Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

 Việc hiểu đúng tự do ngôn luận không chỉ là tôn trọng quyền lợi cá nhân mà còn là sự nhận thức về trách nhiệm đạo đức và pháp luật trong việc sử dụng quyền này. Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý, qua đó góp phần bảo đảm an ninh tư tưởng-văn hóa và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

HỆ QUẢ "VẠ MIỆNG" VÌ LÀM DỤNG TỰ DO NGÔN LUẬN

Những năm gần đây, một bộ phận người dân, trong đó có một số công chức, viên chức, nhà văn, nhà báo, luật sư... đã lạm dụng quyền tự do ngôn luận để phát ngôn vô lối trên mạng xã hội, kể cả phát ngôn gây thù ghét, thông tin sai sự thật, đưa ra ý kiến tùy tiện với dụng ý xấu, kể cả chống phá Đảng, Nhà nước.

Tháng 8-2022, Sở Thông tin và Truyền thông TP Đà Nẵng đã xử phạt vi phạm hành chính với mức 7,5 triệu đồng đối với một nhà báo đăng tải bài viết về việc Đà Nẵng đề xuất mở "phố đèn đỏ" trên mạng xã hội. Theo cơ quan chức năng, bài viết của nhà báo này có những nội dung sai sự thật, hình ảnh đăng tải nhạy cảm, không kiểm chứng làm người đọc hiểu sai vấn đề, gây ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo điều hành của TP Đà Nẵng đối với sự phát triển du lịch.

Lạm quyền tự do ngôn luận cũng là một biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị

Tự do ngôn luận không phải là tự do tùy tiện phát ngôn mà là một trách nhiệm được thực hiện theo các chuẩn mực pháp lý và đạo lý. (Ảnh minh họa: lamdong.gov.vn)

Mới đây, một luật sư nguyên là Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP Hà Nội bị khởi tố, bắt giam trong vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” xảy ra tại Hà Nội và các tỉnh, thành phố. Theo Bộ Công an, bị can này đã có hành vi vi phạm pháp luật, lợi dụng các quyền tự do dân chủ, đăng tải những bài viết trên Facebook xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Không riêng ở Việt Nam, sự phát ngôn tùy tiện, thông tin sai sự thật cũng xảy ra ở nhiều quốc gia khác và các trường hợp này cơ bản đã bị xử lý nghiêm khắc.

Tháng 7-2023, Hamdan Al Rind-một người có ảnh hưởng trên mạng, chủ kênh chia sẻ video nổi tiếng “Chuyên gia ô tô” trên mạng xã hội  TikTok với hơn 2,5 triệu người theo dõi-đã bị bắt ở Dubai vì một video hài. Trong clip này, anh ta ném những chồng hóa đơn cho những nhân viên đang ngơ ngác và đề nghị mua chiếc xe đắt nhất-một chiếc Ferrari SF90 trị giá 600.000USD. Clip được cho là sản xuất nhằm chế giễu lối sống xa hoa tại thành phố nổi tiếng với những tòa nhà chọc trời và những điểm du lịch hàng đầu thế giới này.

Nhà chức trách sau đó buộc tội Hamdan Al Rind đã “lạm dụng internet” bằng cách đăng thông tin “khuấy động dư luận và gây tổn hại đến lợi ích công cộng”. Hãng thông tấn nhà nước WAM đưa tin, clip này “quảng bá một hình ảnh tinh thần sai trái và xúc phạm về công dân Các tiểu vương quốc Arab thống nhất và chế giễu họ”. Vụ bắt giữ Hamdan Al Rind dựa trên những quy định tại một đạo luật về tội phạm mạng được Các tiểu vương quốc Arab thống nhất thông qua vào năm 2021.

LHQ-ST

Việt Nam luôn quan tâm chăm lo, bảo vệ quyền lợi của người lao động

 Với thái độ cực đoan, thiếu thiện chí, nhiều năm qua Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) thường xuyên đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Lợi dụng sự việc Bộ Thương mại Mỹ tổ chức phiên điều trần về nâng cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam, HRW tiếp tục đưa thông cáo xuyên tạc việc bảo đảm quyền của người lao động, phủ nhận vai trò của tổ chức công đoàn ở Việt Nam, gây bức xúc dư luận.

Lãnh đạo Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương thăm hỏi, động viên công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn tại Công ty cổ phần Xe lửa Dĩ An.

Lãnh đạo Liên đoàn Lao động tỉnh Bình Dương thăm hỏi, động viên công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn tại Công ty cổ phần Xe lửa Dĩ An.

Ngày 8/5/2024, Bộ Thương mại Hoa Kỳ tổ chức phiên điều trần công khai tiến hành đánh giá về việc có phân hạng Việt Nam là “nền kinh tế thị trường” hay không. Tại phiên điều trần, đại diện của Việt Nam nêu rõ các lập luận, thông tin, số liệu khẳng định nền kinh tế Việt Nam hoàn toàn đáp ứng các tiêu chí của quy chế kinh tế thị trường; đồng thời nhấn mạnh, nền kinh tế Việt Nam còn làm tốt hơn so với nhiều nền kinh tế đã được công nhận quy chế kinh tế thị trường.

Chia sẻ trên Reuters ông Ted Osius, cựu Đại sứ Mỹ tại Việt Nam, hiện là Chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Mỹ - ASEAN khẳng định: “Việt Nam đã là nền kinh tế thị trường rồi. Việt Nam đáp ứng các tiêu chí quan trọng, như khả năng chuyển đổi của tiền tệ và sẵn sàng để được công nhận một cách chính xác. Doanh nghiệp Mỹ đầu tư mạnh tay vào Việt Nam, qua đó công nhận tiềm năng tăng trưởng của nước này”.

Tuy nhiên với thái độ thù địch, thiếu thiện chí HRW lập tức đưa ra thông cáo cho rằng chính quyền Việt Nam đang đưa ra các thông tin sai lệch hoặc dễ gây hiểu lầm cho phía Hoa Kỳ và các đối tác kinh tế khác để đạt được hay duy trì các quy chế ưu đãi thương mại. Cùng với đó, HRW đưa ra những phân tích, đánh giá sai sự thật về quyền của người lao động. Cụ thể ông John Sifton, Giám đốc Vận động Ban Á châu của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đưa ra đánh giá tiêu cực rằng: “Lời tuyên bố tôn trọng quyền của người lao động của Việt Nam chỉ dựa trên các ngôn từ và lời hứa sáo rỗng, các văn bản luật pháp và quy định xa rời thực tế về hiện trạng quyền của người lao động ở quốc gia này”; “Ở Việt Nam không hề tồn tại bất kỳ một công đoàn độc lập nào hay các khung pháp lý khả thi cho việc thành lập công đoàn hoặc cho người lao động có thể đòi thi hành các quyền của mình”.

Thực tế cho thấy trong suốt nhiều năm qua, với thái độ thiếu thiện chí, HRW không từ bỏ bất cứ một “cơ hội” nào, từ các sự kiện chính trị, ngoại giao, cho đến các hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị, hay tư pháp... để công kích, xuyên tạc, gây sức ép, hạ thấp uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Những đánh giá thường xuyên bóp méo hiện trạng về việc bảo đảm quyền lợi người lao động tại Việt Nam tiếp tục minh chứng cho điều này.

Về phiên điều trần của Bộ Thương mại Hoa Kỳ xem xét việc công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, tại cuộc họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao vào chiều 9/5, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nêu rõ, Việt Nam hoan nghênh Bộ Thương mại Hoa Kỳ tổ chức phiên điều trần. Đồng thời Người phát ngôn Bộ Ngoại giao cũng cho biết đến nay đã có 72 nước công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường, trong đó có những nền kinh tế lớn, như Anh, Canada, Australia, Nhật Bản... Việt Nam cũng đã tham gia 16 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương với hơn 60 đối tác trải rộng khắp các châu lục. Kết quả này phần nào cho thấy những nỗ lực của Việt Nam trong việc xây dựng một nền kinh tế thị trường năng động, hiệu quả đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, và là cơ sở quan trọng cho các quan hệ hợp tác ngày càng đi vào chiều sâu.

Do đó những luận điệu của HRW cố tình phủ nhận nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, đưa ra những thông tin không phản ánh đúng sự thật về quyền của người lao động Việt Nam là thiên kiến, cực đoan, khó có thể chấp nhận.

Thực tiễn cho thấy lao động và việc làm là một trong những quyền cơ bản của công dân được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và được cụ thể hóa bằng các văn bản pháp luật cũng như bảo đảm thực thi trong đời sống. Tại Điều 35, Hiến pháp 2013 khẳng định: “Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi. Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Bộ luật Lao động năm 2019 tại Khoản 1, Điều 4 Chính sách của Nhà nước về lao động làm rõ: “Bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động, người làm việc không có quan hệ lao động; khuyến khích những thỏa thuận bảo đảm cho người lao động có điều kiện thuận lợi hơn so với quy định của pháp luật về lao động”.

Đồng thời Luật cũng xác định quyền và nghĩa vụ của người lao động, đó là: hưởng lương phù hợp với trình độ, kỹ năng nghề trên cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động; được bảo hộ lao động, làm việc trong điều kiện bảo đảm về an toàn, vệ sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có hưởng lương và được hưởng phúc lợi tập thể. Cùng với đó người lao động được thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật; yêu cầu và tham gia đối thoại, thực hiện quy chế dân chủ, thương lượng tập thể với người sử dụng lao động và được tham vấn tại nơi làm việc để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình; tham gia quản lý theo nội quy của người sử dụng lao động.

Tại Đại hội XIII của Đảng, đề cập đến nội dung phát triển tổ chức công đoàn, Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tiếp tục khẳng định: “Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay”.

Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam nhiệm kỳ 2023-2028 diễn ra vào tháng 12/2023 cũng đã chỉ rõ trong bối cảnh gặp nhiều khó khăn, thách thức so với dự báo, song hoạt động công đoàn tiếp tục có bước chuyển quan trọng, tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng trong đại diện, chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của đoàn viên, người lao động.

Các cấp công đoàn đã chủ động, tích cực đổi mới và nâng cao chất lượng tham gia xây dựng chính sách, pháp luật liên quan đến người lao động và hoạt động công đoàn; phát hiện, đề xuất nhiều kiến nghị, góp ý xây dựng luật để chăm lo, bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người lao động.

Vai trò của công đoàn trong việc tham gia xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ trong doanh nghiệp tiếp tục được khẳng định. Các mô hình chăm lo cho đoàn viên, người lao động ngày càng thiết thực, hiệu quả, được lan tỏa mạnh mẽ.

Đặc biệt, thời điểm dịch COVID-19 bùng phát trên cả nước khiến nhiều người lao động bị ảnh hưởng. Chính trong bối cảnh khó khăn đó, các cấp công đoàn đã tích cực vào cuộc, vừa tham gia phòng chống dịch bệnh vừa đồng hành với người lao động. Tiêu biểu có thể kể đến là việc triển khai các gói hỗ trợ dành cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh; tặng sổ tiết kiệm công đoàn cho con đoàn viên bị mồ côi do COVID-19 với tổng số tiền hỗ trợ gần 6.000 tỷ đồng. Song song đó, nhiều phong trào thi đua trong thời điểm dịch COVID-19 đã được triển khai hiệu quả, như “Công nhân, viên chức, lao động nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19”, được cụ thể hóa bằng Chương trình “75 nghìn sáng kiến vượt khó, phát triển” và Chương trình “1 triệu sáng kiến nỗ lực vượt khó, sáng tạo, quyết tâm chiến thắng đại dịch COVID-19” đã sớm đạt mục tiêu với nhiều sáng kiến có giá trị, ý nghĩa xã hội lớn...

Những kết quả nổi bật kể trên cho thấy sự quan tâm, chăm lo của các cấp công đoàn cả nước đối với người lao động. Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam cũng đã đặt ra chỉ tiêu đến hết nhiệm kỳ là cả nước có 15 triệu đoàn viên công đoàn, thành lập tổ chức cơ sở ở 100% doanh nghiệp có từ 25 lao động trở lên; ít nhất 83% doanh nghiệp, đơn vị có tổ chức công đoàn đủ điều kiện theo quy định của pháp luật được công đoàn thương lượng, ký kết được thỏa ước lao động tập thể theo quy định của pháp luật; phấn đấu 90% trở lên số vụ việc về lao động khởi kiện tại tòa án được công đoàn hỗ trợ, tham gia tố tụng bảo vệ khi đoàn viên có yêu cầu.

Một trong những khâu đột phá trong nhiệm kỳ tới được Đại hội lựa chọn là đẩy mạnh đối thoại, thương lượng tập thể, trọng tâm là tiền lương, tiền thưởng, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, an toàn vệ sinh lao động.

Cũng cần nhấn mạnh rằng từ năm 1992, Việt Nam tái gia nhập Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO). Từ đó đến nay Việt Nam luôn thể hiện nỗ lực cam kết và thực hiện các công ước quốc tế nói chung, các công ước quốc tế về quan hệ lao động nói riêng, nhằm thúc đẩy và bảo đảm tiêu chuẩn lao động cơ bản cho người lao động ở Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế về quyền của người lao động. Cụ thể, Việt Nam đã tham gia 25 công ước của ILO. Chỉ riêng trong năm 2019, Việt Nam đã phê chuẩn 3 công ước của ILO, bao gồm Công ước 88 về tổ chức dịch vụ việc làm, Công ước 159 về tái thích ứng việc làm cho người khuyết tật, Công ước 98 về quyền thương lượng tập thể. Các nội dung quan trọng trong các công ước cơ bản của ILO đều đã được phản ánh trong các quy định trong Bộ luật Lao động.

Với đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước cùng với sự nỗ lực chủ động và tích cực của tổ chức công đoàn, trong suốt nhiều năm qua quyền lợi của người lao động Việt Nam luôn được bảo đảm. Đây là cơ sở quan trọng tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, cũng như góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường của nước ta. Thực tiễn sinh động này chính là căn cứ quan trọng nhất góp phần bác bỏ những luận điệu bóp méo, xuyên tạc vấn đề người lao động ở Việt Nam./.

LHQ-ST

 PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

Việt Nam là đất nước độc lập, tự cường, luôn có khát vọng và tầm nhìn phát triển, có đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và rộng mở. Vì vậy, Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào công việc chung của cộng đồng quốc tế. Việt Nam luôn nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, trong đó có quan hệ với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng như các cường quốc trên thế giới, với mục tiêu tối thượng là đảm bảo cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở luật pháp quốc tế. Nhưng ngày 24/3/2023, trên trang blog BBC Tiếng Việt, các thế lực phản động đã tán phát bài “Biển Đông trong mối quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc hiện nay ra sao” và ngày 25/3/2023, trên trang blog Đài Á Châu Tự Do (RFA) tán phát bài "Quan hệ Việt-Mỹ. Nói vậy nhưng không phải vậy", nội dung xuyên tạc đường lối đối ngoại và chính sách hội nhập, mở cửa của Đảng, Nhà nước ta, kêu gọi Việt Nam cần "chọn bên" trong quan hệ quốc tế, đồng thời, kích động gây chia rẽ mối quan hệ ngoại giao Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Hoa Kỳ. 

Qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện, tích lũy, nâng tầm được cả thế và lực nhất định, uy tín ngày càng gia tăng trên trường quốc tế, đã tạo ra những tiền đề quan trọng và vị thế thuận lợi để phát triển. Trong đó, công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng và quản lý thống nhất của Nhà nước, đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, lĩnh vực, phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, đã hoàn thành tốt các nhiệm vụ phát huy vai trò tiên phong trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo vệ Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa; chủ động, tích cực đẩy mạnh hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng; huy động nguồn lực to lớn từ bên ngoài phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên thế giới.

Chiến lược đối ngoại của Việt Nam đặt trong tổng thể đường lối phát triển của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; gắn kết hài hòa, chặt chẽ, có hiệu quả với đường lối, chính sách quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đặt sự phát triển của đất nước vào dòng chảy của thời đại, từ đó xây dựng, triển khai các đường lối, chính sách phù hợp, phát huy tối đa sức mạnh dân tộc, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đánh giá và dự báo đúng tình hình trong nước và quốc tế, tinh thần không ngừng sáng tạo, đổi mới tư duy trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, phù hợp với lợi ích quốc gia-dân tộc và xu thế thời đại.

Thành công trong công tác đối ngoại còn là kinh nghiệm trong việc nắm vững thời cơ, giành thắng lợi từng bước, từ phá thế bao vây cấm vận, tiến tới chủ động thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa nhằm mở rộng quan hệ đối ngoại, đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, thiết lập các khuôn khổ hợp tác bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện.

Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định nguyên tắc nền tảng và tư tưởng chỉ đạo của đối ngoại thời kỳ đổi mới là thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Cùng với đó, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; ý chí tự lực, tự cường và nội lực là quyết định, cơ bản, lâu dài; nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Trên diễn đàn Quốc hội chiều 04/11/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính cũng tiếp tục khẳng định trước các đại biểu và cử tri cả nước: “Đường lối đối ngoại của Việt Nam là không chọn bên, mà chọn công lý và lẽ phải”.

Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, ngày 14/12/2021, diễn ra tại Hội trường Diên Hồng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã sử dụng hình ảnh cây tre Việt Nam, mềm mại, nhưng rất kiên cường như tính cách của con người, dân tộc Việt Nam linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn, Tổng Bí thư đã nhấn mạnh quan điểm về “Quyết tâm xây dựng và phát triển một nền đối ngoại và ngoại giao Việt Nam hiện đại, mang đậm bản sắc dân tộc và trường phái ngoại giao cây tre Việt Nam”.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, một lần nữa khẳng định quan điểm của các thế lực thù địch về đường lối đối ngoại của Việt Nam nói chung và quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc và Hoa Kỳ trên các trang blog phản động là hoàn toàn sai trái, bịa đặt. Khẳng định quan hệ hợp tác, đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam với các nước lớn là ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Việt Nam./.

Thái độ, trình độ hay đức độ?

 Dạo gần đây, câu nói “thái độ hơn trình độ” dường như trở nên khá phổ biến. Có không ít người bình luận, phân tích mối quan hệ hoặc so sánh ý nghĩa, giá trị “cao - thấp”, “hơn - kém” giữa chúng và trong nhiều trường hợp, thường ghi nhận, đánh giá cao yếu tố “thái độ” trong việc quyết định sự thành công của một cá nhân.

Nhưng tất cả điều đó đều xuất phát từ quan điểm cá nhân!

Từ góc độ công tác cán bộ, đặc biệt là trong việc nhìn nhận, đánh giá cán bộ, giữa thái độ và trình độ, yếu tố nào là quan trọng hơn?

Thái độ, theo nghĩa mà chúng ta thường hiểu, là cách một người bộc lộ suy nghĩ, quan điểm, tình cảm, cá tính, hay cách phản ứng, cư xử của người đó đối với người khác và với sự việc, hiện tượng xung quanh. Trong mọi mối quan hệ, thái độ, cách ứng xử của mỗi người là rất quan trọng. Thái độ, cách ứng xử của người cán bộ trong các mối quan hệ công việc lại càng quan trọng, bởi nó tác động trực tiếp đến quá trình xử lý công việc, khả năng phối hợp công tác, xây dựng môi trường làm việc…, từ đó ảnh hưởng đến kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của họ và chất lượng, hiệu quả hoạt động của tổ chức. Tuy nhiên, xét đến cùng, thái độ của một người mà chúng ta nhìn vào để đánh giá trình độ, năng lực và nhân cách của họ, ở góc độ nào đó, nhiều khi chỉ là cái vỏ, là vẻ bề ngoài và đôi khi, có thể chỉ là sự “trưng trổ” mà chủ thể rắp tâm lựa chọn để cho người khác nhìn thấy, “cảm thấy”, không hề phản ánh đúng nội dung, bản chất bên trong.

Trình độ của một người, trên thực tế, không phải là “món quà trời ban”, không chỉ dựa vào sự may mắn hay tố chất bẩm sinh, mà phải trải qua quá trình không ngừng học hỏi, khổ công tích lũy, luyện rèn mới có được. Trình độ học vấn, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ cũng vậy. Không thể có cán bộ giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ mà chây ỳ, lười nhác trong công việc, học tập. Để đánh giá trình độ của cán bộ, không thể chỉ nhìn vào bằng cấp, hay bị dẫn dắt bởi những bài diễn văn “chém gió trên trời”, mà phải thông qua công việc, từ công việc.

So sánh thái độ của một cán bộ này với trình độ của một cán bộ khác, rõ ràng là không cùng một trường khái niệm và rất khập khiễng; càng không thể căn cứ vào yếu tố riêng biệt nào để ưu tiên trong đánh giá, sử dụng cán bộ. Tuy nhiên, khi nhìn vào hai yếu tố này ở mỗi cán bộ, nếu đủ tinh tường, khách quan và bao dung, chúng ta có thể thấy được bản chất đích thực, nhất là sự đức độ ở trong họ, để đánh giá thật đúng và toàn diện, làm căn cứ cho việc lựa chọn, sử dụng cán bộ một cách phù hợp, hiệu quả.

Trong đội ngũ cán bộ hiện nay, không khó để bắt gặp một số người rất thành công trong việc biểu hiện thái độ khiến nhiều người - nhất là cán bộ lãnh đạo cấp trên, những người có liên quan trực tiếp đến lợi ích và con đường thăng tiến của họ - cảm thấy đẹp lòng, yêu thích, được đánh giá là đúng mực, hòa nhã, khiêm nhường hay hăng hái, nhiệt tình, trách nhiệm..., nhưng đằng sau lại ngấm ngầm đổ việc cho đồng nghiệp một cách điệu nghệ, giảo hoạt hoặc tranh công, đổ lỗi, hạ uy tín của người khác… Lúc này, cái thái độ vốn được người khác yêu thích, ngợi khen, thực chất chỉ là kỹ nghệ biểu diễn ở mức độ “thượng thừa”, nhằm che đậy sự hãnh tiến, lười nhác, kém cỏi.

Việc dùng người, vẫn là câu chuyện muôn thuở, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, không phải của riêng quốc gia hay thể chế chính trị nào. Để sử dụng cán bộ thật đúng, thật hiệu quả, việc đánh giá cán bộ có ý nghĩa quyết định. Thiết nghĩ, trong đánh giá cán bộ, nên lấy đức làm gốc, làm tiêu chí quan trọng hàng đầu; cùng với đó, nên xuất phát từ yêu cầu, đặc thù vị trí công tác của họ thì mới soi chiếu, hiểu rõ trình độ, năng lực, thái độ của họ. Bản thân quá trình đánh giá cán bộ cũng là quá trình đánh giá đức độ, trình độ, năng lực và thái độ của chính những người làm công tác đánh giá cán bộ. Thông qua quá trình này, chúng ta có thể thấy liệu họ có thật sự đủ công bằng, chính trực, khách quan, công tâm và trình độ để đánh giá đúng cán bộ, phát hiện đúng hiền tài không, hay chỉ là kẻ “tự tư, tự lợi”, hẹp hòi, “cận thị”, vì tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán mà kéo bè, kết cánh, chỉ nhìn ra những anh em “quan hệ và tiền tệ”, sẵn sàng dìm người có tài năng bằng những lý do chung chung, khó định lượng hoặc bằng lý do “thái độ”(!)./.

LHQ-ST

Không nhầm lẫn giữa phương thức dân chủ với sự "theo đuôi quần chings"

 “Theo đuôi quần chúng” gây ảnh hưởng xấu đến việc hoàn thành nhiệm vụ của tập thể, vì thế, phải kiên quyết ngăn chặn, loại bỏ. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Học hỏi quần chúng, nhưng “tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng”(1); “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo”(2). Theo đó, các cấp ủy, tập thể, đơn vị phải chú trọng học tập đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cũng như cần thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nghiêm khắc tự soi, tự sửa; có phong cách gần dân, nhưng không “mị dân”, không “theo đuôi quần chúng”, không rơi vào “chủ nghĩa dân túy”. Điều đó bảo đảm xây dựng được cấp ủy, tập thể, đơn vị trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, thống nhất, có đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn có sự lầm lẫn nhất định giữa phương thức dân chủ với một biểu hiện có vẻ như là phương thức dân chủ: Đó chính là tệ “theo đuôi quần chúng”. Hai khái niệm này, về bản chất, là khác xa nhau. Theo Từ điển Tiếng Việt, “Phương thức công tác dân chủ” là việc “tôn trọng và tạo điều kiện để mọi người tích cực thảo luận và tham gia quyết định các công việc chung”; trong khi đó, “Theo đuôi quần chúng” là việc người lãnh đạo làm theo số đông “một cách thụ động, thiếu suy nghĩ riêng”(3).

Một số biểu hiện của tệ “theo đuôi quần chúng” trong thực tế ở một số cơ quan, đơn vị là: Người lãnh đạo dựa dẫm vào cấp dưới, không có chính kiến rõ ràng trong điều hành công việc, không tạo lập được văn hóa công vụ của tổ chức; có quan hệ khăng khít quá mức với cấp dưới, ứng xử với cấp dưới, đồng nghiệp theo cách “chiều lòng” theo một số sở thích, nguyện vọng không chính đáng, không hợp pháp làm ảnh hưởng đến công việc chung; để cho cấp dưới làm những việc vốn thuộc thẩm quyền của cá nhân người lãnh đạo; hùa theo số đông một cách vô nguyên tắc...

Sự phân biệt giữa phương thức làm việc dân chủ và tệ “theo đuôi quần chúng” không hề khó, bởi chúng đều có nội dung và đặc điểm nhận dạng cụ thể, rõ ràng. Thế nhưng, tại sao đôi lúc trong thực tế, ta vẫn bắt gặp sự lẫn lộn giữa phương thức làm việc dân chủ với những biểu hiện của tệ “theo đuôi quần chúng”? Nguyên nhân của thực trạng này cần được xem xét từ 3 yếu tố chủ yếu: Thứ nhất, trình độ chính trị của người lãnh đạo. Thứ hai, tính cách của người lãnh đạo. Thứ ba, động cơ làm việc của người lãnh đạo.

Về nội dung thứ nhất, trình độ chính trị của người lãnh đạo thể hiện qua tư duy, nhận thức, tư tưởng chính trị và hành động thực tế của người đó. Trình độ chính trị của người lãnh đạo được rèn giũa và nâng lên thông qua sự tích lũy về kinh nghiệm chuyên môn cũng như trải nghiệm về cuộc sống. Tuy nhiên, một khi trình độ chính trị của người lãnh đạo còn khiếm khuyết, chưa hoàn thiện thì sẽ chưa đủ năng lực để nhận thức, tách biệt một cách rạch ròi giữa phương thức làm việc dân chủ với những biểu hiện của tệ “theo đuôi quần chúng”. Trình độ chính trị không vững có thể dẫn đến biểu hiện, hệ lụy của một trong hai thái cực: Hoặc cứng nhắc, cô độc; hoặc chỉ “theo đuôi quần chúng”. 

Ở khía cạnh thứ hai, có nhiều người bản tính xuề xòa, không có đủ sự quyết đoán cần thiết ở cương vị lãnh đạo; hoặc dù không đủ năng lực công tác, nhưng vì lý do nào đó, họ vẫn được bổ nhiệm làm lãnh đạo. Khi họ điều hành công việc sẽ dễ dẫn tới “theo đuôi quần chúng”, đánh mất vai trò lãnh đạo của người đứng đầu. Nguyên nhân của tình trạng này là do đôi khi công tác đánh giá, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ còn có hạn chế, thiếu sót. Vì thế nên chưa chọn lựa được người đứng đầu có đủ tư chất cũng như năng lực, trình độ chuyên môn; do vậy, ảnh hưởng đến sức mạnh của tập thể trong thực hiện nhiệm vụ chính trị.

Đối với khía cạnh thứ ba, “theo đuôi quần chúng” còn thể hiện sự suy giảm đạo đức cách mạng của người lãnh đạo. Vì tính toán cá nhân mà họ hùa theo nguyện vọng không chính đáng của một số cá nhân có những suy nghĩ không đúng đắn, thiếu trách nhiệm; thậm chí, có người lãnh đạo còn cố tình hướng lái suy nghĩ của tập thể theo hướng có lợi cho mình, để rồi lấy lý do là “căn cứ vào nguyện vọng của số đông” để đưa ra những quyết định nhằm trục lợi cho bản thân và “nhóm lợi ích”./.

Đấu tranh đẩy lùi hiện tượng đoàn kết xuôi chiều, hình thức

 Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(1). Thực hiện lời Di huấn của Bác, hơn 50 năm qua, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tạo thành “sức mạnh vô địch” giành được thắng lợi trước những nhiệm vụ cách mạng đầy khó khăn, gian khổ qua từng thời kỳ.

Tuy nhiên, trong sinh hoạt chi bộ hiện nay ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị đã xuất hiện những biến tướng của nguyên tắc đoàn kết thống nhất, đó là tình trạng đoàn kết “xuôi chiều”, “hình thức” với biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau:

Thứ nhất, trong sinh hoạt chi bộ, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện phụ họa theo ý kiến của người đứng đầu, vì sợ va chạm, sợ mất lòng “thủ trưởng” nên không dám thể hiện chính kiến, không trao đổi thẳng thắn, mà cứ “thủ trưởng nghĩ sao thì em theo thế”.

Thứ hai, trong cuộc họp, có tình trạng tất cả cán bộ, đảng viên đều thể hiện sự nhất trí cao với ý kiến của người đứng đầu, song sau đó thì lại “lời ra tiếng vào”, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, “bằng mặt nhưng không bằng lòng”.

Những biến tướng đó cần được khắc phục triệt để, bởi đoàn kết “xuôi chiều”, “hình thức” sẽ gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng, làm suy giảm bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, khiến họ “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, lâu dài sẽ tiềm ẩn hình thành “nhóm lợi ích” để trục lợi. Nếu đoàn kết thống nhất làm nên sức mạnh của Đảng, thì đoàn kết “xuôi chiều”, “hình thức” lại làm chia rẽ, suy yếu Đảng.

Để đẩy lùi hiện tượng đoàn kết “xuôi chiều”, “hình thức” trong sinh hoạt chi bộ, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng, đảng viên cần tiếp tục quán triệt, nâng cao nhận thức, trách nhiệm về tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, “Nội dung sinh hoạt chi bộ phải gắn với thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị;... bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, đoàn kết nội bộ;... lắng nghe và giải quyết nguyện vọng chính đáng của đảng viên và nhân dân”(2) theo tinh thần Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022, của Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII, “Về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới”. Và hơn lúc nào kết, yêu cầu cấp thiết đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, giữ gìn phẩm chất, đạo đức cách mạng; phát huy hơn nữa trách nhiệm tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cấp./.

LHQ-ST

Tiếp tục xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh

 Trong những năm tới, tình hình thế giới, trong nước cùng với những thời cơ, thuận lợi cũng sẽ còn có nhiều khó khăn, thách thức lớn. Trên cơ sở nhận định, đánh giá đúng tình hình, Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, phấn đấu: “- Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp./ - Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao./ - Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(20). Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đó, toàn Đảng, toàn dân ta cần tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, trên tinh thần vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trên một số mặt chủ yếu:

Một là, kiên định, vững vàng và không ngừng sáng tạo trong xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, hướng tới mục tiêu xây dựng đất nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc”. Muốn đổi mới thắng lợi, chúng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; kiên định nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc xây dựng Đảng. Kiên định, nhưng không ngừng sáng tạo, tránh giáo điều, bảo thủ. Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới phải thường xuyên tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn để nắm bắt, dự báo chính xác những xu hướng phát triển mới của tình hình thế giới, cập nhật tri thức, tiếp thụ tinh hoa văn hóa nhân loại, nhất là những thành tựu mới trong lĩnh vực khoa học - công nghệ; không ngừng hoàn thiện đường lối đổi mới, luôn có sự kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới.

Hai là, quán triệt nguyên tắc đổi mới là lấy lợi ích tối cao của dân tộc, của nhân dân, hạnh phúc của con người làm mục tiêu; lấy mục tiêu độc lập dân tộc, chủ quyền, thống nhất và sự giàu mạnh của quốc gia làm mục đích trên hết, trước hết; lấy quyền làm chủ và lợi ích của nhân dân, sự phát triển toàn diện và hạnh phúc của con người Việt Nam làm đạo lý đổi mới. Nhân dân là chủ thể của đổi mới và là người thụ hưởng thành quả của đổi mới; con người là mục tiêu và động lực của sự nghiệp đổi mới. Đó chính là bản chất nhân văn của đổi mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh và cũng là giá trị bền vững và sức sống mãnh liệt của đổi mới.

Ba là, đổi mới cần dựa trên quy luật vận động khách quan của lịch sử, phù hợp với nhu cầu, khát vọng của nhân loại. Toàn cầu hóa và sự phát triển bùng nổ công nghệ thông tin, cùng hệ thống kết cấu hạ tầng toàn cầu, làm cho các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau hơn; hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng trở thành một xu thế lớn không thể đảo ngược. Tư tưởng và sự chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự gắn bó chặt chẽ cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, về việc tăng cường hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở hòa bình, hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi,... vẫn còn nguyên giá trị. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh để xác định, tranh thủ nguồn lực bên ngoài là rất quan trọng, nhưng phát huy nguồn lực nội sinh là yếu tố quyết định; ngoại lực phải kết hợp với nội lực để nhân lên sức mạnh tổng hợp quốc gia; hợp tác, hội nhập, nhưng phải giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính.

Bốn là, đổi mới là một quá trình cách mạng lâu dài, gian khổ, muốn giành thắng lợi, trước hết phải phát huy tinh thần gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là đổi mới phong cách tư duy, phong cách lãnh đạo, để phát huy  cao nhất sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về tư tưởng, đạo đức cách mạng, phong cách làm việc của người cách mạng. Người đã truyền lại cho chúng ta bài học lớn về phong cách tư duy, phong cách đổi mới; nhạy bén nắm bắt diễn biến lịch sử, chủ động tranh thủ thời cơ, giữ vững nguyên tắc và mạnh bạo sáng tạo, kịp thời đổi mới, gắn liền lý luận với hành động(21).

Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước trong gần 40 năm qua đã khẳng định giá trị to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng trong xây dựng niềm tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện khát vọng xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa phồn vinh, hùng cường và thịnh vượng./.

LHQ-ST

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam

 Nhìn lại lịch sử, trước đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước có nền kinh tế nghèo nàn, chưa phát triển, lại bị chiến tranh tàn phá, để lại những hậu quả hết sức nặng nề. Sau chiến tranh, đất nước lại chịu sự bao vây, cấm vận của Mỹ và các nước phương Tây trong gần 20 năm; tình hình khu vực và quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, gây bất lợi cho Việt Nam. Lương thực, hàng hóa nhu yếu phẩm vô cùng thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới, do đó kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt gần 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD)”(15).

Song song với phát triển kinh tế, đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân cũng được quan tâm phát triển. Hiện nay, Việt Nam có gần 80% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu Thiên niên kỷ. “Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng”(16).

Trong gần 40 năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của nhân loại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên một trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “Cây tre Việt Nam”. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo, nhưng cũng rất kiên cường, đầy bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái, nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Kết quả là, từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia(17), trong đó 7 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam đã và đang thể hiện tốt vai trò là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế; có nhiều sáng kiến, đề xuất và chủ động, tích cực tham gia hiệu quả vào các hoạt động của ASEAN, Liên hợp quốc và nhiều tổ chức quốc tế khác. Đặc biệt, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện hoặc đối tác chiến lược với 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại với 230 quốc gia và vùng lãnh thổ.  Đây là những thành tựu đáng tự hào, là động lực và niềm tin để Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới; từng bước thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam hùng cường, đưa dân tộc Việt Nam tiến cùng nhịp bước với trào lưu tiến bộ trên thế giới và ý nguyện hòa bình, phát triển của nhân loại.

Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới và đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đây là minh chứng sinh động và thuyết phục nhất khẳng định giá trị vĩ đại, sức sống trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua”(18) và “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi”.

LHQ-ST

Chủ tịch Hồ Chí Minh là trung tâm quy tụ ý chí, khát vọng, niềm tin vào sức mạnh của sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

 Cuối thế kỷ XX, khi mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, nhiều nhà lãnh đạo ở các nước xã hội chủ nghĩa bị công kích thì Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được thế giới tôn vinh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô không thành công, trong khi đó công cuộc đổi mới ở Việt Nam lại đạt được thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nguyên nhân mang tính quyết định là bởi, tư tưởng, nhân cách văn hóa, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta, luôn soi sáng, dẫn đường cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức, trở ngại, dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, kiên quyết sửa chữa sai lầm, khuyết điểm; từ đó, đề ra được đường lối đổi mới kịp thời, đúng đắn, sáng suốt nhất.

Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước thống nhất, cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ thực tiễn cả nước tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1975 - 1986), kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã quyết tâm khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Song, đổi mới như thế nào, con đường, cách thức ra sao là những câu hỏi cấp thiết đặt ra trong thời điểm đó. Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) nhấn mạnh: “Muốn đổi mới tư duy, Đảng ta phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”(5).

Đại hội VII của Đảng (tháng 6-1991) chỉ rõ, phải nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh(6) và khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991): “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(7). Sự khẳng định đó cho thấy vai trò to lớn, giá trị lịch sử và ý nghĩa hết sức quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới; thể hiện bước phát triển mới trong tư duy, nhận thức và hoạt động thực tiễn theo nền tảng tư tưởng của Đảng; cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng, thế giới quan, phương pháp luận của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.

Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) nêu định nghĩa về tư tưởng Hồ Chí Minh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại... Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(8). Đặc biệt, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) được thông qua tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) tiếp tục khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động... Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(9). Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức, trong tư duy lý luận của Đảng về tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới.

“Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(10), tại Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới”(11). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, mặt tích cực là cơ bản, cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế mà chúng ta đang phải đối mặt trong quá trình phát triển đất nước. Trong khi đó, “Các thế lực thù địch chống phá ngày càng quyết liệt. Đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ còn nhiều thách thức”(12). Vì vậy, “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động(13).

Trong bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng” nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930 - 3-2-2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh: “Đảng ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ”(14).

Thực tiễn đã minh chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là ngọn cờ dẫn dắt sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, mà còn có giá trị bền vững, lâu dài và tạo niềm tin lớn lao đối với sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói cách khác, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức đúng đắn, nhất quán, quán triệt, vận dụng sáng tạo và bảo vệ bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đây chính là nhân tố quyết định, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.

LHQ-ST

Tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới - nền tảng để Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới

 Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới là bản chất của cách mạng, của phát triển. Người chỉ rõ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(1); đồng thời, nhấn mạnh đó là cuộc chiến đấu chống lại những cái gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Triết lý đổi mới, chân lý đổi mới trong tư tưởng Hồ Chí Minh là ích nước, lợi dân: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm./ Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(2).

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ, mà chỉ bỏ đi cái gì cũ mà xấu; cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho hợp lý; cái gì cũ mà tốt thì phát triển thêm; cái gì mới mà hay thì phải kiên quyết làm. Người nhấn mạnh, sức mạnh của đổi mới chính là nhân dân và luôn căn dặn: “Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”(3); phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại theo tinh thần cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam sẵn sàng là bạn của các nước dân chủ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tìm tòi, đổi mới phong cách làm việc, không cứng nhắc, bảo thủ mà rất linh hoạt, mềm dẻo khi xử lý, giải quyết từng vấn đề, sự việc cụ thể. Theo Người, đổi mới phải xuất phát từ thực tiễn, coi đó là xuất phát điểm của tư duy, hành động; là sự kiểm chứng chân lý khoa học. “Lý luận là đem thực tế trong lịch sử, trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng rõ ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”(4). Do vậy, việc tìm tòi, sáng tạo cái mới phải luôn gắn với thực tiễn, chú trọng tổng kết thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính đúng đắn của đổi mới.

Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tư tưởng đổi mới là tư tưởng cách mạng, khoa học trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kết hợp với tinh hoa văn hóa dân tộc, nhân loại, phản ánh và giải quyết nhu cầu khách quan của thực tiễn đất nước; tư tưởng đổi mới là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của dân tộc, Tổ quốc lên trên hết, trước hết, đổi mới vì một nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh; phong cách đổi mới là kiên định, sáng tạo, dân chủ, thực tiễn, hiệu quả, nói đi đôi với làm, làm thiết thực, mang lại kết quả thực tế cho nhân dân, cho đất nước. Đó chính là những giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và là nền tảng để Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam.

LHQ-ST