TỰ KIÊU, TỰ ÁI THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa tiến hành được 2 năm với nhiều khó khăn. Khi đó lại xuất hiện một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, công thần, hẹp hòi, kèn cựa địa vị, cục bộ bè phái, mất đoàn kết,...

Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Bệnh tự kiêu, tự ái", chỉ rõ thực chất của căn bệnh này và những nguy hiểm do căn bệnh đó sinh ra.
Cách đây 75 năm (15/11/1948 - 15/11/2023), với bút danh XYZ, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài "Bệnh tự kiêu, tự ái", nêu rõ nguồn gốc, tác hại và cách chữa trị căn bệnh này.
1. Những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về bệnh tự kiêu, tự ái
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm và trăn trở về tác hại của những căn bệnh làm suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, gây nguy hiểm cho xây dựng Đảng. Trong các tác phẩm: "Thư gửi các đồng chí Bắc Bộ" (năm 1947), "Sửa đổi lối làm việc" (năm 1947), "Bệnh tự ái, tự kiêu" (năm 1948), "Đạo đức cách mạng" (năm 1958), "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân" (năm 1969)... Trong số những căn bệnh đó, Người đã chỉ ra triệu chứng, nguy cơ nảy sinh bệnh tự kiêu, tự ái và tác hại của nó đối với Đảng.
Nhận diện bệnh tự kiêu, Người chỉ rõ những biểu hiện sau đây:
Thứ nhất, tự kiêu tức là cho mình "việc gì cũng thạo, cũng làm được. Việc gì mình cũng giỏi hơn mọi người. Mình là thần thánh, không cần học ai, hỏi ai". Tự kiêu là mù quáng "chỉ trông thấy những việc mình tưởng mình làm được, những điều mình tưởng mình biết hết; mà không trông thấy những điều mình không biết, những việc mình chưa làm được".
Thứ hai, tự kiêu là hẹp hòi "Tài đức độ lượng nhỏ nhen, không bao dung được những ý kiến và phê bình của người khác".
Thứ ba, tự kiêu là thoái bộ "Vì tự mãn tự túc, không cố gắng học hỏi thêm. Không theo kịp sự tiến bộ của thời đại. Tự mình ngăn trở sự tiến bộ của mình".
Thứ tư, tự kiêu là hủ hóa "Vì không chịu học những sự hay sự tốt của người; không ưa những lời phê bình thẳng thắn để sửa chữa những khuyết điểm của mình".
Hậu quả của căn bệnh tự kiêu được Bác chỉ ra là: "Tự kiêu nhất định sẽ đi đến thất bại. Vì kiêu ắt đi đôi với nịnh. Đã kiêu thì ắt ghét những người tài giỏi hơn mình. Ưa những kẻ nịnh hót mình. Thân cận là những kẻ vô tài bất lực, nhưng khéo nịnh hót a dua. Xa cách hoặc dìm hãm những người có tài có đức hay bàn ngay nói thẳng".
Nhận diện bệnh tự ái, Hồ Chí Minh nêu rõ: "Nghĩa chính của chữ tự ái là giữ đúng chữ cần, kiệm, liêm, chính. Không làm điều gì có hại đến danh dự và đạo đức của mình. Thế là chân chính tự ái". Chính vì không hiểu hết nghĩa của chữ tự ái, nên Người chỉ ra những biểu hiện của bệnh tự ái là "hay chấp vặt, không can đảm tự phê bình, không ưa những lời phê bình ngay thẳng". Bệnh tự ái luôn luôn đi đôi với tự kiêu, tự mãn, tự túc và kết quả của căn bệnh tự ái là "mình tự ngăn trở mình tiến bộ, đồng thời đã tự kiêu, tự ái thì không thể đoàn kết. Không đoàn kết tức là cô độc. Đã cô độc thì chẳng việc gì thành công".
Sau khi chỉ dẫn những biểu hiện của bệnh tự kiêu, tự ái và hậu quả to lớn của hai căn bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định "Mỗi một người và tất cả mọi chúng ta phải tẩy cho sạch bệnh tự kiêu, "tự ái". Đó là căn bệnh rất nguy hiểm cho đạo đức và công việc". Để chữa căn bệnh này, Chủ tịch Hồ Chí Minh kê thang thuốc thánh gồm có bốn vị là: Một là, thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình; hai là, cố gắng sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm; ba là, luôn luôn cố gắng học hỏi để luôn luôn tiến bộ; bốn là, thực hành đoàn kết.
2. Một số giải pháp chống bệnh tự kiêu, tự ái của Đảng hiện nay
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận thức được tầm quan trọng của việc phòng, chống bệnh tự kiêu, tự ái, Đảng đẩy mạnh công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng đã được triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, toàn diện, đồng bộ, thống nhất, thực sự đi vào cuộc sống, có nhiều bước đột phá quan trọng…, nhận diện sâu sắc, đầy đủ hơn các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; kết hợp hài hòa giữa "xây" và "chống". Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng còn không ít hạn chế, khuyết điểm… Nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có người đứng đầu chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu; còn biểu hiện quan liêu, cửa quyền, chưa thực sự sâu sát thực tế, cơ sở… Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm… Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên không chỉ làm nản lòng, nhụt chí và cản trở sự phấn đấu của những nhân tố tích cực (nhất là cán bộ trẻ), mà còn gieo rắc sự hoài nghi, gây mất đoàn kết nội bộ.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, để chủ động đấu tranh phòng, chống biểu hiện của căn bệnh tự kiêu, tự ái là mù quáng, hẹp hòi, thoái bộ, hủ hóa và tự kiêu, tự mãn, ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình trong cán bộ, đảng viên, các cấp ủy Đảng và người đứng đầu cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Một là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII, XIII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh". Chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết trong từng chi bộ, làm hạt nhân cho khối đoàn kết của tập thể. Tận dụng và phát huy tối đa lợi thế của phương tiện truyền thông, nhất là trên mạng xã hội, tạo sự lan tỏa mạnh mẽ, sâu sắc trong cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa... trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Hai là, thường xuyên, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình gắn với đề cao trách nhiệm nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ động thực hành dân chủ rộng rãi kết hợp thường xuyên tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, với tính tự giác cao của mỗi cán bộ, đảng viên. Quá trình tiến hành chống bệnh tự kiêu, tự ái, thực hiện thang thuốc thánh của Bác Hồ là tự phê bình và phê bình phải bảo đảm dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu cầu, nội dung, phương pháp: "Thực hiện tốt các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Nêu gương phải thực sự trở thành một nội dung quan trọng trong phương thức lãnh đạo của Đảng".
Ba là, phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của mỗi cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ và rèn luyện đạo đức cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên kiên quyết chống tư tưởng ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình; rèn luyện tính tự ái, không cô độc, hẹp hòi, phát huy tính khiêm nhường lắng nghe, học hỏi và thân ái, giúp đỡ, sẻ chia, động viên mọi người xung quanh để cùng chung tay, góp sức hoàn thành công việc chung: "Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ bổn phận và trách nhiệm của mình, luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức và không bị cám dỗ bởi vật chất, tiền tài, danh vọng... Nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên "tự soi", "tự sửa" và nêu cao danh dự, lòng tự trọng của người đảng viên".
Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật trong Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng chủ động xây dựng, bổ sung, hoàn thiện quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức, làm tốt công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc cấp ủy cấp trên kiểm tra, giám sát cấp ủy cấp dưới, kiểm tra chéo, kiểm tra định kỳ và không định kỳ. Quá trình kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm mọi cán bộ, đảng viên vi phạm về đạo đức, lối sống, góp phần giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng. "Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát trong Đảng, kết hợp với phát huy vai trò giám sát của báo chí và nhân dân đối với việc thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên".
Chống bệnh tự kiêu, tự ái theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn và mãi luôn mang tính thời sự; góp phần quan trọng trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trưởng thành, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, lãnh đạo đất nước phồn vinh, ấm no, hạnh phúc./.
ST

KHỞI NGHĨA HAI BÀ TRƯNG: THỨC TỈNH TINH THẦN DÂN TỘC

 Khởi nghĩa Hai Bà Trưng là cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử Việt Nam do hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị lãnh đạo. Cuộc khởi nghĩa bắt đầu vào năm 40 (Canh Tý), đã đánh đuổi được lực lượng cai trị nhà Đông Hán ra khỏi Giao Chỉ. Đó là lần đầu tiên trong lịch sử người dân Việt đứng lên vì nền độc lập cũng như niềm tự hào của mình.

Tức nước vỡ bờ
Từ khi nhà Triệu tiêu diệt An Dương Vương và thiết lập quyền cai trị trên lãnh thổ Âu Lạc cũ, chế độ thống trị dừng lại ở cấp quận với đại diện là 2 viên quan sứ ở 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Đến khi nhà Tây Hán diệt nhà Triệu (111 trước Công nguyên), cấp độ thống trị vẫn ở cấp quận; chế độ các Lạc hầu, Lạc tướng của người Việt với quyền thế tập trên lãnh thổ Âu Lạc cũ được các chính quyền phương Bắc chấp nhận cho duy trì, nhưng ngày càng suy yếu.
Từ khi nhà Đông Hán thành lập, Hán Quang Vũ Đế tuy chưa dẹp xong các lực lượng cát cứ phương Bắc nhưng vẫn quan tâm tới miền Nam. Tích Quang, Nhâm Diên làm Thái thú Giao Chỉ và Thái thú Cửu Chân của nhà Hán, ra sức thực hiện chính sách đồng hóa, thay đổi tập tục từ hôn nhân đến y phục, lễ nghĩa của người Việt bắt theo người Hán, dẫn đến xúc phạm nặng nề tới phong tục cũ nhiều đời của người Việt.
Từ khi Tô Định sang làm Thái thú Giao Chỉ năm 34, ách thống trị của nhà Đông Hán càng nặng nề hơn với người Việt. Tô Định tàn bạo và tham lam, tăng cường phục dịch và thuế khóa đối với người Việt để cống nạp cho triều đình nhà Hán nhiều hơn, thúc ép các Lạc tướng nhiều hơn. Sự đụng chạm lớn về văn hóa, tín ngưỡng và kinh tế khiến mâu thuẫn giữa người Việt - không chỉ nhân dân mà cả các Lạc tướng - với chế độ thống trị của nhà Hán ngày càng gay gắt. Vì vậy các Lạc tướng đã đoàn kết nhau lại để chống đối.
Trong số các Lạc tướng có ý chống lại sự thống trị của nhà Hán, nổi lên nhà Trưng Trắc ở Mê Linh, Phong Châu và nhà Thi Sách ở Chu Diên. Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, hai nhà đồng lòng tập hợp lực lượng chống lại sự cai trị của nhà Hán và đã tập hợp được sự ủng hộ của khá nhiều thủ lĩnh địa phương khác. Trước khí thế chống đối của các thủ lĩnh người Việt, Tô Định đã giết Thi Sách để hy vọng dập tắt sớm ý định chống đối. Thù chồng bị giết càng khiến Trưng Trắc hành động gấp rút trong việc khởi binh chống nhà Hán.
Tuy nhiên, có những sử liệu cho thông tin khác về Thi Sách. Ngoài việc ông tên là Thi (chứ không phải Thi Sách), “Thủy kinh chú” cho biết ông cùng Trưng Trắc khởi nghĩa thắng lợi và 3 năm sau mới tử trận cùng vợ; sách “Thiên Nam ngữ lục” cho rằng Thi Sách có tham gia khởi nghĩa với Trưng Trắc và tử trận trước khi khởi nghĩa thắng lợi và sử gia Đào Duy Anh đồng tình với thuyết này.
Các sử gia khẳng định khởi nghĩa vẫn nổ ra dưới sự lãnh đạo của Hai Bà Trưng dù chồng Trưng Trắc không bị giết. Do đó nguyên nhân chính dẫn tới cuộc khởi nghĩa không phải là cái chết của Thi Sách mà là chính sách đồng hóa gắt gao và bóc lột hà khắc của nhà Đông Hán đối với người Việt tại Giao Chỉ đương thời. Lê Văn Siêu trong sách “Việt Nam văn minh sử” thậm chí còn cho rằng, việc Thi Sách tên thật là gì, có bị giết hay không trong sự kiện Hai Bà khởi nghĩa không phải là một chi tiết quan trọng.
Thời của các nữ tướng
Vai trò lãnh đạo nòng cốt là các Lạc hầu, Lạc tướng dòng dõi Hùng Vương, có uy tín với nhân dân và ít nhiều được chính quyền đô hộ phương Bắc vì nể. Ngoài 3 đại diện tiêu biểu là Trưng Trắc, Trưng Nhị và Thi Sách, các sử gia khẳng định còn có nhiều thủ lĩnh địa phương khác có nguồn gốc Lạc tướng.
Một nhân vật được xem là đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ trước khởi nghĩa là bà Man Thiện - mẹ của Trưng Trắc và Trưng Nhị. Bà được xem là cháu chắt bên ngoại của Hùng Vương, góa chồng sớm, nuôi dạy hai con gái nghề trồng dâu nuôi tằm và võ nghệ. Bà Man Thiện có vai trò tổ chức lực lượng, giao thiệp với các quan lang các vùng xung quanh ủng hộ con khởi nghĩa.
Điều đáng chú ý là phần lớn các tướng lĩnh của cuộc khởi nghĩa là phụ nữ được các thần tích, truyền thuyết ghi lại: Trưng Trắc, Trưng Nhị, Man Thiện, Diệu Tiên, Bát Nàn, Đào Kỳ, Lê Hoa, Lê Chân, Phương Dung, Trinh Thục, Thánh Thiên, Thiện Hoa, Nàng Tía, Xuân Hương, Ả Di, Ả Tắc, Ả Lã, Nàng Đô… Số tướng lĩnh nam chiếm số lượng ít hơn: Đỗ Năng Tế, Hùng Nguyên (chồng Trưng Nhị), ông Đống, ông Cai, ông Nà, Đồng Bảng, Đô Chính, Đô Dương…
Các tướng lĩnh này đều có quan hệ huyết thống bên nội hay ngoại, hoặc là bè bạn của nhau. Theo ý kiến của các sử gia, dù được đời sau gán cho những “mỹ tự” và được đặt “họ” (tên họ), mà vào những năm đầu Công nguyên người Việt chưa có "họ", nhưng tất cả cho thấy kết cấu quan hệ huyết tộc, vị trí, vai trò của người phụ nữ, người mẹ, người vợ còn rất lớn không chỉ trong gia đình mà cả trong mọi mặt của hoạt động xã hội Việt Nam khi đó. Điều đó được xem là tàn dư của chế độ mẫu quyền còn phổ biến thời Hai Bà Trưng ở Việt Nam.
Lên ngôi Vua bà
Tháng 9 năm 39, Trưng Trắc và Trưng Nhị tập hợp các tướng lĩnh cùng nhau làm Hội thề ở cửa sông Hát (huyện Phúc Thọ, Hà Nội) thuộc huyện Mê Linh thời đó. “Thiên Nam ngữ lục” ghi lời thề của Trưng Trắc như sau: "Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin dựng lại nghiệp xưa họ Hùng /Ba kêu oan ức lòng chồng/ Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này".
Sau một thời gian chuẩn bị, tháng 2 năm 40, Trưng Trắc cùng Trưng Nhị chính thức phát động khởi nghĩa chống lại nhà Đông Hán. Cuộc khởi nghĩa được sự hưởng ứng của nhiều đội quân và nhân dân các nơi thuộc Âu Lạc và Nam Việt cũ.
Quân Hai Bà trước tiên tấn công Đô úy trị quận Giao Chỉ ở Mê Linh. Chiếm được nơi đây, Hai Bà Trưng tiến đánh huyện Tây Vu, chiếm thành Cổ Loa. Trên đà thắng lợi, từ Cổ Loa, Hai Bà Trưng mang quân vượt sông Hoàng, sông Đuống đánh trị sở Giao Chỉ ở Luy Lâu bên bờ sông Dâu (lãng Lũng Khê, Thuận Thành, Bắc Ninh). Quân khởi nghĩa tấn công quá nhanh khiến Tô Định không kịp trở tay. Trước thế mạnh của quân Hai Bà, các viên quan cầm đầu không dám chống cự, bỏ chạy về phương Bắc.
Thái thú Giao Chỉ là Tô Định hoảng hốt cũng tháo chạy. Để thoát thân, Tô Định phải cạo tóc, cạo râu, trà trộn vào loạn quân, vứt bỏ ấn tín mà chạy. Tương truyền người Việt đương thời vẫn có tục lệ phổ biến là cạo tóc, nên Tô Định bắt chước làm như vậy cho khỏi bị phát hiện trên đường trốn chạy. Cuối cùng, Tô Định thoát về quận Nam Hải, bị Mã Viện dâng sớ lên Hán Quang Vũ Đế hạch tội “thấy tiền thì giương mắt lên, thấy giặc thì cụp mắt xuống”. Vua Hán hạ ngục trị tội Tô Định.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng được nhân dân khắp nơi hưởng ứng. Sau khi Luy Lâu bị hạ, các thành khác nhanh chóng tan vỡ và quy phục. Cuộc khởi nghĩa lan rộng vào Cửu Chân, Nhật Nam, sang Uất Lâm, Hợp Phố… Khởi nghĩa thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, xưng vương. Thần phả cho biết Trưng Nhị được phong làm Phó vương.
Giương cao ngọn cờ tự hào dân tộc
Dưới sự lãnh đạo của hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị, nhiều lực lượng chống ách đô hộ của nhà Đông Hán đã kết hợp làm một, trở thành một phong trào khởi nghĩa rộng lớn của người Việt, đánh đổ sự cai trị của nhà Hán trên toàn bộ lãnh thổ Âu Lạc và Nam Việt cũ.
Điều này được các sử gia đánh giá là một sự thức tỉnh của tinh thần dân tộc Việt, một sự tái nhận thức quan trọng về quyền sống theo cách riêng của người Việt. Cuộc khởi nghĩa phản ánh ý thức dân tộc đã khá rõ rệt của Lạc tướng và Lạc dân trong các bộ lạc hợp thành nước Âu Lạc cũ. Ý thức về độc lập chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt trên con đường hình thành qua hơn 200 năm mất nước - khoảng thời gian mà các triều đại phong kiến phương Bắc ráo riết thực hiện đồng hóa nhằm biến Âu Lạc vĩnh viễn là quận huyện của Trung Quốc - vẫn tồn tại và phát triển trong lòng người Việt.
Đây là cuộc khởi nghĩa chống sự cai trị của Trung Quốc đầu tiên của người Việt trong 1.000 năm Bắc thuộc. Các Lạc tướng cùng hậu duệ của họ là đại biểu của phong trào này. Hai Bà Trưng đã dựa vào nhân dân khôi phục lại sự nghiệp cũ của Vua Hùng. Cuộc khởi nghĩa là sự phủ nhận hiên ngang cường quyền của các triều đại phương Bắc coi các dân tộc xung quanh là “Man Di”, thuộc quốc buộc phải phục tùng “thiên triều”, “thiên tử”, phủ nhận tư tưởng “tôn quân, đại thống nhất”.
Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng do phụ nữ đứng đầu, trong thế giới tư tưởng “trọng nam khinh nữ” của đế chế Hán cổ đại, được xem là sự đối chọi quyết liệt về văn hóa, nếp sống, nếp tư duy của đôi bên Nam - Bắc, Việt - Hán./.
ST

“ĐÂU CÓ GIẶC LÀ TA CỨ ĐI”

 "Hành quân xa dẫu có nhiều gian khổ/Vai vác nặng ta đã đổ mồ hôi/Mắt ta sáng, chí căm thù bảo vệ đồng quê ta tiến bước/Đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi..."-Lời bài hát “Hành quân xa” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận hơn 60 năm qua đã vang lên hùng tráng, tự hào trong những chặng đường hành quân của các thế hệ Bộ đội Cụ Hồ. Ít người biết, bài hát được sáng tác rất nhanh, chỉ khoảng một giờ đồng hồ, khi tác giả Đỗ Nhuận hành quân cùng bộ đội tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954.

Từ trước Chiến dịch Đông-Xuân 1953-1954, nhạc sĩ Đỗ Nhuận đã ấp ủ ý định sáng tác một bài hành khúc cho chiến sĩ vừa hành quân vừa hát. Nhưng dự định mãi vẫn chưa viết ra được. Trong một khóa học chính trị, được gặp Bác, Đỗ Nhuận bày tỏ băn khoăn với Bác về việc sáng tác hành khúc. Bác khuyên: “Theo Bác thì chú cứ sáng tác thế nào cho đông đảo cán bộ, chiến sĩ và nhân dân thích là được”.
Câu nói giản dị của Bác đã có sức gợi mở lớn đối với Đỗ Nhuận. Một lần, ông cùng Đại đội 267, Tiểu đoàn 54 (nay là Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 102) hành quân lên Điện Biên Phủ. Lúc đó, không ai biết mình có vinh dự được tham gia Chiến dịch Trần Đình (mật danh của Chiến dịch Điện Biên Phủ). Bộ đội hành quân mà không biết sẽ tập kết ở đâu. Họ cùng nhau bàn luận, phán đoán ý đồ tác chiến của cấp trên. Bỗng một người trong tốp nói: "Thôi, khỏi cần biết, đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi". Thế là câu nói tình cờ ấy trở thành tứ thơ để Đỗ Nhuận phát triển thành ca từ bài “Hành quân xa”. Và bài hành khúc nổi tiếng đã tập trung và làm nổi rõ chủ đề tư tưởng "đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi". Có thể nói đây là một sáng tác mẫu mực cho thể hành khúc. Bài hát được viết ở thể một đoạn gồm bốn câu nhạc rất cân đối, vuông vức. Âm vực toàn bài được khống chế trong vòng một quãng 8 là quãng lý tưởng đối với quảng đại quần chúng vì dễ hát. Tuy vậy, do cách sắp đặt các vòng hòa âm và giai điệu có sự biến động ít nhiều về tiết tấu mà bài hát giản dị nhưng vẫn phong phú về màu sắc, không bị đơn điệu.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận sinh năm 1922, quê ở Cẩm Bình, Hải Dương. Ông là Tổng thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam khóa I và II, được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về âm nhạc. Ca khúc đầu tiên ông sáng tác là "Trưng Vương". Sau Cách mạng Tháng Tám, ngay khi Nam Bộ kháng chiến (23-9-1945) ông đã viết ca khúc "Tiếng súng Nam Bộ". Ca khúc "Đoàn lữ nhạc" của ông cũng được phổ biến rộng rãi trên cả nước. Bên cạnh ca khúc “Hành quân xa”, ông còn có nhiều bài hát nổi tiếng về Chiến thắng Điện Biên Phủ như: “Giải phóng Điện Biên”, “Trên đồi Him Lam”, “Chiến thắng Tây Bắc”.../.
ST

DANH KHÔNG CHÍNH, NGÔN CÓ THUẬN

 Người xưa có câu: “Danh chính ngôn thuận”. Nhưng thực tế có những trường hợp dù “danh” không chính, “ngôn” vẫn tạo được hiệu ứng truyền thông; thậm chí, có những “loạn ngôn” không có tính xây dựng, sai trái, xấu, độc, do chưa kịp thời ngăn chặn, xử lý, đã lây lan và gây tác hại không nhỏ.

Vấn đề xã hội “nổi cộm” hiện nay là, trên các nền tảng truyền thông mới, không ít người huyễn hoặc, ảo tưởng, cuồng vọng, tự phong mình là những người “có sức ảnh hưởng trong cộng đồng”, tùy tiện bình phẩm, phán xét về người khác và các vấn đề xã hội. Nực cười hơn, có những kẻ với tư tưởng chống đối, thù địch, tự may vá cho mình cái áo “đại diện của dân chủ, nhân quyền”(?!) để truyền bá thông tin xấu, độc; dù chẳng đại diện cho bất cứ nhóm, tầng lớp xã hội nào, nhưng vẫn thao thao bất tuyệt phán xét, nói xấu nhân dân, đất nước Việt Nam. Cùng với đó, là tình trạng tin giả (fakenews) nở rộ. Điểm chung của mấy hiện tượng này là: Lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của một “không gian xã hội mới”, thực - ảo lẫn lộn, cùng với việc luật pháp có thể còn chưa kín kẽ, có thể có lúc còn xử lý duy tình; bất chấp hành vi phản cảm, phản văn hóa, coi “tai tiếng” là nổi tiếng; không ít kẻ có động cơ ẩn sau là những toan tính, âm mưu thấp hèn, phản động,...
Nhưng tình trạng không tuân thủ kỷ luật phát ngôn, dù mức độ nguy hiểm tức thì có thể không lớn, không nóng, không rõ như những trường hợp trên, song lại là mối họa âm ỉ từ bên trong, nếu kéo dài có thể gây ra hậu quả khôn lường.
Vẫn có những câu chuyện rằng: Có người khi muốn nâng đỡ, tán dương hoặc hạ bệ, “đánh” ai đó, thường mượn danh tập thể, với những nhận xét mang “vỏ bọc” tập thể, như “chúng tôi nhận thấy”, “dư luận cho rằng”,... Khi có “bổng lộc”, “mồi ngon” thì cá nhân tự quyết, nhưng nếu gặp vấn đề khó khăn, phức tạp lại “đặt lời vào mồm người” để nếu rủi ro thì dễ dàng né tránh. Một số người tùy tiện phát ngôn về các vấn đề chẳng phải trách nhiệm của mình; lại có người, dù có quyền và trách nhiệm phát ngôn, nhưng thường “mũ ni che tai”, “im lặng là vàng”. Vẫn còn những biểu hiện của việc thấy đúng không lên tiếng bảo vệ; thấy sai không lên tiếng đấu tranh,... Ở chiều nhận: Có người ít tiếp nhận thông tin chính thống của những người chịu trách nhiệm phát ngôn, mà lựa chọn các nguồn khác, kể cả “thông tấn xã vỉa hè”; không lắng nghe, tìm hiểu số đông mà chỉ nghe những người lân la tìm đến mình để “nhỏ to tâm sự”; thích nghe những gì “giật gân”, “sốc”, “lề trái”;... Có cả việc buông lỏng quản lý, kiểm soát, khiến lời đồn lan truyền trong cơ quan, đơn vị, cộng đồng, để đến khi mọi việc sáng tỏ thì sự đã rồi.
Đáng lẽ, chỉ cần nhận thức rõ: danh không chính - ngôn không thuận, thì tất cả những hiện tượng trên sẽ khó xảy ra, hoặc không thể lan rộng. Điều canh cánh là: không phải tất cả chúng ta đều có tâm thế không tin những loại người, loại phát ngôn không chính danh. Vẫn có người nhẹ dạ cả tin; có người nhận thức “chưa tới”; có nhiều người thích nghe những cái khác lạ, thậm chí sai trái với thực tế cuộc sống; có cả người tự đưa chân vào bẫy rồi lu loa mình là nạn nhân của truyền thông “bẩn”, thông tin xấu, độc,... Tư tưởng, nhận thức của chính một bộ phận chúng ta tạo ra mảnh đất dung dưỡng hiện tượng danh không chính mà ngôn như vẫn thuận(?!).
Hiện nay, một yêu cầu thân thuộc, giản dị mà rất nghiêm khắc, của người đứng đầu Đảng ta là: mỗi cá nhân, đơn vị, tổ chức phải “đúng vai, thuộc bài”. Đồng thời, mỗi người, nhất là cán bộ, đảng viên, cần có trách nhiệm trong kỷ luật phát ngôn, quyền phát ngôn và lương tâm phát ngôn. Quy chế, quy tắc ứng xử, hệ thống quy định về kỷ luật phát ngôn đã được ban hành. Quyền, trách nhiệm, kỷ luật phát ngôn có thể được điều chỉnh, định hướng bởi một đội ngũ cán bộ, đảng viên thực tài, thực đức, sẵn sàng nêu gương. Tuy nhiên, việc thực hiện “danh chính ngôn thuận” trong một xã hội dân chủ, văn minh chỉ thành công trên cơ sở đồng thuận, trí tuệ mỗi người và toàn cộng đồng, cùng với tinh thần “thượng tôn pháp luật”./.
ST