Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

 

Thói đạo đức giả và bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân - Bài 2: Diệt trừ thói đạo đức giả là diệt trừ chủ nghĩa cá nhân (Tiếp theo và hết)

Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực hiện tốt bổn phận, nâng cao lòng tự trọng của mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất, danh dự, sống có trách nhiệm với cơ quan, địa phương, đất nước, đảng viên và cán bộ mới làm tròn trách nhiệm, lời hứa thiêng liêng trước cờ Đảng, trước nhân dân.

Thông qua việc làm cụ thể, nhất là thực hiện nghiêm Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, tự mỗi cá nhân, chi bộ nêu gương sáng về lối sống, lý tưởng, đạo đức cách mạng, phụng sự nhân dân.  

Tại sao những kẻ đạo đức giả khó bị vạch mặt?

Thời gian gần đây, khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về đạo đức thì sự giả tạo của những con mọt này càng tinh vi. Thói đạo đức giả ngày càng lên ngôi để đối phó với cấp trên, cấp dưới và dư luận xã hội; lẩn trốn sự kiểm tra, giám sát của tập thể, của cơ quan chức năng; các tổ chức, quần chúng nhân dân...

Tại sao thói đạo đức giả, những kẻ đạo đức giả chưa bị vạch mặt? Có thể khẳng định, ở nhiều cơ quan, những kẻ đạo đức giả nói chung là không thể giấu được. Nhiều người dù biết nhưng không đấu tranh, hoặc không dám đấu tranh với thói đạo đức giả, thậm chí còn dung túng cho nó. Bởi, về cơ bản, những kẻ đạo đức giả ấy nằm trong nhóm những người có ảnh hưởng, có chức quyền với nhóm người còn lại trong cơ quan, địa phương. Vì thế, những người không có quyền lực nảy sinh tâm lý e ngại, thờ ơ, ngại va chạm, hoặc sợ va chạm. Chính sự yếu đuối, không mạnh dạn của không ít quần chúng đã tạo môi trường, mảnh đất sống cho thói đạo đức giả của một số cán bộ có chức quyền ngày càng phát triển.

Làm thế nào để diệt trừ những kẻ đạo đức giả trong tổ chức?

Như đã trình bày ở trên, nguyên nhân sâu xa dẫn đến thói đạo đức giả trong một số cán bộ, đảng viên hiện nay chính là chủ nghĩa cá nhân. Muốn tiêu diệt tận gốc thói đạo đức giả, nhất định phải đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cá nhân. Chỉ có như vậy mới có thể chống thói đạo đức giả từ gốc. Đây cũng là cách ngăn trừ hậu quả, chặn bọn mối mọt đục ruỗng từ bên trong.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ rõ, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tham nhũng là do chủ nghĩa cá nhân, do suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Thói đạo đức giả và bộ mặt thật của chủ nghĩa cá nhân - Bài 2: Diệt trừ thói đạo đức giả là diệt trừ chủ nghĩa cá nhân (Tiếp theo và hết)
Chung tay xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng thật trong sạch, vững mạnh. Đồ họa: THANH HẢI 

Để che đậy hành vi này, những người “có ít nhiều quyền hành trong bộ máy chính trị” thường phải mang bộ mặt đạo đức giả để tiếp tục luồn lách mà trục lợi. Những người này, ban đầu có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, có động cơ, tuy nhiên, khi trong tay có chút quyền lực thì họ đã không thể ngăn được lòng tham, vì thế, tìm mọi cách mà vơ vét, làm lợi cho mình và gia đình. Lòng tham và dục vọng quá lớn khiến họ đánh mất mình. Họ đi vào suy thoái đạo đức, lối sống, lừa gạt tổ chức, cá nhân, tìm mọi cách tham ô, tham nhũng, thỏa mãn dục vọng thấp hèn, quên đi lý tưởng cao quý, những bài học về đạo đức cách mạng, quên đi bổn phận công bộc cho nhân dân, quên đi lời hứa trước Đảng, trước nhân dân, tình đồng chí, nghĩa đồng bào, quên đi biết bao người đang phấn đấu, lao động, chiến đấu, sản xuất để đất nước có được vị thế, tiềm lực như ngày hôm nay.

Cái gốc của người cán bộ cách mạng chính là đạo đức cách mạng

Ngày nay, không ít cán bộ rời xa những giá trị cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Quên đi cái gốc của người cán bộ cách mạng chính là đạo đức cách mạng. Quên đi lời dạy của Bác rằng, đạo đức cách mạng không phải từ trên trời rơi xuống, mà do bền bỉ tu dưỡng, rèn luyện mà thành. Họ đã quên đi sự rèn luyện mỗi ngày, quên đi những đức tính tốt đẹp cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư..., chỉ lo vinh thân phì gia, vơ cho đầy túi, xây cho nhiều nhà, sống xa hoa, rời xa quần chúng nhân dân. Nguy hiểm nhất, có một số cán bộ khi có chức vụ, quyền lực, được quản lý cơ quan, địa phương ở nhiều cấp khác nhau thì bắt đầu dùng thói đạo đức giả, những lời lẽ hoa mỹ, những kiến thức trống rỗng, những câu chuyện phi thực tế để che đậy mưu đồ bất chính, gây dựng ê-kíp làm ăn phi pháp, ăn chặn, tham nhũng, nhận hối lộ, đề bạt bổ nhiệm sai người, sai vị trí... dẫn tới việc những con số được thống kê từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương về tình trạng cán bộ vi phạm kỷ luật, suy thoái cứ ngày một dày lên.

Có thể khẳng định, ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị vẫn còn không ít người giữ thói đạo đức giả. Đó là những hành vi dùng vỏ bọc đạo đức bề ngoài để che đậy bản chất cơ hội bên trong, lạm quyền, đánh lừa cá nhân, tập thể, lộng quyền, tiếp tay cho các việc làm sai trái nhằm mưu lợi riêng, đây là điều hết sức nguy hại. Thắng lợi của công cuộc đổi mới không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, thói hư tật xấu của đảng viên, cán bộ. Chống thói đạo đức giả đã trở thành vấn đề bức thiết trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thực tế cho thấy, ở thời nào cũng vậy, nếu cán bộ, đảng viên luôn nêu gương, tận tâm, tận lực thực thi công vụ, nói cho dân nghe, làm cho dân hiểu, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân thì sẽ để lại tiếng thơm muôn đời và ngược lại. Chỉ có quét sạch chủ nghĩa cá nhân, thói đạo đức giả, tích cực rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, chí công vô tư, thực hiện tốt bổn phận, nâng cao lòng tự trọng của mỗi cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất, danh dự, sống có trách nhiệm với cơ quan, địa phương, đất nước, đảng viên và cán bộ mới làm tròn trách nhiệm, lời hứa thiêng liêng trước cờ Đảng, trước nhân dân.

Nói tới phẩm chất người cán bộ, tinh thần phụng sự cách mạng, nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới những phẩm chất cốt lõi của người cán bộ, như: Phải tuyệt đối trung thành, kiên định lý tưởng cách mạng, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của đất nước, dân tộc lên trên hết, trước hết; hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, tận hiếu với nhân dân; hết lòng yêu thương đồng chí, đồng bào, yêu thương con người; cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư; thật sự là công bộc của nhân dân; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa cơ hội...

Trước những thách thức, yêu cầu của tình hình và điều kiện phát triển mới của đất nước, Đảng ta ngày càng chú trọng bảo đảm và phát huy sự liêm chính trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chính vì vậy, thay mặt Bộ Chính trị, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024 về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Việc ban hành Quy định số 144-QĐ/TW là cấp thiết, phù hợp với yêu cầu thực tiễn, phát huy ưu điểm, khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với quy định kịp thời này, Đảng đã đưa ra thông điệp mạnh mẽ là toàn Đảng cùng chấp hành nghiêm những tiêu chuẩn đạo đức ở mức rất cao, rất cụ thể với cán bộ, đảng viên. Đây sẽ là cơ sở để đánh giá, xử lý đảng viên vi phạm, kém rèn luyện, tha hóa, biến chất, sa vào chủ nghĩa cá nhân.

Những bài học Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta về công tác cán bộ chưa bao giờ cũ. Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Do vậy, mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình; đồng thời, phải tự thấy day dứt, hổ thẹn với những nhận thức lệch lạc và việc làm chưa đúng của mình. Không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, nhân cách, phẩm giá, duy trì lối sống trong sạch, lành mạnh, văn minh, nâng cao “sức đề kháng” trước những cám dỗ vật chất, tiền bạc, danh vọng, tránh sa vào chủ nghĩa cá nhân, lối sống ích kỷ, thực dụng, tham nhũng.

Ngày nay, đối với các cơ quan, tổ chức đoàn thể, trước thực tế tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống có chiều hướng phức tạp, cần nghiêm túc nhìn nhận sự yếu kém, hạn chế; các quy chế, quy định chưa được thực hiện đồng bộ, nghiêm túc; công tác kiểm tra, giám sát còn buông lỏng, thiếu thường xuyên. Vì vậy, tới đây, các tiêu chí về rèn luyện cán bộ cần cụ thể và chặt chẽ hơn nữa; siết chặt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; xây dựng các quy chế cần khoa học làm căn cứ để đánh giá đạo đức của cán bộ, đảng viên một cách khách quan, thực chất, toàn diện và nhân văn; khuyến khích quần chúng nhân dân mạnh dạn tố giác các hành vi vi phạm; bóc trần thói đạo đức giả của cán bộ, đảng viên kém tu dưỡng, rèn luyện.

NGUYỄN HÒA

NHẬN DIỆN VÀ ĐẤU TRANH VỚI CHỦ NGHĨA CƠ HỘI - CHÌA KHÓA BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG


 

Chủ nghĩa cơ hội là các quan điểm phi mácxít, mang tính chất phản động trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hiện nay trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, xuất hiện nhiều quan điểm, tư tưởng cơ hội chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc rất phức tạp, rất khó nhận diện đã và đang phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, đe dọa trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, nhận diện và đấu tranh loại bỏ những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội trong nội bộ đảng và trong xã hội là một tất yếu, khách quan trong sự nghiệp cách mạng của đảng ta để bảo vệ Cương lĩnh, mục tiêu, đường lối, những thành quả của cách mạng Việt Nam.

Giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu

 VIỆT NAM KÊU GỌI GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU 

 

Theo phóng viên TTXVN tại Thụy Sĩ, trong khuôn khổ Khóa họp lần thứ 56 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (LHQ) ở Geneva, Đại sứ Mai Phan Dũng, Trưởng phái đoàn thường trực của Việt Nam tại LHQ, đã phát biểu thay mặt Nhóm nòng cốt Nghị quyết về quyền con người và biến đổi khí hậu - bao gồm Việt Nam, Bangladesh, Philippines - tại phiên thảo luận về chủ đề bảo đảm sinh kế bền vững trước tác động của biến đổi khí hậu.


Đại sứ Mai Phan Dũng khẳng định bảo đảm sinh kế bền vững, đặc biệt dành cho nhóm dễ bị tổn thương chịu tác động của biến đổi khí hậu, là ưu tiên hàng đầu của các nước đang phát triển. Biến đổi khí hậu, các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng gây ra thiệt hại lớn về nhà cửa, hệ sinh thái, cơ sở hạ tầng, đồng thời làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến việc thụ hưởng các quyền con người cơ bản, nhất là của nhóm dễ bị tổn thương.


Đại sứ Mai Phan Dũng hối thúc cộng đồng quốc tế tăng cường hợp tác nhằm giải quyết hiệu quả tác động của biến đổi khí hậu đối với sinh kế của người dân. Đồng thời, Ông cũng kêu gọi vận hành hiệu quả Quỹ Tổn thất và Thiệt hại (được thành lập tại Hội nghị COP 28) để cung cấp nguồn tài chính cần thiết cho nhóm cộng đồng chịu tác động của biến đổi khí hậu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.


Bên cạnh đó, Đại sứ Mai Phan Dũng đã đưa ra một số giải pháp nhằm giải quyết những thách thức nêu trên. Cụ thể là thực hiện các chính sách ưu tiên người dân, trao quyền cho cộng đồng địa phương thông qua giáo dục, nguồn lực và chiến lược thích ứng; thúc đẩy các hoạt động bền vững trong nông nghiệp, thủy sản nhằm đảm bảo an ninh lương thực và sinh kế bền vững; và tích hợp khả năng thích ứng với khí hậu vào các chương trình bảo trợ xã hội để tăng cường khả năng phục hồi của những nhóm dân cư dễ bị tổn thương.


Sau đó, phát biểu tại phiên đối thoại với Báo cáo viên đặc biệt về quyền con người và biến đổi khí hậu ngày 2/7, Đại sứ Mai Phan Dũng đề nghị Báo cáo viên đặc biệt làm rõ hơn hiệu quả lồng ghép sự liên kết giữa các lĩnh vực hoạt động vào những chính sách về biến đổi khí hậu và biện pháp nhân rộng các bài học tốt nhằm đảm bảo sự tham gia có ý nghĩa của nhóm dễ bị tổn thương trong các hoạt động về biến đổi khí hậu. Ông cũng đề nghị Báo cáo viên đặc biệt đề xuất các giải pháp tăng cường phối hợp giữa các bên liên quan để thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền trong bối cảnh biến đổi khí hậu.


Ứng phó với biến đổi khí hậu là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Nước ta đã có nhiều chính sách, chương trình hành động quyết liệt nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu; đồng thời tham gia các cam kết quốc tế mạnh mẽ trong vấn đề này, bao gồm cam kết giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Tại Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam là thành viên Nhóm nòng cốt, cùng Bangladesh, Philippines giới thiệu nghị quyết hàng năm về biến đổi khí hậu và quyền con người. Tại khóa họp lần này của Hội đồng Nhân quyền LHQ, Việt Nam sẽ thay mặt Nhóm nòng cốt giới thiệu nghị quyết về chủ đề chuyển đổi công bằng./.


Tin tức/TTXVN

KIÊN QUYẾT QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Để đủ sức lãnh đạo đất nước và xã hội, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN) nói riêng.

Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”. Đảng ta xác định đấu tranh chống CNCN vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một giải pháp rất quan trọng trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, trước bất cứ nhiệm vụ gì, Đảng ta đều đặc biệt coi trọng và gắn chặt với cuộc đấu tranh chống CNCN. Nhằm giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng, trong đó có nội dung liên quan đến CNCN, từ năm 1939, Đảng ta đã tổ chức đợt sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng. Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ cụ thể 15 căn bệnh nguy hiểm trong Đảng bắt nguồn từ CNCN. Đảng ta nhận thức rõ nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ đảng viên, làm tha hóa Đảng ta không gì khác là CNCN. Từ chỗ coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”, Đảng xác định phải kiên quyết tuyên chiến với loại “giặc nội xâm” này. Vụ án Đại tá Trần Dụ Châu, Giám đốc Nha Quân nhu, vì CNCN mà phạm tội tham nhũng phải lĩnh án tử hình là ví dụ điển hình chứng minh cho tinh thần kiên quyết đấu tranh với CNCN trong Đảng.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đều có các văn kiện chuyên đề về đấu tranh chống CNCN. Đặc biệt, từ Đại hội VI đến nay, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống CNCN của Đảng ta được thể hiện rất rõ nét. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”. Tại Điều 3 của Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Đảng ta cũng nêu rõ đảng viên không được vướng vào “… CNCN, cơ hội, vụ lợi…”.
Nhờ thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống CNCN nói riêng mà năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta ngày càng được nâng lên. Đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường XHCN; phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu thực sự làm nòng cốt đi đầu trong công cuộc đổi mới và lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng ta vẫn vững vàng chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt lên đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt qua gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Bên cạnh những thành tựu quan trọng đạt được, bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra từ nhiệm kỳ khóa VII, trong đó có “nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội” vẫn hiện hữu, có mặt diễn biến gay gắt, phức tạp hơn. Đúng như Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII đã chỉ rõ điều bức xúc và đáng lo nhất hiện nay là tình trạng tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh sự “phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng”.
Có nhiều nguyên nhân của tình trạng trên, nhưng Đảng ta nhận định nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu, trong đó có nguyên nhân vướng vào CNCN. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những hành vi sai trái, tiêu cực. Để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên ngang tầm với đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đặc biệt nhấn mạnh phải “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”.
Mặt khác, trước bối cảnh mới đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; nền kinh tế phát triển chưa bền vững, khủng hoảng kinh tế toàn cầu tác động ảnh hưởng rất lớn, cùng với những hạn chế, yếu kém còn tồn tại khiến nước ta đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng lên tầm cao mới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đề ra: “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh”. Có thể khẳng định đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị nói chung, đấu tranh kiên quyết với CNCN nói riêng không phải là ý muốn chủ quan của ai, mà là yêu cầu tất yếu của tình hình nhiệm vụ cách mạng.
Để tiếp tục đấu tranh chống CNCN đạt hiệu quả cao, trước hết chúng ta cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, nhằm không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường xây dựng XHCN. Đây là cơ sở, nền tảng để cán bộ, đảng viên xác định động cơ, mục đích rèn luyện, tu dưỡng phấn đấu đúng đắn, vì lợi ích của tập thể, của quốc gia, dân tộc, trong đó có gia đình, cá nhân mình. Chỉ có trên cơ sở ý thức rõ điều đó, cán bộ, đảng viên mới nâng cao sức “đề kháng”, không mắc vào CNCN.
Trong tổ chức xây dựng và sinh hoạt đảng phải giữ vững các nguyên tắc, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ gắn chặt với đề cao trách nhiệm cá nhân trong Đảng. Đồng thời, thường xuyên đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình nhằm phòng ngừa từ xa CNCN cũng như mọi biểu hiện tham nhũng, tiêu cực. Mỗi đảng viên, từng tổ chức Đảng phải coi tự phê bình và phê bình như phương thuốc để phòng ngừa và chữa trị các căn bệnh mắc phải. Mặt khác, phải có cơ chế phát huy tai mắt của nhân dân trong xây dựng Đảng và tham gia đấu tranh chống CNCN. Trước hết là phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc giám sát cán bộ, đảng viên. Phát huy tốt vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong tuyên truyền cổ vũ, tôn vinh những tổ chức đảng, đảng viên điển hình, tiên tiến và phát hiện, đấu tranh với những biểu hiện của CNCN. Dùng thông tin chính thống đẩy lùi những thông tin sai trái, xấu, độc, đề cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí trong cung cấp thông tin, định hướng dư luận, đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn lợi cuộc đấu tranh chống CNCN, chống tham nhũng, tiêu cực để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta./.

GIÁO DỤC Ý THỨC PHÁP LUẬT, GIỮ NGHIÊM KỶ LUẬT QUÂN ĐỘI LÀ THIẾT THỰC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Để pháp luật thực sự đi vào cuộc sống, trở thành nền nếp, thói quen trong mọi hành vi, hoạt động của mỗi công dân và các tổ chức trong xã hội, cần phải thường xuyên quan tâm chăm lo nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức pháp luật nhằm không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật cho nhân dân. Đây không chỉ là trách nhiệm của riêng các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, mà còn là trách nhiệm của mọi cấp, mọi ngành, mọi tổ chức xã hội và của mỗi người dân. Đảng ta đã xác định: “Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật”. Quân đội nhân dân Việt Nam là công cụ bạo lực sắc bén của Nhà nước càng phải tăng cường giáo dục ý thức pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật quân đội nhằm góp phần bảo vệ và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thực tế những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và coi trọng bồi dưỡng ý thức pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật như một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm xây dựng quân đội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Hiện nay, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện có nhiều tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, thì việc tăng cường bồi dưỡng ý thức pháp luật, giữ nghiêm kỷ luật càng trở nên cấp thiết nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ hiểu và chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội. Bồi dưỡng ý thức pháp luật là khâu rất quan trọng để đưa pháp luật thực sự đi vào đời sống xã hội trong lĩnh vực hoạt động quân sự. Thông qua bồi dưỡng ý thức pháp luật làm cho mọi người có trình độ văn hóa pháp lý cần thiết, trên cơ sở đó xác định đúng trách nhiệm, nghĩa vụ và tự giác chấp hành pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ quân đội; tham gia tích cực vào việc đấu tranh chống mọi biểu hiện vi phạm pháp luật, tạo sự thống nhất về ý chí và hành động.
Quán triệt và cụ thể hóa các chương trình của Chính phủ và Bộ Quốc phòng, các đơn vị trong toàn quân đã triển khai nghiêm túc, đầy đủ nội dung quy định; hoàn thành việc phổ cập những kiến thức cơ bản về pháp luật và phổ biến kịp thời các nội dung pháp luật có liên quan tới mọi quân nhân như: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi), Bộ Luật tố tụng hình sự, Bộ Luật dân sự, Bộ Luật hôn nhân và gia đình; đồng thời, trang bị những kiến thức pháp luật trực tiếp liên quan đến chức năng nhiệm vụ đơn vị, nghĩa vụ và quyền lợi của công dân như: Luật Nghĩa vụ quân sự (sửa đổi), Luật Sĩ quan, Bộ Luật lao động, Luật Công đoàn, Pháp lệnh dân quân, tự vệ… Nội dung quan trọng trong các bộ luật có liên quan trực tiếp đến đời sống của cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp vận dụng trong sinh hoạt, học tập và công tác như Luật Nghĩa vụ quân sự, Luật Giao thông đường bộ, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và biện

Những cây bút không chuyên lan tỏa nét đẹp “vườn hoa” người tốt, việc tốt Thủ đô.

  Sau 10 năm triển khai Cuộc thi viết về gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt trên địa bàn TP Hà Nội, hàng nghìn gương điển hình tiên tiến đã được phát hiện và nhân rộng. Những tấm gương tốt, việc làm hay đã thúc đẩy phong trào thi đua yêu nước trên khắp địa bàn thành phố. Có được những thành tích kể trên, không thể không nói đến sự góp công, góp sức của những người làm báo không chuyên.

Từ một cuộc thi viết

Phát huy truyền thống là một trong những địa phương luôn đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện Chỉ thị 34-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng”, từ năm 2015, TP Hà Nội đã kịp thời triển khai, tổ chức Cuộc thi viết về gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt. Số lượng các tác phẩm dự thi dành cho đối tượng chuyên và không chuyên đều tăng suốt 10 năm phát động và tổ chức. Số lượng đơn vị tham gia cuộc thi cũng tương tự. Nếu như năm 2017 có 85 địa phương, cơ quan, đơn vị gửi bài viết tham dự thì đến năm 2023 đã có 112 địa phương, cơ quan, đơn vị gửi bài tham gia dự thi cấp thành phố. Đáng chú ý, cuộc thi đã nhận được sự tham gia của đông đảo đối tượng dự thi là cán bộ, công chức, viên chức, cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng vũ trang, học sinh, sinh viên thuộc các trường trên địa bàn; và xuất hiện ngày càng nhiều hơn các tác giả là cán bộ cơ sở, người dân ở tổ dân phố, khu dân cư…

Bên cạnh việc phản ánh chân thực, khách quan, người thật, việc thật, rõ người, rõ địa chỉ nơi điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt cư trú hoặc học tập, công tác. Nhiều bài dự thi trình bày đẹp, công phu, sáng tạo, có nhiều hình ảnh, số liệu minh họa phong phú; nhiều bài dự thi được viết tay thể hiện cảm xúc trân trọng đối với đối tượng được viết và sự tâm huyết của tác giả đối với cuộc thi viết. Đáng mừng, có nhiều gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt là các nhân tố mới được phát hiện, có sức lan tỏa ở đơn vị, địa phương, trong những năm qua trên cơ sở tiếp nhận, tổng hợp bài viết dự thi và thông tin giới thiệu của các đơn vị về các gương điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt, Ban Thi đua - Khen thưởng đã rà soát, thẩm định kịp thời đề xuất Chủ tịch UBND TP Hà Nội tặng danh hiệu người tốt, việc tốt cho 4.286 cá nhân, tặng Bằng khen cho 20 tập thể, 15 hộ gia đình; tặng danh hiệu “Công dân Thủ đô ưu tú” cho 11 cá nhân; trình Thủ thướng Chính phủ tặng Bằng khen cho 4 hộ gia đình, 5 cá nhân; trình Chủ tịch nước tặng Huân chương Lao động hạng Ba cho 2 cá nhân.

Tổng số gương người tốt, việc tốt của thành phố được lựa chọn tuyên truyền và giới thiệu Trung ương truyên truyền trong 10 năm qua lên đến gần 400 gương và cùng với đó là trên 600 gương được lựa chọn viết sách “Những bông hoa đẹp” của Thủ đô từ tập XXI (xuất bản năm 2015) đến tập XXIX (xuất bản năm 2023). Đó là những điển hình tiên tiến, những gương tiêu biểu nhất được lựa chọn trong số hàng nghìn gương người tốt, việc tốt được phát hiện, khen thưởng qua các năm. Chính từ cuộc thi viết đã phát hiện, nhân rộng các điển hình tiên tiến, người tốt, việc tốt của thành phố, góp phần tạo dựng nên “Những bông hoa đẹp” trong “vườn hoa” muôn sắc của Thủ đô.


Xuất hiện những phóng viên không chuyên “thường trú” tại cơ sở

Trong thành công của cuộc thi viết, không thể không kể đến những tác giả không chuyên. Họ là những cán bộ hưu trí, giáo viên, công an, bộ đội, cán bộ trung tâm văn hóa... - tất cả đều có một điểm chung - niềm đam mê viết lách. Họ là những người trực tiếp làm việc tại cơ sở, nắm rõ địa bàn. Chúng tôi vẫn gọi họ là những phóng viên không chuyên “thường trú” tại cơ sở. Anh Nguyễn Xuân Tiến, Phó Chánh Văn phòng Huyện ủy Thường Tín, người từng có nhiều năm là cán bộ Trung tâm Văn hóa thông tin huyện Thường Tín là ví dụ.

Là cán bộ bám và nắm chắc địa bàn, anh Nguyễn Xuân Tiến đã phát hiện nhiều tấm gương đẹp, việc làm tốt tại cơ sở. Năm 2023, anh đã đoạt giải Ba cuộc thi với bài viết: “Những người xuyên đêm vá đường” kể về câu chuyện anh Phạm Văn Hiếu và những người bạn ở huyện Thường Tín không quản ngày đêm, mưa nắng “vá lành” những “ổ gà” trên những con đường, đảm bảo giao thông an toàn... Năm nay, anh một lần nữa giành giải cao nhất với bài viết: “Vượt lên nỗi đau hiến tạng cứu người của đôi vợ chồng yếu thế”. Với góc nhìn chân thực của mình, anh Tiến đã phản ánh câu chuyện về gia đình anh Đặng Trịnh Bộ và chị Nguyễn Thị Hòa (ở xóm 2, thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín). Khi anh Bộ mắc bệnh hiểm nghèo, chị Hòa đã tình nguyện hiến tạng của chồng mình để cứu sống và mang lại hạnh phúc người khác. Đến nay, cuộc sống của anh Đặng Trịnh Bộ đã kết thúc nhưng lại mang đến sự sống, hạnh phúc cho bao gia đình. Hành động hiến tạng không chỉ là việc cứu người, mà còn là sự lan tỏa của tình yêu, tình người và hy vọng. Điều đó chắc chắn sẽ góp phần làm thay đổi tư duy, suy nghĩ của nhiều người về một xã hội đoàn kết, giàu lòng nhân ái.

Tương tự, với Trung tá Dương Hồng Nhật, dù mang đặc thù công việc của một chiến sĩ Công an quận Tây Hồ nhưng anh vẫn dành những khoảng lặng trong tâm hồn và ngòi bút của mình để khắc họa nên những nhân vật với việc làm đẹp đẽ mà anh tiếp xúc. Để rồi, bài viết: “Người hùng đầu trọc và sứ mệnh trên sông Hồng” của anh đã lay động biết bao độc giả và giành giải Nhì cuộc thi viết người tốt, việc tốt năm 2024. Bài viết của Trung tá Dương Hồng Nhật đã khắc họa nên chân dung về anh Nguyễn Văn Dũng, một người hùng thầm lặng gắn bó với con sông Hồng và nghề vớt xác. Anh Dũng đã dành phần lớn cuộc đời của mình để mang lại hy vọng và tình thương cho những người đã ra đi. Suốt hơn 30 năm, anh đã vượt qua những thách thức khắc nghiệt của môi trường làm việc đầy nguy hiểm và khó khăn, để đưa hơn 600 thi thể về nơi yên nghỉ cuối cùng. Anh Nguyễn Văn Dũng, người mang theo niềm tin, hy vọng và lòng nhân ái, là một biểu tượng tuyệt vời cho sự đẹp đẽ của tâm hồn con người. Trung tá Dương Hồng Nhật chia sẻ: “Tôi đã biết đến anh Dũng gần 10 năm nay. Do tính chất công việc đặc thù, những việc làm của anh Dũng đã giúp chúng tôi rất nhiều, chúng tôi luôn coi anh như một cộng tác viên đặc biệt của đơn vị. Qua bài viết của mình, tôi không chỉ muốn góp một phần lan tỏa hành động đẹp đẽ của anh Dũng, mà còn là lời tri ân đến anh Dũng, đến những việc làm thầm lặng của anh”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Mỗi người tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một vườn hoa đẹp”. Thế nên, cần lắm những người như anh Tiến, anh Nhật và rất nhiều những người viết báo không chuyên khác, cần mẫn, ghi lại những hình ảnh, kể lại những câu chuyện về những cá nhân điển hình tiên tiến, những tấm gương người tốt, việc tốt, để từ đó lan tỏa sâu rộng những giá trị chân - thiện - mỹ, làm nên nét đẹp của “vườn hoa” người tốt, việc tốt Thủ đô.

Không thể mượn danh nhân quyền để dung túng, cổ vũ đối tượng vi phạm pháp luật.

  Lâu nay, dân chủ, nhân quyền là vấn đề mà các thế lực thiếu thiện chí thường lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Việc trao cái gọi là Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals cho một đối tượng vi phạm pháp luật là hành động mới nhất.

Mượn cớ bảo vệ nhân quyền

Mới đây, tại Geneva, Thụy Sĩ, Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals đã được trao cho Phạm Đoan Trang, người mà Ban tổ chức giải thưởng tung hô là “nhà báo, nhà hoạt động nhân quyền”. Phạm Đoan Trang là ai và có phải là người “bảo vệ quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin của người dân” như mô tả của những người tổ chức giải thưởng nhân quyền Martin Ennals hay không?

Với nhiều người, Phạm Đoan Trang không còn là cái tên xa lạ. Đây là người có hành vi chống đối Nhà nước quyết liệt. Ngày 14-12, Tòa án nhân dân TP Hà Nội tuyên phạt bị cáo Phạm Đoan Trang (43 tuổi, trú quận Đống Đa, Hà Nội, được biết đến là blogger, từng làm việc cho một số trang báo) 9 năm tù về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, quy định tại điều 88 Bộ luật Hình sự 1999.

Phạm Đoan Trang là tác giả của nhiều tài liệu có nội dung hướng dẫn, kích động các hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân như “Chính trị bình dân”, “Cẩm nang nuôi tù”, “Phản kháng phi bạo lực”… Theo hồ sơ vụ án, năm 2013, do xuất cảnh đi nước ngoài không xin phép nên Trang đã bị cơ quan chủ quản kỷ luật buộc thôi việc. Trong chuyến xuất cảnh trái phép này, Trang đã bị một số đối tượng chống đối chính quyền dẫn dắt, móc nối, lôi kéo.

Trở về nước, Trang trực tiếp thành lập và tham gia điều hành nhiều hội, nhóm bất hợp pháp, đồng thời tụ tập, khuếch trương lực lượng chống đối trong nước, tập hợp lực lượng chống đối trong giới văn nghệ sĩ, trí thức trẻ. Đoan Trang đã viết, phát tán nhiều bài viết, cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chế độ.

Tòa án nhận định hành vi xuyên tạc đường lối chính sách, phỉ báng chính quyền của bị cáo Phạm Đoan Trang là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với mục đích cố ý xâm phạm chế độ XHCN và Nhà nước trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, xã hội, đối ngoại, xâm phạm đến sự vững mạnh của chính quyền nhân dân.

Sự thật rõ ràng như vậy, ấy thế nhưng dưới cái cớ bảo vệ nhân quyền, tự do ngôn luận, một số tổ chức nước ngoài, đại diện trong cơ quan ngoại giao của một số nước lại sẵn sàng dùng nhiều mỹ từ ca ngợi, bênh vực Phạm Đoan Trang. Họ sẵn sàng đăng đàn, công bố những cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền”, “Tự do truyền thông quốc tế”, “Phụ nữ can đảm quốc tế”, “danh sách nạn nhân cần bảo vệ”… dành cho Phạm Đoan Trang. Tất nhiên, đi kèm với những việc làm này là “thông điệp” gây sức ép, phản đối và những cáo buộc vô căn cứ, phi lý với Đảng, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam.

Lộ liễu chiêu trò, dung túng, cổ vũ cho đối tượng vi phạm pháp luật

Không chỉ Phạm Đoan Trang, thời gian qua, cơ quan bảo vệ pháp luật đã xử lý một số đối tượng khác dựa trên những căn cứ cụ thể của từng bộ luật, trong đó có Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự. Trong quá trình bắt giữ, xử lý các đối tượng, cơ quan điều tra, viện kiểm sát nhân dân, tòa án nhân dân đều căn cứ vào những quy định của pháp luật để xử lý đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm nhưng cũng không làm oan sai. Vì vậy, có thể nói, bản án dành cho Phạm Đoan Trang cũng như các đối tượng chống đối khác trong thời gian qua là hoàn toàn đúng quy định, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Những luận điệu bóp méo, xuyên tạc rằng Việt Nam xử lý các đối tượng trên bằng “bản án mơ hồ” “theo ý chí chủ quan”, “áp đặt”, “đàn áp những người bất đồng chính kiến” là hoàn toàn vô căn cứ. Điều này cho thấy một số tổ chức, cá nhân nước ngoài tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền để gây sức ép đối với Việt Nam. Với cái nhìn tiêu cực, thiếu thiện chí với Việt Nam, các cá nhân, tổ chức này lợi dụng triệt để việc Việt Nam xử lý số đối tượng vi phạm pháp luật thuộc nhóm chống đối trong thời gian qua, trong đó có Phạm Đoan Trang để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tạo cớ cho một số tổ chức, cá nhân tiếp tục có hoạt động chống phá Việt Nam.

Đây có thể coi là hành động can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Những tổ chức và cá nhân này luôn “ngộ nhận” về những giá trị “tốt đẹp” và “cao quý” của nền dân chủ tư sản phương Tây. Vì muốn áp đặt các giá trị này mà họ sẵn sàng can thiệp vào chính sách nhân quyền của quốc gia khác, kể cả những quốc gia có không ít nỗ lực và thành tựu về dân chủ, nhân quyền được cộng đồng quốc tế thừa nhận như Việt Nam. Với học thuyết “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, họ sẵn sàng ca ngợi, “bao bọc”, trợ giúp những đối tượng có tư tưởng bất mãn, chống đối chính quyền như Phạm Đoan Trang, kể cả khi các đối tượng này đã bị kết án bởi những phiên tòa công khai, khách quan, dân chủ từ phía các cơ quan bảo vệ pháp luật ở Việt Nam.

Mỗi đất nước có quyền lựa chọn con đường riêng của mình. Sự khác biệt về thể chế chính trị và những đặc thù riêng về kinh tế, văn hóa, xã hội giữa Việt Nam và các nước phương Tây đương nhiên sẽ tạo nên những hệ giá trị khác nhau, ngay cả với những vấn đề liên quan đến dân tộc, nhân quyền. Nhưng không vì thế mà các giá trị của phương Tây nghiễm nhiên trở nên ưu việt hơn, nổi trội hơn.

Thực tế thời gian qua cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn kiên trì, nhất quán chính sách đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi chính sách phát triển. Những thành tựu về nhân quyền của Việt Nam trong thời gian qua là không thể phủ nhận. Điều này đã được nhân dân ủng hộ và các tổ chức uy tín hàng đầu quốc tế công nhận.

Vì vậy, việc các tổ chức, cá nhân xuyên tạc, vu cáo vấn đề dân chủ, nhân quyền của quốc gia khác là xâm phạm vào công việc nội bộ của quốc gia đó. Điều này không thể chấp nhận được đối với một quốc gia có chủ quyền như Việt Nam. Việc ủng hộ, dung túng, cổ vũ cho những đối tượng vi phạm pháp luật, bị đưa ra xét xử, có hành vi chống đối một quốc gia có độc lập, có chủ quyền là điều cần phải lên án.

Đảng và Nhà nước ta luôn hoan nghênh những ý kiến đóng góp xây dựng, phát triển đất nước, đồng thời nỗ lực bảo đảm quyền tự do, dân chủ, trong đó có tự do ngôn luận, tự do báo chí. Tuy nhiên, mỗi công dân khi thực thi quyền này phải nằm trong khuôn khổ pháp luật. Bất kỳ hành vi nào lợi dụng quyền tự do của bản thân mình để xâm phạm lợi ích Nhà nước, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đều chịu xử lý của pháp luật và trật tự, kỷ cương chỉ có thể được giữ vững khi pháp luật được thượng tôn. Đó là cơ sở cho sự phát triển ổn định của đất nước, là tiền đề quan trọng để thúc đẩy, bảo đảm và phát huy các giá trị về quyền con người không chỉ ở Việt Nam mà còn ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới.

Hơn 200 tài liệu, hình ảnh được trưng bày tại Triển lãm “Những ký ức không quên”.

 Triển lãm “Những ký ức không quên” nhân dịp kỷ niệm 80 năm Ngày Giải phóng Belarus trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đã trưng bày hơn 200 tài liệu, hình ảnh với 3 nội dung: Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại; Belarus hồi sinh; Việt Nam - Belarus hợp tác cùng phát triển.

Chiều 2/7, tại Hà Nội, Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam phối hợp với Đại sứ quán Cộng hòa Belarus tại Việt Nam tổ chức trưng bày triển lãm “Những ký ức không quên” nhân kỷ niệm 80 năm Ngày Giải phóng Belarus trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại (03/7/1944 - 03/7/2024).

Tham dự Triển lãm có Trung tướng Nguyễn Văn Đức, Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam; Ngài Uladzimir Baravikou, Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Cộng hòa Belarus tại Việt Nam cùng đại diện các Bộ, ban, ngành…

Cac đại biểu thực hiện nghi thức cắt băng khai mạc Triển lãm “Những ký ức không quên”

Triển lãm nhằm ôn lại những ký ức không thể nào quên về cuộc chiến đấu anh dũng, kiên cường của Hồng quân Liên Xô và nhân dân Belarus trong cuộc chiến tranh giải phóng đất nước Belarus; những thành tựu trong hợp tác toàn diện giữa hai nước Việt Nam và Belarus trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thượng tá Lê Vũ Huy, Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam cho biết, Triển lãm trưng bày hơn 200 tài liệu, hình ảnh với 3 nội dung: Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại; Belarus hồi sinh; Việt Nam - Belarus hợp tác cùng phát triển.

Cụ thể, phần mở đầu: Giới thiệu những hình ảnh tiêu biểu về địa danh, công trình của đất nước Belarus được tái thiết sau chiến tranh vệ quốc trở thành di sản văn hóa - những ký ức không thể lãng quên của nhân dân Belarus và nhân loại yêu chuộng hòa bình trên thế giới; những hình ảnh tiêu biểu phản ánh mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Nhà nước, Chính phủ, nhân dân và Quân đội Việt Nam - Belarus trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai đất nước.

Phần 1 với chủ đề “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”, giới thiệu những hình ảnh, tài liệu phản ánh tội ác của phát xít Đức đối với nhân dân Belarus trong chiến tranh xâm lược Belarus (1941-1944); cuộc chiến đấu anh dũng, ngoan cường của quân và dân Belarus trong Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại giải phóng đất nước.

 Các đại biểu tham quan Triển lãm “Những ký ức không quên”.

Phần 2 với chủ đề “Belarus hồi sinh”, trưng bày về những hình ảnh, các công trình văn hóa, di tích, các địa danh lịch sử của đất nước Belarus được tái thiết, khôi phục lại sau chiến tranh, những di sản văn hóa, cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp của đất nước Belarus.

Phần 3 với chủ đề “Việt Nam - Belarus hợp tác cùng phát triển”, trưng bày giới thiệu những hình ảnh, tài liệu, hiện vật tiêu biểu phản ánh về mối quan hệ hỗ trợ, giúp đỡ giữa 2 quốc gia Việt Nam - Liên bang Xô Viết trước đây, Việt Nam và Belarus ngày nay trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ đất nước; góp phần duy trì môi trường hòa bình và ổn định, phục vụ công cuộc phát triển kinh tế ở mỗi nước; thúc đẩy quan hệ hữu nghị truyền thống hai nước Việt Nam - Belarus lên tầm cao mới.

Triển lãm mở cửa đón khách tham quan từ ngày 02/7/2024 và kéo dài đến hết tháng 7/2024 tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, số 28A Điện Biên Phủ, Ba Đình, Hà Nội./.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với tín dụng chính sách trong bối cảnh mới.

  Hội thảo tập trung trao đổi, thảo luận về thực trạng hoạt động của tín dụng chính sách xã hội sau 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW; phân tích các kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trong quá trình thực hiện.

Các đồng chí chủ trì Hội thảo.

Ngày 02/7/2024 Ban Kinh tế Trung ương phối hợp với Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Ngân hàng Chính sách xã hội tổ chức Hội thảo khoa học “Định hướng, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trong bối cảnh mới mới” tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế, Hà Nội.

Hội thảo có sự chủ trì của các đồng chí: Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương; Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; Đào Minh Tú, Ủy viên HĐQT Ngân hàng Chính sách xã hội, Phó Thống đốc Thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; Dương Quyết Thắng, Ủy viên HĐQT Ngân hàng Chính sách xã hội, Tổng Giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội. Tham dự hội thảo có hơn 200 đại biểu gồm đại diện một số ban, bộ, ngành; đại diện lãnh đạo các địa phương; các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý; các trường đại học và doanh nghiệp.

 
Đồng chí Nguyễn Hồng Sơn, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương phát biểu khai mạc Hội thảo.

Phát biểu khai mạc hội thảo, đồng chí Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Nguyễn Hồng Sơn khẳng định mục tiêu thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội là chủ trương xuyên suốt, nhất quán của Đảng. Tín dụng chính sách xã hội là một giải pháp sáng tạo, có tính nhân văn sâu sắc và phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong thực hiện các mục tiêu trên. Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội ra đời đã đáp ứng đúng nguyện vọng của nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, góp phần đạt mục tiêu giảm nghèo nhanh, bền vững, tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực, thu hẹp khoảng cách phát triển, bảo đảm an sinh xã hội, ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương cũng cho rằng, bối cảnh, tình hình quốc tế tiếp tục diễn biến nhanh, mạnh, phức tạp và khó lường. Nhiều xu hướng mới xuất hiện như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; Cách mạng công nghiệp 4.0; những vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu… đang diễn biến ngày càng sâu sắc với những tác động nhiều chiều đến nền kinh tế nước ta. Tất cả những điều đó đang đặt ra những yêu cầu mới đối với hoạt động của tín dụng chính sách xã hội và đặt ra những yêu cầu cần phải có những quan điểm mới, giải pháp mới đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội, nhất là nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của tín dụng chính sách xã hội.

Qua 10 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, nhưng hoạt động tín dụng chính sách xã hội vẫn còn có nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc cần được khắc phục. Với chức năng là cơ quan tham mưu, giúp việc Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Kinh tế Trung ương được Ban Bí thư giao chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổng kết 10 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW.

Tại Hội thảo, các nhà quản lý, chuyên gia, nhà khoa học và các đại biểu đã tập trung thảo luận, làm rõ hơn về ý nghĩa, vai trò và tầm quan trọng của tín dụng chính sách xã hội đối với việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó chỉ ra tính sáng tạo, tính nhân văn sâu sắc, tính XHCN của tín dụng chính sách xã hội.

Các đại biểu thảo luận tại Hội thảo. 

Các đại biểu cũng phân tích vai trò của tín dụng chính sách xã hội trong thúc đẩy phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, đảm bảo an sinh xã hội; thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; thực hiện Chiến lược tài chính toàn diện…; phân tích, thảo luận, làm rõ thêm về các kết quả đạt được, những hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình triển khai thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW như khó khăn về nguồn vốn, về cơ chế, chính sách đối với đối tượng cho vay, mức cho vay, lĩnh vực cho vay hay là sự phối hợp giữa các bên liên quan…

Các đại biểu cũng đã phân tích, thảo luận, làm rõ thêm bối cảnh mới trong nước và quốc tế, nhất là bối cảnh trong nước và những vấn đề đặt ra đối với tín dụng chính sách xã hội nhằm góp phần đạt được các mục tiêu đã đặt ra về giảm nghèo bền vững, tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường và thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, ổn định xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội… Đồng thời đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, tính hiệu quả, bền vững của tín dụng sách xã hội, nhất là các quan điểm và cơ chế, chính sách mới nhằm tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội trong bối cảnh mới; thực hiện hiệu quả các giải pháp đã được đưa ra trong Chỉ thị 40-CT/TW và Kết luận số 06-KL/TW.

Hội thảo quy tụ các chuyên gia, nhà quản lý cùng thảo luận xung quanh các vấn đề về: huy động, phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn vốn; đối tượng thụ hưởng tín dụng chính sách xã hội; vai trò, hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội; bối cảnh tác động và những vấn đề đặt ra đối với tín dụng chính sách xã hội; định hướng và giải pháp tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.

Phát biểu kết luật Hội thảo, PGS.TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định: Các ý kiến đều thống nhất khẳng định tín dụng chính sách xã hội là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước; là công cụ, giải pháp quan trọng để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách xã hội, bảo đảm gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng nấc thang phát triển; góp phần quan trọng đối với giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Tín dụng chính sách xã hội ngày càng và phát huy hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế; giảm nghèo nhanh, bền vững; xây dựng nông thôn mới; đảm bảo an sinh xã hội; ổn định chính trị, an ninh - quốc phòng; thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền trên cả nước; góp phần thực hiện thành công chiến lược tài chính toàn diện quốc gia.

Hình ảnh tại Hội thảo. 

PGS.TS Lê Văn Lợi cho rằng: Cần tiếp tục phổ biến, quán triệt và tổ chức thực hiện tốt Chị thị số 40-CT/TW và Kết luận số 06- KL/TW; tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với tín dụng chính sách xã hội; hoàn thiện cơ chế, chính sách về huy động, quản lý và sử dụng nguồn lực tài chính, về đối tượng, địa bàn, mức cho vay, lãi suất vay… Cân đối, ưu tiên nguồn ngân sách nhà nước, ngân sách địa phương, đồng thời thu hút các nguồn vốn hợp pháp khác cho tín dụng chính sách xã hội. Tăng cường sự phối hợp của các cấp, các ngành trong thực hiện tín dụng chính sách xã hội...Cần nâng cao năng lực hoạt động của Ngân hàng chính sách xã hội; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện tín dụng chính sách xã hội; chú trọng công tác sơ, tổng kết, nhân rộng các mô hình tốt, điển hình tiên tiến trong sử dụng hiệu quả vốn tín dụng chính sách xã hội./

 

Đối ngoại quốc phòng và đôi điều đúc rút trên chặng đường xây dựng, phát triển

Nhìn lại chặng đường 60 năm qua kể từ khi Cục Liên lạc Đối ngoại (tiền thân của Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng) được thành lập (ngày 28-5-1964), công tác đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) đã đi từ không đến có, từ thắng lợi nhỏ đến thắng lợi lớn, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến nay, Việt Nam đã mở rộng quan hệ ĐNQP với các quốc gia trên khắp năm châu, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và tất cả các nước lớn. Hoạt động hợp tác quốc phòng trên nhiều lĩnh vực như khoa học, công nghiệp quốc phòng, tổ chức tuần tra, giao lưu với lực lượng biên phòng và hải quân các nước, tìm kiếm hài cốt liệt sĩ, khắc phục hậu quả bom, mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh... được triển khai tích cực và mang lại hiệu quả thiết thực. Việt Nam cũng đã cùng các nước ký kết nhiều bản ghi nhớ hợp tác quốc phòng song phương đạt hiệu quả cao; tham gia các diễn đàn đa phương có trọng tâm, trọng điểm; đồng thời cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc và cứu hộ, cứu nạn quốc tế. Những kết quả ấy đã góp phần nâng cao hình ảnh, vị thế của Quân đội ta trong mắt bạn bè quốc tế và đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Đối ngoại quốc phòng và đôi điều đúc rút trên chặng đường xây dựng, phát triển
Đoàn Tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam dự Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh: HIẾU MINH 

Thành công nói trên là nhờ đội ngũ làm công tác ĐNQP đã quán triệt sâu sắc các đường lối, quan điểm đối ngoại của Đảng qua các kỳ đại hội Đảng toàn quốc và nghị quyết của Đại hội Đảng bộ toàn quân qua các thời kỳ, đồng thời nỗ lực hết sức mình trong nghiên cứu, tham mưu, đề xuất các nội dung, nhiệm vụ, yêu cầu liên quan tới đối ngoại.

Tuy vậy, nếu đánh giá một cách thẳng thắn, 60 năm qua còn có những thời điểm chúng ta làm được chưa nhiều, chưa tốt. Điển hình như sau khi miền Nam giải phóng, thống nhất đất nước, có lúc, có lần ĐNQP tham mưu để tổ chức cho đoàn đại biểu cấp cao Bộ Quốc phòng đi thăm, đi công tác đạt hiệu quả chưa cao. Bên cạnh đó, đôi khi còn thiên về lễ tân mà quên đi nội dung hết sức quan trọng là cần tham mưu về đối sách như thế nào với “đối tác", "đối tượng”.

Việc hướng dẫn cho toàn quân trong triển khai công tác ĐNQP cũng có khi còn biểu hiện sơ sài, đơn giản, làm cho các cơ quan đối ngoại cấp cơ sở lúng túng trong quá trình xử lý những vấn đề cụ thể. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân trực tiếp và quan trọng hơn cả là có lúc chúng ta quán triệt chưa thật sâu sắc quan điểm của Đảng, từ đó biến thành nhận thức để nâng tầm nghiên cứu, tư duy chiến lược. Theo kinh nghiệm của thế hệ những người từng nhiều năm gắn bó với công tác ĐNQP như chúng tôi, sau khi quán triệt rồi thì phải đào sâu suy nghĩ, đọc rất nhiều về quan điểm, chính sách của “đối tác", "đối tượng” thì mới tham mưu, đề xuất đúng và trúng. Ngược lại, nếu không đọc, không suy nghĩ thì sẽ dẫn tới lối mòn, sáo rỗng, hoặc phân công, phân nhiệm không cụ thể dẫn tới thiên việc này, bỏ việc khác...

Cũng cần nhấn mạnh lại rằng, việc hướng dẫn phải tận tình, chu đáo hơn để các cơ quan ĐNQP cấp cơ sở không rơi vào trạng thái lúng túng khi triển khai nhiệm vụ. Nhớ lại một lần tàu bạn vào thăm cảng Tiên Sa của Đà Nẵng, hôm ấy bất ngờ thủy triều xuống thấp nên bạn không thể cho tàu lớn vào cảng. Rất may có sĩ quan của Cục Đối ngoại tham gia đón đoàn và kịp thời báo cáo. Sau đó, tôi chấp nhận chịu trách nhiệm trước Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và cho phép Cục Đối ngoại thuê tàu du lịch để chở bạn vào thăm đúng kế hoạch. Nêu ví dụ đó để thấy, trong một số tình huống “ngoài kịch bản” rất cần sự hướng dẫn cụ thể, xử trí linh hoạt để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ đối ngoại được giao.

Về lễ tân cũng cần có bước chuyển mới sao cho phù hợp. Tôi nhớ lần tháp tùng Đại tướng Phạm Văn Trà, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thăm Mỹ, Brazil và Bỉ, nghi thức của từng nước khác nhau. Chúng tôi bay từ Brazil về Paris (Pháp), rồi lại đi tàu hỏa sang Brussels (Bỉ). Bộ trưởng bạn cùng các sĩ quan tùy tùng với cờ hoa đón đoàn ta tại ga xe lửa rất chân tình. Nhưng bữa sáng hôm sau, bạn chỉ bố trí một lát bánh mì và một lát thịt lạnh để Bộ trưởng ta ăn sáng. Do đã nghiên cứu kỹ tập quán và lễ tân của phía bạn, anh em Cục Đối ngoại mang theo đồ ăn tối thiểu để có thể nấu nóng cho Bộ trưởng dùng. Nhưng Đại tướng Phạm Văn Trà nhắc tôi: “Chúng ta xác định đi công tác thì phải cố gắng để phù hợp với bạn. Tôi còn khỏe, các chú đừng quá lo!”. Lời dặn đó của Đại tướng Phạm Văn Trà tôi cứ nhớ mãi và nay nhắc lại cho thế hệ sau làm kinh nghiệm.

Trong điều kiện tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp, mau lẹ, khó lường như hiện nay, những người trực tiếp làm công tác ĐNQP càng cần phải quán triệt thật sâu sắc quan điểm Đại hội lần thứ XIII của Đảng và học tập bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng (tháng 12-2021) để từ đó nâng tầm tư duy và chủ động tham mưu đúng, trúng. Chẳng hạn, cùng một khuôn khổ quan hệ nhưng với đối tác này và đối tác khác thì hàm lượng có thể khác nhau. Nếu không có tư duy tốt sẽ dẫn tới lúng túng trong tham mưu, đề xuất các nội dung và hoạt động hợp tác liên quan tới ĐNQP.

Chặng đường 60 năm xây dựng và phát triển tuy chưa dài nhưng cũng không hề ngắn đối với một đơn vị như Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng. Mỗi cán bộ, sĩ quan, nhân viên làm công tác ĐNQP cần tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm trong việc tự đào tạo và hoàn thiện bản thân, tự nâng tầm tư duy để tham mưu kịp thời, chính xác và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ ĐNQP ngày càng tốt hơn, xứng đáng với truyền thống của đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Trung tướng PHẠM THANH LÂN

Nguyên Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Quốc phòng