Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020


          “Diễn biến hoà bình” là một trong những âm mưu, thủ đoạn chiến lược rất nguy hiểm của các thế lực thù địch nhằm chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; tập trung vào lật đổ chính quyền đương nhiệm, chuyển hoá chế độ xã hội theo chủ nghĩa tư bản.
          Mục đích của “Diễn biến hoà bình” nhằm lật đổ chính quyền thông qua phương thức biểu tình, bạo loạn. Cách làm này đã từng phát huy tác dụng đối với một số nước trên thế giới, Tuy nhiên hiện nay, khi đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch thường tiến hành cách mạng màu để thúc đẩy nhanh sự chuyển hoá chế độ xã hội, trước hết và quyết định nhất là thay đổi bộ máy lãnh đạo, điều hành đất nước theo kịch bản của chúng.
          Là một trong những nước xã hội chủ nghĩa còn lại đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, cho nên, Việt Nam là một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Chúng đang ra sức đẩy mạnh chiến lược “Diễn biến hoà bình” và không loại trừ khả năng tiến hành cách mạng màu để chống phá cách mạng nước ta. Một trong những thách thức đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đã được Đảng ta chỉ ra là: “Hoạt động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch sẽ gia tăng. Các thế lực phản động tiếp tục sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào nội bộ ta”. Đây là nguy cơ lớn đối với sự ổn định và phát triển của đất nước. 
          Để phòng, chống “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, các cấp, các ngành, lực lượng vũ trang và toàn dân phải tỉnh táo trước những âm mưu thủ đoạn “Diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch, phản động. Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn các hoạt động chống Đảng, Nhà nước của các thế lực thù địch, phản động; đảm bảo an ninh chính trị nội bộ; phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra trong mọi tình huống. Nâng cao ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trước âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, từ đó tham gia vào công tác phòng, ngừa, ngăn chặn làm thất bại ý đồ thực hiện “Diễn biến hoà bình” của địch
          Từng bước hạn chế, tiến tới loại bỏ các nguyên nhân, điều kiện có thể dẫn đến “Diễn biến hoà bình” ở nước ta. Trong đó tập trung giải quyết dứt điểm các “điểm nóng” về an sinh xã hội như khiếu kiện, đình công, chủ động triển khai các biện pháp bảo đảm an ninh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, kinh tế, tài chính, thông tin truyền thông, an ninh mạng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, lợi ích nhóm. Không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng để tập hợp lực lượng, hình thành, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập ở trong nước, tiến hành các hoạt động biểu tình, bạo loạn trên quy mô lớn ở Việt Nam.
          Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, củng cố bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ; đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bất mãn, vi phạm pháp luật, nhất là trong hàng ngũ cán bộ các cấp. Kiên quyết loại trừ các điều kiện hình thành tổ chức chính trị đối lập, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. 
          Củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, mở rộng hợp tác quốc tế tạo nền tảng, sức mạnh chính trị, phục vụ phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, đảm bảo giải quyết triệt để mầm mống, nguy cơ “Diễn biến hoà bình” ở Việt Nam.
          Phát huy sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo và Nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý, điều hành; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phòng, chống “Diễn biến hoà bình”. Đây là một nguyên tắc chiến lược, quán triệt quan điểm tổng hợp trong lãnh đạo và tổ chức đấu tranh phòng, chống “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ. Sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc được định hướng và quy tụ bởi chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là một đặc trưng bản chất và là một ưu thế vượt trội để giành chiến thắng trong suốt quá trình dựng nước, giữ nước của dân tộc ta. Nhờ đó, chúng ta có thể tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của các lực lượng yêu chuộng hoà bình và tiến bộ trên thế giới, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để vượt qua mọi khó khăn, thách thức và giành chiến thắng./.
TMT.08.7.20

HƠN CẢ MỘT LỜI CẢM ƠN DÀNH CHO PHÓ THỦ TƯỚNG VŨ ĐỨC ĐAM

Hôm nay Phó thủ tướng Vũ Đức Đam sẽ thôi trực tiếp điều hành Bộ Y Tế theo quyết định của Thủ tướng chính phủ.

Bác Đam đã đảm nhận vị trí này trong thời kỳ dịch Covid-19 đang rơi vào giai đoạn cam go và khó khăn nhất với nhiều trường hợp lây nhiễm cộng đồng cao, nhưng cùng toàn thể đội ngũ y tế và nhân dân, PTT đã trực tiếp chỉ đạo, đưa ra những phương án phòng ngừa tốt nhất để đưa chúng ta đến với kết quả tốt đẹp hôm nay.

Một lần nữa xin gửi tới bác Đam, hơn cả một lời cảm ơn vì những điều tuyệt vời bác đã làm suốt những năm qua. Giờ thì ngoài lúc làm việc bác lại có thể thoải mái đi đá bóng được rồi =))) Chúc bác khoẻ và ghi nhiều bàn thắng ạ ❤
Trung  Kiên st

HỌC TẬP TƯ TƯỞNG CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN



          Bác Hồ kính yêu là lãnh tụ lỗi lạc của toàn dân tộc, là người sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta, Người đặc biệt quan tâm vấn đề xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Vì “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Do vậy Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.

Mục đích che dấu sau các cuộc tập trận của hải quân Trung Quốc


1. Việc Trung Quốc cùng lúc tập trận trên các biển Hoàng Hải, Đông Hải, Nam Hải (theo cách gọi của Trung Quốc) trong căng thẳng xung đột biên giới với Ấn Độ đặt ra nhiều điều phải suy nghĩ nghiêm túc về chiến lược và chiến thuật của Trung Quốc.
Một là, Trung Quốc đang tạo ra rất nhiều kẻ thù. Ở trên bộ, hiện Trung Quốc đang chủ động tranh chấp lãnh thổ với 12 trên tổng số 14 quốc gia có biên giới chung với Trung Quốc. Mỗi khi biên giới với các nước láng giềng căng thẳng đều do bắt đầu từ phía Trung Quốc. Căng thẳng biên giới Trung - Ấn hiện nay là do Trung Quốc muốn thay đổi hiện trạng đường biên giới. Chiến tranh Trung – Ấn (1962), Trung –Xô (1969), Trung – Việt (1979 -1989) đều bắt đầu từ Trung Quốc tấn công trước.
Ở trên biển, Trung Quốc tranh giành với tất cả các quốc gia có giáp giới biển. Đó là với 2 miền Triều Tiên ở Hoàng Hải. Với Nhật Bản ở Đông Hải. Với Việt Nam, Phillipines, Malaysia và Indonesia ở Nam Hải. Và với Mỹ ở Thái Bình Dương.
Hai là, Trung Quốc đang dồn trọng tâm tranh chấp sang biên giới biển. Trung Quốc không bao giờ ngừng tranh chấp lãnh thổ trên bộ. Nhưng đó là cuộc tranh chấp mà Trung Quốc giữ vai trò “nhạc trưởng”. Trung Quốc chỉ cánh tay về biên giới nước nào là phía đó vang lên tiếng súng xung đột. Là kẻ đi chiếm đất, Trung Quốc thích gây chiến lúc nào là bắt đầu lúc đó. Sự xâm lược đất nằm trong thế chủ động của Trung Quốc.
Khác với đất liền, Trung Quốc không thể dàn quân thường trực theo biên giới biển. Cho nên trên biển, thế chủ động không phải lúc nào cũng thuộc về Trung Quốc. Trên biển, các quốc gia khác có thể chủ động tuần tra và khai thác vùng biển thuộc chủ quyền của họ, dẫu rằng Trung Quốc có tuyên bố là của Trung Quốc thì Trung Quốc cũng không có khả năng ngăn cản triệt để.
Bởi thế, khi Trung Quốc chuyển trọng tâm sang xâm chiếm biển, thì Trung Quốc phải đủ khả năng đối phó trên tất cả 3 biển Hoàng Hải, Đông Hải, Nam Hải. Hơn thế nữa,Trung Quốc phải đủ tiềm lực đối phó cùng lúc trên đất liền với các đối thủ quan trọng. Cho nên Trung Quốc đã tập trận trên cả 3 biển Hoàng Hải, Đông Hải, Nam Hải trong căng thẳng biên giới Trung - Ấn mà Trung Quốc không chủ động tăng nhiệt.
2. Nhưng Trung Quốc có gắng phô diễn sức mạnh trên biển bao nhiêu thì cũng không che được sự thực về lực lượng và sức mạnh mạnh thực tế của Hải quân Trung Quốc.
Hải quân Trung Quốc tuy nhiều về số lượng nhưng không phải dẫn đầu về công nghệ. Dẫu là tàng hình, dẫu là săn ngầm, dẫu là phát hiện và khóa mục tiêu ở khoảng cách 200 – 300 km… nhưng công nghệ Trung Quốc đều là hạng 2. Khi chiến sự xẩy ra, sự chậm trễ dù chỉ 0,0001% giây, tàu chiến, tàu ngầm, máy bay của Trung Quốc sẽ đều bị bắn hạ trước. Trên biển không phải là trên bộ để 1 người lính chống trả được cả trung đội hay sống sót dưới làn mưa bom. Trên biển bị bắn hạ là thua trận.
Ở mặt khác, hợp đồng tác chiến của Hải quân Trung Quốc còn ở mức “vỡ lòng”. Hàng không mẫu hạm Liêu Ninh mua lại của Liên Xô cũ chở lèo tèo mấy chiếc J 10, J 16 (phiên bản copy của SU 27) chỉ mang tính phô diễn mà không đủ tính thực chiến. Trung Quốc biết điều đó nên phải gấp rút xây dựng căn cứ quân sự trên đảo nhân tạo. Không phải cứ có tàu chiến là kịp thời xung trận và xung trận hiệu quả. Trong tình thế ở giữ đại dương mênh mông, bất kỳ hướng nào cũng có địch mà không có gì để che chở, thì làm mồi cho đối thủ với hệ thống điều khiển tự động tìm diệt và điều khiển vệ tinh trúng đến từng mét vuông là điều khó tránh khỏi. Hải quân Trung Quốc, vì thế khi gặp đối thủ trên cơ về công nghệ (như Nhật Bản) là tan xác, bất chấp đối thủ có ít hơn về số lượng tàu chiến. Điều mà Trung Quốc cuối cùng phải dựa vào để đe dọa chính là vũ khí hạt nhân.
3. Trung Quốc tuy to miệng trước các nước mạnh mà không dám gây chiến. Nhưng Trung Quốc đánh thật các nước nhỏ.
Dựa vào số đông các tàu chiến và tàu hải cảnh có sức chứa lớn, giống như bọn cướp đường, Trung Quốc ồ ạt kéo cả hàng trăm tàu chiến khi có sự cố trên biển để áp đảo về số lượng. Bằng hàng chục vạn tàu dân quân bọc thép trang bị vũ khí ngầm, Trung Quốc ồ ạt đâm đuổi thuyền cá các nước và chiếm lĩnh ngư trường các nước. Bằng cách này, Trung Quốc chiếm trọn bãi cạn Scarborough của Philippines đâm chìm thuyền cá Việt Nam ở khắp mọi nơi, tiến sâu cả vào lãnh hải Indonesia, lấy trọn ngư trường ở Biển Đông Nam Á.
Bằng cách này, không chỉ chiếm lĩnh ngư trường, Trung Quốc đưa tàu chiến đến để bảo vệ tàu Hải Dương 981, tàu Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, của Malaysia và của Philippines.
Ngang ngược hơn, Trung Quốc cấm bắt đánh cá ở Biển Đông Nam Á bất cứ lúc nào Trung Quốc muốn; Trung Quốc cấm tàu thuyền các nước đến bất cứ khu vực nào Trung Quốc thích. Trung Quốc đang tập trận không chỉ phô diễn lực lượng, mà khẳng định các biển nơi Trung Quốc đang tập trận là biển của Trung Quốc.
Sau cấm đánh bắt cá và cấm tàu thuyền đi lại trên biển, Trung Quốc toan tính cấm máy bay các nước đi lại trên bầu trời. Các cuộc tập trận hiện nay của Trung Quốc là màn pháo dạo đầu để khai trương vùng nhận dạng phòng không ADIZ của Trung Quốc trên Biển Đông Nam Á. Đấy mới là mục đích quan trọng nữa của các tập trận của Hải Quân Trung Quốc hiện nay.
4. Điều đó lý giải tại sao Hoa Kỳ ngày 4/7/2020 đã tập hợp hai nhóm tàu sân bay USS Nimitz và USS Ronald Reagan tiến vào Biển Đông Nam Á, trong khi Trung Quốc đang ngang nhiên tập trận ở quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Để làm được điều này, Hoa Kỳ đã có các cuộc chuyển quân trường chinh thần tốc. Chuyến bay liên tục 28 tiếng đồng hồ của pháo đài bay B-52H từ Louisiana tới Biển Đông Nam Á tập trận cùng hai nhóm tàu sân bay USS Nimitz và USS Ronald Reagan trước khi hạ cánh xuống đảo Guam đã nói lên khả năng tác chiến của Mỹ tại Biển Đông Nam Á khi cần thiết. Và đừng lầm tưởng về ý chí cũng như khả năng của Hoa Kỳ. Càng đừng quá cậy nhờ vào con virus Vũ Hán đã đánh gục Hải quân Hoa Kỳ và làm giảm sức mạnh của chính cả Hoa Kỳ.
Đến Biển Đông Nam Á, các chiến đấu cơ của USS Nimitz và USS Ronald Reagan đã cất cánh hàng trăm lượt mỗi ngày. Ngày 4-7, B-52H đã có màn phô diễn dẫn đầu đội hình 12 máy bay gồm 10 chiến đấu cơ F/A-18 và 2 máy bay cảnh báo sớm E-2C.
Sự diễn tập của Hải quân Mỹ trong đối trọng với cuộc tập trận của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa là khẳng định Biển Đông Nam Á không phải là “ao nhà” của Trung Quốc. Rằng Trung Quốc không thể áp đặt vùng cấm trên biển, nên Trung Quốc đừng mưu toan áp đặt phòng nhận diện trên bầu trời.
Không ai muốn chiến tranh. Trung Quốc, mặc dù mạnh miệng nhưng không dám đối đầu với Mỹ. Mỹ cũng không muốn đối đầu với Trung Quốc. Nhưng sai lầm của Mỹ đang bắt Mỹ phải trả giá.
Đó là sai lầm bản lề không sửa chữa của Nixon và Kissinger năm 1971 khi để cho Trung Quốc thế chân chính quyền Trung hoa Dân quốc của Tưởng Giới Thạch tại Liên hợp quốc. Đó là sai lầm chiến lược thiên niên kỷ khi để Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974. Đó là nước cờ sa bẫy Trung Quốc khi Mỹ để Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001. Đó là sự lùi bước tệ hại của Hoa Kỳ khi để Trung Quốc xây đảo nhân tạo năm 2014 tại Trường Sa.
Đến bây giờ thì nước Mỹ đã bắt đầu cảnh tỉnh. Không thể nhân nhượng được hơn nữa trước Trung Quốc. Không nhân nhượng Trung quốc đã lấn tới. Càng nhân nhượng Trung Quốc càng lấn tới.
Mọi đàm phán hòa hoãn đều dựa trên quyền lợi quốc gia là nhân tố quyết định số 1. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung, rút khỏi hiệp ước tên lửa tầm trung INF với Nga, rút khỏi WHO đều là vì quyền lợi của Hoa Kỳ mà kẻ đe dọa chính là Trung quốc. Nhưng tất cả đó chỉ là những nước cờ cục bộ. Những nước cờ cục bộ đó đưa lại cho Hoa Kỳ những lợi ích ngắn hạn chỉ đủ làm cho Trung Quốc tạm dừng bước. Nhưng rồi Trung Quốc sẽ tiếp tục lấn tới - mà luật an ninh Hongkong vừa được ban bố bởi chính quyền Bắc Kinh cho thấy sự bướng bỉnh không lùi bước của Trung Quốc.
Rồi đến lúc Hoa Kỳ phải cắt khối ung thư Trung Quốc bằng những cuộc đại phẫu luật lớn hơn nhiều. Trong đó rất đáng phải làm là thành lập tổ chức mới thay thế Liên hợp quốc.
5. Còn Việt Nam thì sao?
Thời gian qua các nước khối ASEAN mà cụ thể là Indonesia, Việt Nam, Phillipines và Malaysia đã có sự đồng thuận khích lệ khi mở chiến dịch “công hàm” phản kháng sự xâm lược ngang ngược của Trung Quốc ở Biển Đông Nam Á. Gần đây nhất, Công hàm ngày 12/6/2020 của Indonesia gửi Liên hợp quốc đã khẳng định rõ ràng rằng:
“Không có thực thể nào ở quần đảo Trường Sa có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng, do vậy không có thực thể nào sinh ra vùng biển chồng lấn với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Indonesia”.
“Không có quyền lịch sử nào của CHND Trung Hoa tồn tại trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Indonesia. Nếu có quyền lịch sử nào đó tồn tại trước khi UNCLOS 1982 có hiệu lực, thì các quyền này đã bị các điều khoản của UNCLOS 1982 hủy bỏ”.
“Do vậy, Chính phủ Indonesia thấy không có lý do pháp lý nào theo luật pháp quốc tế để tiến hành đàm phán về xác định biên giới biển với CHND Trung Hoa, hoặc bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến quyền hàng hải, hoặc những đòi hỏi quyền lợi được đưa ra trái với luật pháp quốc tế”.
Lập trường “Không có lý do pháp lý nào theo luật pháp quốc tế để tiến hành đàm phán về xác định biên giới biển với CHND Trung Hoa, hoặc bất kỳ vấn đề nào khác liên quan đến quyền hàng hải, hoặc những đòi hỏi quyền lợi được đưa ra trái với luật pháp quốc tế” – phải là lập trường đá tảng của Việt Nam, Indonesia, Philippines và Malaysia trong quan hệ với Trung quốc ở Biển Đông Nam Á.
Hơn thế nữa, Việt Nam phải có đối sách quyết liệt và rõ ràng hơn trong tập trung nguồn lực chống lại sự xâm lược của Trung Quốc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam.
Việt Nam không thể rời bỏ bãi Tư Chính. Việt Nam không thể từ bỏ khu vực Cá Rồng Đỏ dù Repsol ra đi. Tạm ngừng khai thác chỉ là khoảng dừng.
Hơn thế nữa, Việt Nam cần có bảo bối mới trong bảo vệ chủ quyền biển đảo. Việt Nam cần có những vũ khí “khắc tinh” với Hải quân Trung quốc, nhất là chống lại lực lượng tàu ngầm Trung Quốc. Việt Nam cần có những vũ khí tìm diệt mới mà Trung quốc không có. Chỉ trong trường hợp đó, sự hung hăng của Hải quân Trung Quốc ở biển Đông Nam Á mới thực sự bị kiềm chế. Nếu Việt Nam chỉ sở hữu các loại vũ khí mà Trung Quốc có thì Trung Quốc luôn lấn tới cậy nhờ vào số đông áp đảo. Nên nhớ rằng trên biển khác với trên bộ. Trên biển không thể cậy nhờ chỉ mỗi tinh thần quyết thắng và mưu mẹo.
Hơn thế nữa, Việt Nam phải có đồng minh trên biển. Việt Nam phải tập trận trên biển. Chuẩn bị cho chiến trận là cách tốt nhất để ngăn chặn chiến trận.
Bàn cờ thế giới đang nóng bỏng cho một bước ngoặt thay đổi radical (căn bản). Nhưng Việt Nam dường như đang bận tâm quá nhiều về bàn cờ nhân sự.
Nguyên thủ quốc gia chỉ có bàn cờ thế giới. Nguyên thủ quốc gia không có bàn cờ nhân sự. Bàn cờ nhân sự là của nhân dân./.
ST


Một số thủ đoạn chống phá đại hội Đảng của các thế lực thù địch



Trong những ngày gần đây khi chúng ta đang tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc, các đối tượng thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước tập trung công kích, tuyên truyền chống phá vào nền tảng tư tưởng của Đảng, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự đại hội…
Chúng chuẩn bị rất kỹ lưỡng về nội dung, hình thức chống phá; tiến hành bài bản, hệ thống với việc huy động cùng lúc nhiều phương tiện, lực lượng tham gia mà đứng đầu là các tổ chức khủng bố, phản động lưu vong ở ngoài như: Việt Tân, Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời, Đảng Dân chủ nhân dân, Đảng Vì dân, Tập hợp dân chủ đa nguyên…
Bên cạnh đó, chúng phát huy tối đa các trung tâm truyền thông nước ngoài như Đài BBC tiếng Việt, VOA tiếng Việt, RFA tiếng Việt, các tổ chức quốc tế, NGO nước ngoài như: Theo dõi Nhân quyền thế giới – HRW, Ân xá quốc tế – AI, Phóng viên không biên giới – RSF… để thực hiện việc phát tán hàng ngàn bài viết, tài liệu, video, phim, ảnh có nội dung sai trái nhằm tuyên truyền chống phá Đảng và chế dộ.
Chúng tập trung vào các nội dung: Phủ nhận, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước; tuyên truyền xuyên tạc công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của Đảng ta; đưa ra những thông tin xuyên tạc, bịa đặt về nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự Đại hội Đảng.
Lấy hiện tượng quy kết thành bản chất, thật giả lẫn lộn, bóp méo, xuyên tạc sự thật vào những sự kiện dư luận quan tâm bằng những kỹ xảo tinh vi của công nghệ, tạo dựng chuyện bằng cách lắp ghép, trích dẫn, cắt xén các lời phát ngôn, bài viết, hình ảnh… Mục đích của các thế lực thù địch, phản động là gây nhiễu loạn thông tin, làm cho người đọc, người xem thiếu kinh nghiệm dễ lầm tưởng, khó phân biệt, nhận diện thật – giả, đúng – sai.
Từ đó, đánh giá không đúng bản chất của vấn đề, sự kiện, nhân vật. Những luồng thông tin xấu độc làm ảnh hưởng đến niềm tin của người dân về sự lãnh đạo Đảng và điều hành của Nhà nước, ảnh hưởng đến khối đại đoàn kết toàn dân. Nguy hiểm hơn, nhiều thông tin kích động, tạo dựng mâu thuẫn, dẫn đến nhận thức sai lầm trong dư luận Nhân dân dẫn đến những hành động vi phạm pháp luật.
Tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá một cách tinh vi theo kiều “mưa đâm thấm đất”, bàn tán, phản biện… gây nghỉ ngờ trong dư luận xã hội hết sức độc hại, nguy hiểm.
Chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, chỉ đạo công tác đấu tranh tư tưởng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Những luận điệu của các thế lực thù địch và các phần tử phản động, cơ hội chính trị…tuy không có gì mới, nhưng nó được tung ra, truyền bá vào lúc này là hết sức độc hại, nguy hiểm, gieo rắc hoang mang, nghi ngờ, phân tâm, mất niềm tin trong nội bộ ta, tác động hòng làm đội ngũ ta “tự diễn biến, “tự chuyển hóa””.
Chính vì vậy, nâng cao nhận thức cách mạng, tăng cường cảnh giác, “đề kháng” đối với thông tin xấu độc, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm, thông tin sai trái, đặc biệt trên mạng internet là nhiệm vụ rất quan trọng của mỗi chúng ta, nhất là mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay./.

Nhận diện và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam

Qua gần 35 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng đã cho thấy, đất nước ta, dân tộc ta đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực. Điều đó cũng khẳng định quá trình chấn hưng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ Chí Minh mà Đảng ta, Nhân dân ta đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn, sáng tạo.
Tuy nhiên, vì những  mục tiêu đen tối, các thế lực có dã tâm với chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã và đang ra sức xuyên tạc, phủ nhận những thành quả mà công cuộc đổi mới mang lại.
Một là, lợi dụng internet, mạng xã hội và những mặt tiêu cực trong xã hội chưa được khắc phục, một số kẻ đã tán phát luận điệu, xuyên tạc bản chất của xã hội xã hội chủ nghĩa, bôi đen hình ảnh của đất nước Việt Nam.
Hai là, các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc rằng: “Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”1. Chúng đổ lỗi cho Đảng trước nguy cơ tụt hậu về kinh tế của đất nước so với những nước trong khu vực; từ đó, cho rằng trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, nên còn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa là sai lầm. Chúng “khuyên” chúng ta đi theo mô hình “xã hội dân chủ”, thực hiện “chính trị đa nguyên”, “đa đảng đối lập”, xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp về quyền lãnh đạo của Đảng. 
Mục đích của chúng rất rõ ràng: nếu chưa thể hạ bệ được sự lãnh đạo của Đảng, nếu không thể làm suy giảm vai trò và uy tín của Đảng trong đấu tranh giải phóng dân tộc, chống xâm lược, thì cũng làm cho quần chúng nhân dân hoài nghi, dao động, đi đến mất niềm tin vào khả năng lãnh đạo của Đảng trong xây dựng kinh tế, phát triển đất nước, làm suy yếu sức mạnh của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ba là, các thế lực thù địch luôn có âm mưu, thủ đoạn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới. Chúng tuyên truyền những luận điệu xuyên tạc trái với quan điểm, nghị quyết, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta. Chúng kết hợp chống phá đường lối chính trị với chống phá trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Bốn là, các thế lực thù địch cho rằng Việt Nam chỉ đổi mới kinh tế mà không hề đổi mới chính trị, vẫn giữ nguyên bộ máy lãnh đạo chuyên quyền của Đảng Cộng sản. Thực chất là phủ nhận và đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Cùng với những âm mưu và luận điệu xuyên tạc, các lực lượng thù địch tiến hành thực hiện các phương thức mới để chống phá công cuộc đổi mới hiện nay theo hướng ngày càng tinh vi và phức tạp:
Trước hết, chúng tận dụng các phương tiện thông tin hiện đại bằng cách lập những trang mạng xã hội, có bộ máy chuyên nghiệp, tuyên truyền xuyên tạc, chống phá ta dưới nhiều hình thức để lừa bịp nhân dân.
Thứ hai, các thế lực thù địch chống phá một cách kiên trì, bền bỉ, luôn kiên trì bám sát mục tiêu, đối tượng mà chúng nhằm vào để nhằm tác động thường xuyên đưa đến sự chuyển hóa trong tư tưởng, nhận thức của nhân dân về sự nghiệp đổi mới do Đảng ta lãnh đạo.
Thứ ba, tiến hành cách thức chống phá tinh vi kết hợp với những luận điệu, lời lẽ bịa đặt trắng trợn. Chúng tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, giữa thật và giả, kể cả bịa đặt trắng trợn để gây hoài nghi trong nhân dân.
Thứ tư, chúng chống phá với những phương thức đa dạng, nhiều chiều. Chúng tận dụng tối đa các hình thức, như: tuyên truyền miệng, các phương tiện truyền thông hiện đại, mạng xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, xuất bản, báo chí,… được chúng tận dụng tối đa.
“Đổi mới” ở Việt Nam từ năm 1986 là sự lựa chọn tất yếu nhằm đưa Việt Nam thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, là một bước ngoặt quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước. Sau gần 35 năm vượt qua các thử thách và khó khăn to lớn, tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi mặt: chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại,... đến nay, Việt Nam có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng đổi mới là sự lựa chọn đúng đắn; Việt Nam đã vào quỹ đạo phát triển mới về chất, phù hợp với xu thế của thời đại và ý nguyện của nhân dân. Sự hưởng ứng đường lối đổi mới ngày càng sâu rộng, tự giác của nhân dân; khả năng tiếp cận và hội nhập có hiệu quả của đất nước vào đời sống chính trị, kinh tế của cộng đồng quốc tế; những kết quả to lớn và toàn diện mà đổi mới mang lại là bằng chứng hiển nhiên, thuyết phục về tính tất yếu lịch sử của quá trình đổi mới ở Việt Nam.
Khi tiến hành công cuộc đổi mới, Đảng ta đã chủ trương kết hợp ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Xác định nhiệm vụ đổi mới, phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt. Từ thành tựu đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Đó chính là bài học thành công trong đổi mới chính trị ở Việt Nam, bảo đảm giữ vững sự ổn định chính trị trong mọi hoàn cảnh.
Các thế lực thù địch cho rằng ở Việt Nam không có dân chủ, quyền con người bị vi phạm. Họ luôn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” để đả kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Sự thật là, khi xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền, cần phải nhận thức và xử lý mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền, Nhà nước pháp quyền và quyền làm chủ của nhân dân, tức là quan hệ: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đây là vấn đề lớn về lý luận, về thực tiễn trong xây dựng, hoàn thiện hệ thống chính trị trong xã hội văn minh, hiện đại mà con người và nhân dân là trung tâm.
Các thế lực phản động, thù địch công khai phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng và thực hiện “đa nguyên”, “đa đảng”. Thực tế minh chứng: sự lãnh đạo của Đảng không ngừng được đổi mới, nhất là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng không những được nhân dân, toàn xã hội khẳng định mà còn được cộng đồng thế giới và khu vực, các đối tác thừa nhận, củng cố mối quan hệ giữa các đảng cầm quyền trên thế giới. Thước đo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là kinh tế phát triển, chính trị, xã hội ổn định, văn hóa, giáo dục, khoa học phát triển, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao về mọi mặt, quốc phòng - an ninh được giữ vững, ngoại giao rộng mở, vị thế uy tín Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế. Đó là sự thật mà bất kỳ thế lực đen tối nào cũng không thể phủ nhận.
Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng đất nước, chúng ta khó tránh khỏi những hạn chế, khuyết điểm, đặc biệt là trong khâu tổ chức thực hiện; nhưng đó là những hạn chế và khuyết điểm không thuộc về bản chất của chế độ. Đảng ta luôn nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm nhận khuyết điểm, thiếu sót, đã và đang tích cực sửa chữa, khắc phục, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân.
Lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm của một số chính quyền ở cơ sở trong thực hiện chủ trương, chính sách để nói xấu, công kích Đảng và Nhà nước, không phải là hành động “vì dân”, “vì nước”, mà là hành động “đục nước béo cò”, làm tổn hại đến sự ổn định chính trị - xã hội, đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của nhân dân. Không phải vì những khuyết điểm, hạn chế nào đó; không phải vì sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; cũng không phải vì việc giải quyết chưa tốt một vụ việc nào đó mà có thể bất mãn chế độ, chống đối lại Đảng và Nhà nước.
Điều đúng đắn hiện nay trong bối cảnh chuẩn bị tổ chức đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng là: mọi người Việt Nam đều phải chung vai gánh vác cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước tiếp tục đi lên. Đại hội XII của Đảng đã nhận định: “Những thành tựu đó tạo tiền đề, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ trong những năm tới; khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo: con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử.

LỊCH SỬ MÃI GHI NHỚ NHỮNG KẺ BÁN NƯỚC, CHIÊU HỒI NỔI TIẾNG CỦA DÂN TỘC

      Trong lịch sử dân tộc cũng lắm kẻ chiêu hồi theo giặc, bán nước cho giặc. Rốt cuộc cuộc đời của chúng sau đó cũng tàn lụi, con cháu không thể mở mày, mở mặt để tự hào về ông cha mình, thậm chí còn bị chính con cái, cháu chắt dòng tộc mình ruồng bỏ, lịch sử lưu tên kẻ bán nước. Nổi lên ở một số nỗi nhục khi nhắc đến như sau:

1. TRẦN ÍCH TẮC

Có thể gọi Trần Ích Tắc  là một hoàng tử nhà Trần, là con của Trần Thái Tông, em cùng cha khác mẹ với Trần Thánh Tông và Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải,  là chú của Trần Nhân Tông. Một tên tội đồ nhân danh kẻ "cõng rắn cắn gà nhà".

Vì có tham vọng muốn thay thế ngôi vị của Thánh Tông và Nhân Tông. Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285), ngày 15 tháng 3, Ích Tắc đem cả gia đình đi hàng giặc, được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt phong làm An Nam quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước. Sau khi quân Nguyên Mông đại bại, Trần Ích Tắc ở lại Ngạc Châu  nay thuộc tỉnh Hồ Bắc cho giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự, gia phong tới Ngân Thanh vinh lộc đại phu rồi Kim tử quang lộc đại phu, Nghi đồng tam tư và chết ở Trung Quốc vào năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông. Một tên tội đồ nhân danh kẻ "cộng rắn cắn gà nhà".

2. LÊ CHIÊU THỐNG

Lê Chiêu Thống, tên thật là Lê Duy Khiêm; khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ, là vị hoàng đế thứ 16 và là cuối cùng của hoàng triều Lê nước Đại Việt, giữ ngôi từ cuối tháng 7 âm lịch năm 1786 tới đầu tháng 1 năm 1789.

Lê Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng cai quản Vương triều và để đất nước rơi vào loạn lạc, vì thế phải hết dựa vào thế lực này đến thế lực khác, cầu cứu nhà Thanh đưa gần 30 vạn quân sang xâm lược nước ta hòng duy trì ngôi vị. Nhưng ý trời đã định, trưa ngày mùng năm Tết Kỷ Dậu (1789), Quang Trung cưỡi voi, áo bào xạm đen khói súng, đem quân tiến vào Thăng Long đánh tan 29 vạn quân Thanh chỉ có 5 ngày, sớm hơn 2 ngày so với dự định (lúc khao quân ở Nghệ An ngày 30 Tết, Quang Trung hẹn ngày mùng 7 Tết vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng). Triều đại Lê Chiêu Thống sụp đổ hoàn toàn, gia đình Triều Lê phải nhận kết cục lưu vong trên đất nước Trung Quốc với bao điều đàm tiếu của nhân dân.

3. NGUYỄN ÁNH

Nguyễn Ánh sinh  ngày  8 tháng 2 năm 1762 , chết 3 tháng 2 năm 1820), húy là Nguyễn Phúc Ánh, thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh,  là vị vua sáng lập nhà Nguyễn, triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Để đạt được tham quyền cố vị trong một chế độ vương triều thối nát của Chúa Nguyễn đàng trong bị Vương Triều Tây Sơn đánh đổ.  Nguyễn Ánh đã cầu viện hơn 10 vạn quân Xiêm La (Thái Lan ngày nay) lật đổ Nhà tây Sơn; cầu viện thực dân Pháp dẫn đến Pháp xâm lược Việt Nam và thực hiện chế độ bóc lột, đàn áp quần chúng nhân dân gần 80 năm.
Năm 1802, sau khi chiếm được kinh đô Phú Xuân, một trong những việc làm đầu tiên của vua Gia Long là làm lễ “Hiến phù”, tức là cho dẫn vua tôi Tây Sơn đã bị bắt làm tù binh đến trước bàn thờ tổ tiên để báo cáo chiến thắng.

Vịn vào tục lệ ngàn xưa ấy nhằm uy hiếp tinh thần của đông đảo nhân dân còn lưu luyến nhà Tây Sơn và phong trào “áo vải cờ đào”. Gia Long đã hành hình vua quan Tây Sơn còn sống sót và gia đình họ một cách vô cùng dã man. Sau khi Gia Long nghỉ ngơi khoảng hai tháng ở kinh đô Đàng Trong, đã chính thức ra tay trừng phạt tù nhân của mình.

Trước hết là bắt vua Quang Toản phải tự mắt nhìn vào một loạt các cảnh gồm 5 động tác:

- Phơi bày thi thể của bố mẹ Quang Toản và những người than cận nhất của nhà vua một cách nguyên xi như lúc mới bốc ở dưới mộ chiều hôm trước.

- Lắp lại thành từng bộ phận hoặc toàn than những hài cốt của vua Quang Trung và bố mẹ Người để gây cảm xúc rung rợn, thương tâm.

- Tập trung những hài cốt đã lắp cùng với tất cả những hài cốt rời rạc của gia đình vào một cái giỏ lớn.

- Bắt buộc tất cả lính tráng và những người có mặt phải đến và đi tiểu vào cái giỏ hài cốt ấy.
Giã nát tất cả hài cốt thành bột và bỏ vào một cái giỏ khác đặt sát tận mắt vua Quang Toản để gây thêm đau khổ cho nhà vua.

- Sau khi khủng bố tinh thần như vậy Quang Toản được ăn một bữa cơm khá ngon rồi bị bịt mồm lại bằng giẻ rách, tất cả gia quyến của nhà vua cũng đều bị bịt mồm để ngăn cản họ kêu la chửi rủa.

- Rồi người ta dẫn đến bốn con voi, căng tay chân Quang Toản ra và trói một tay hoặc một chân của nhà vua vào một chân sau của mỗi con voi. Dưới sự điều khiển của tượng binh, bốn con voi đồng thời chạy về bốn hướng để xé than nhà vua thành bốn mảnh.

- Từ bốn mảnh xác ấy người ta róc thịt, lột da lấy xương để ra một nơi. Còn da thịt chia làm 5 phần bằng nhau đem ra phơi bày ở 5 chợ đông người nhất của kinh thành trên những cái cột cao để cho diều, quạ, mặt cắt…đến rỉa thịt. “Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì”.

“Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục”. Riêng với thiếu phó Trần Quang Diệu, vì nổi tiếng là người rất có hiếu với mẹ nên được vua Gia Long miễn cho hình phạt “voi xé” và được hưởng hình phạt “chặt đầu”. Cha bị chặt đầu nhưng con gái ông vẫn phải chịu hình “voi xé”. Cô bé này khoảng 14 - 15 tuổi, rất xinh đẹp và dễ thương, khi thấy một con voi ra quấn mình, cô réo lên một tiếng vô cùng thê thảm: “mẹ ơi cứu con với”…Bùi Thị Xuân trả lời “nhưng con ơi, con nên chết với bố mẹ hơn là sống với bè lũ lang sói kia”. Lời nói ấy vừa chấm dứt thì con voi bị kích thích đưa vói quấn lấy cô bé rồi tung lên cao rồi cho rơi xuống cắm đứng vào cặp vòi nhọn hoắt của nó và nó làm thế hai lần thì cô bé chết.

Đến lượt nữ tướng Bùi Thị Xuân, bà đã hiên ngang đi thẳng tới con voi sắp giết mình và như muốn chọc tức nó. Khi bà lại gần con voi thì có một tiếng hô lớn: “Qùy xuống cho voi dễ nắm bắt”, bà không quỳ và cứ ung dung đến sát cạnh con voi. Thấy con voi vẫn đứng im, người nài phải thúc dục nó bằng nhiều cách nó mói chịu quấn than bà tung lên đến ba lần bà mới tắc thở. Người ta nói: “ Có lẽ thấy nữ tướng Bùi Thị Xuân hiên ngang đi tới, voi đã nhận ra đó là một trong những người chủ cũ của nó”.

Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết).

Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn Ánh với mục đích tỏ rõ uy thế, tạo khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới. Chính vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: “Trẫm vì chín đời mà trả thù”. Dù trải qua 9 đời chúa, 13 đời vua, Bảo Đại là vị vua cuối cùng bán nước cho Pháp và lịch sử vẫn luôn ghi rõ Nguyễn Ánh là một kẻ "cộng rắn cắn gà nhà" và có nhiều giai thoại tàn độc nhất trong lịch sử Việt Nam.

4. NGÔ ĐÌNH DIỆM

(1901 - 2 tháng 11năm 1963) từng làm quan nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống bù nhìn đầu tiên của của chế độ ngụy quyền bán nước sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại.

Ngô Đình Diệm là kẻ cấu kết với đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gioneve thiết lập quyền lực chuyên chế theo thể chế gia đình trị, dẫn đến cuộc tàn sát đẫm máu nhiều người dân vô tội và đồng bào Phật giáo ở Miền Nam... bị CIA và các đảng phái chính trị đối lập giết hại cả gia đình năm 1963...
Xem thêm tội ác Ngô Đình Diệm: http://tuanbaovannghetphcm.vn/lich-su-dan-toc-khong-co-cho-cho-ke-ruoc-voi-giay-ma-to/.

5. HOÀNG VĂN HOAN

Hoàng Văn Hoan sinh tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, tên thật là Trần Xuân Phong. Năm 1926, tham gia lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh mở ở Trung Quốc. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau Cách mạng Tháng Tám, là Thứ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy viên chính trị toàn quốc Vệ quốc quân.

Từ năm 1950 đến năm 1957 làm Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc kiêm Đại sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ. Hoàng Văn Hoan có vị trí hơn một đại sứ bình thường vì thường được Mao Trạch Đông tiếp riêng để bàn thảo các vấn đề hai nước, kể cả chiến lược đánh miền Nam của Ban lãnh đạo Hà Nội.

Năm 1951 Hoàng Văn Hoan được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và từ năm 1956 đến năm 1976 là Ủy viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó Hoàng Văn Hoan bị Tổng bí thư Lê Duẩn cho ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hoàng Văn Hoan hoàn toàn theo đường lối Maoist, ủng hộ Trung Quốc trong cuộc chiến 1979, chế độ Pol Pot và phái bảo thủ tại Trung Quốc. Ngày 11 tháng 6 – 1979, lấy cớ sang Cộng hòa Dân chủ Đức để chữa bệnh, với sự giúp sức của tình báo Trung Quốc, Hoàng Văn Hoan đã bỏ trốn tại sân bay Karachi (Pakistan) rồi sang Bắc Kinh.

Tại Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan đã xuyên tạc tình hình trong nước, chính sách đối ngoại của Nhà nước. Sau sự kiện này Hoàng Văn Hoan đã trở thành biểu tượng của sự phản bội. Truyền thông Việt Nam lúc đó đã so sánh Hoàng Văn Hoan với Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc. Đó là thời điểm quan hệ Việt - Trung căng thẳng khi Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam hồi đầu năm.

Không lâu sau, nhà nước Việt Nam lần lượt hủy bỏ các chức vụ và xóa Đảng tịch, Đảng Cộng sản Việt Nam của Hoàng Văn Hoan. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, Việt Nam tuyên bố xử tử hình vắng mặt Hoàng Văn Hoan với tội danh phản bội Tổ quốc.

Hoàng Văn Hoan mất tại Bắc Kinh năm 1991 và được Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước, thi hài được chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất của các quan chức cao cấp của Trung Quốc. Sau này hài cốt của Hoàng Van Hoan đã được con trai chuyển về Việt Nam.

Quốc Văn ST

90 NĂM SON SẮT NIỀM TIN, TỰ HÀO TIẾP BƯỚC

Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn xem trọng công tác tuyên giáo, từ đó tập trung chỉ đạo rất sát sao, phù hợp sức dân, phù hợp thực tiễn với tình hình để vừa giữ vững độc lập tự do, chủ quyền của dân tộc, vừa làm điểm tựa xây dựng và phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,… Mọi chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng, Nhà nước đến với dân để dân biết, dân hiểu, dân bàn, dân đồng thuận đều được hệ thống tuyên giáo các cấp vận dụng khéo léo, nhuần nhuyễn, đi vào cuộc sống của nhân dân một cách căn cơ, bền vững. Đây được xem là thành trì vững chắc đủ sức đối phó với âm mưu diễn biến hòa bình trên mặt trận không tiếng súng của các thế lực thù địch. Trong tình hình hiện nay, kẻ thù đã tìm mọi cách để đánh phá ta với nhiều chiêu thức rất thâm hiểm, sâu độc, dài hơi. Mục đích mà chúng hướng đến là làm suy giảm lòng tin trong nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, nguy hiểm hơn là việc gây chia rẽ trong nội bộ Đảng, tạo xu thế tự diễn biến, suy thoái đạo đức, lối sống, nhận thức, phát ngôn trong nội bộ đảng. Những ngày gần đây, nhiều thông tin phản động được lan truyền nói xấu Đảng, bôi nhọ uy tín lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã được vạch trần để củng cố lòng tin trong nhân dân. Cạnh đó, chúng còn xuyên tạc lịch sử truyền thống của dân tộc ta lên các trang mạng xã hội với những thông tin sai sự thật về chủ quyền biển đảo, về các mối quan hệ đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta. Song song đó, trong khi Đảng ta đang ra sức làm trong sạch nội bộ Đảng, kiên quyết loại trừ ra khỏi hàng ngũ những “con sâu” làm mất uy tín Đảng vi phạm những điều đảng viên không được làm, đi ngược lại lợi của dân tộc thì các thế lực thù địch tung nhiều thông tin trái ngược, xuyên tạc chủ trương đúng đắn được nhân dân đang đồng tình ủng hộ cao. Đó là chưa kể xuất hiện ngày càng nhiều các trang thông tin điện tử “giả mạo” có tên miền của Ban Tuyên giáo Trung ương và các trang mạng chính thống đã được Nhà nước cho phép lưu hành. Song song đó, báo chí chính thống đang phải hoạt động song trùng với các mạng xã hội, trong đó mạng xã hội tích cực có rất nhiều nhưng mạng xã hội tiêu cực cũng không ít đã làm một bộ phận người dân lo lắng, hoài nghi trước những thông tin “ảo” rất nguy hiểm. Cùng với đó là sự tấn công rất thâm hiểm của bọn phản động ngoài nước đã lợi dụng các trang mạng xã hội để công kích, đánh phá ta trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Nhìn trên tổng thể để thấy rằng công tác tuyên giáo của ta đang đứng trước rất nhiều khó khăn thách thức, đòi hỏi cả hệ thống chính trị nhanh chóng vào cuộc với quyết tâm cao nhất. Trước hết phải thấy rằng: cán bộ tuyên giáo có tâm, có tầm, có tài mới có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được phân công. Thực tế cho thấy, một số cán bộ làm công tác tuyên giáo chưa phát huy tốt vị trí, vai trò của mình là định hướng dư luận, phản bác những sai trái bằng kinh nghiệm thực tiễn, bằng vốn kiến thức dồi dào, chính xác mà nói như người xưa là “Nói có sách, mách có chứng”. Cạnh đó, một số cán bộ tuyên giáo chưa trang bị tốt kỹ năng tuyên truyền trước đám đông để đạt hiệu quả tốt nhất; một số khác chưa thực sự mẫu mực trong đạo đức, lối sống, quan hệ, ứng xử, phát ngôn với quần chúng nên chưa được sự hậu thuẫn, tín nhiệm cao. Một số cán bộ tuyên giáo chưa đủ khả năng thao tác các phương tiện nghe nhìn tiên tiến, hiện đại (đa phần là cán bộ tuyên giáo cao tuổi) như: máy chiếu, máy tính nên rất lúng túng khi được phân công báo cáo chính trị, lên lớp các khóa học dẫn đến tình trạng “đọc- chép” mất nhiều thời gian, gây nhàm chán cho học viên. Lo ngại nhất là một số ít cán bộ tuyên giáo không thường xuyên cập nhật những thông tin mới nhất, chính thống nhất dẫn đến “lạc hậu” tình hình hay phát ngôn, thông tin lại cho quần chúng những thông tin chưa được kiểm định, thiếu chuẩn xác. Có cán bộ tuyên giáo truyền đạt chung chung, nửa vời gây sự khó hiểu, đánh đố người nghe, người xem. Phải thấy rằng cán bộ tuyên giáo trong tình hình hiện nay là rất quan trọng. Từ đó mỗi người làm công tác này phải nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng của mình trước quần chúng để có những phát ngôn chuẩn mực; đấu tranh có bài bản, có luận cứ khoa học hẳn hoi trước những luận điệu thâm độc của kẻ thù. Song song đó, người làm công tác tuyên giáo cần có những bước dự báo tình huống để định hướng tốt dư luận xã hội, làm tốt vai trò “người phát ngôn” của Đảng và Nhà nước vận động nhân dân sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, xây dựng đất nước ngày càng dân chủ, văn minh. Ngoài ra, phải thấy rằng công tác tuyên giáo không chỉ chăm bẵm vào các buổi học tập chính trị, nói chuyện thời sự, bằng các văn bản, chỉ thị trên các phương tiện truyền thông (báo nói, báo in, báo điện tử, báo ảnh…) mà cần bố trí lồng ghép nhuần nhuyễn vào các hoạt động khác để “mềm” hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào nhận thức, suy nghĩ, hành động của toàn dân như: nêu gương, nhân rộng các điển hình tiên tiến trên nhiều lĩnh vực; lồng ghép vào nội dung các hội thi, hội diễn văn hóa, nghệ thuật, thể thao; thông qua các hoạt động cổ động trực quan… Thách thức đan xen thuận lợi, công tác tuyên giáo đang mở ra nhiều cơ hội đi kèm với những khó khăn trước mắt nhưng với sự quan tâm rất sát sao, chặt chẽ của Đảng, Nhà nước; sự đồng tâm hợp lực của cả hệ thống chính trị; sự cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội; sự nỗ lực không ngừng của đội ngũ cán bộ tuyên giáo, chúng ta hoàn toàn tin rằng, công tác này sẽ ngày được nâng cao hơn, hoàn thiện hơn đáp ứng được nhu cầu đặt ra trong tình hình hội nhập và phát triển của đất nước hiện nay. ST.com

“XA RỜI QUẦN CHÚNG LÀ LÀM SUY YẾU SỨC MẠNH CỦA ĐẢNG”


Xây dựng Đảng là vấn đề được nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đặt sự quan tâm hàng đầu. Đồng chí luôn coi việc nâng cao chất lượng của tổ chức Đảng, rèn luyện nâng cao chất lượng, phẩm chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên là một điều kiện tiên quyết để vượt qua những khó khăn, thử thách, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách mạng.
1. Đồng chí Nguyễn Văn Linh sớm nhận thấy tham nhũng, quan liêu có thể phát triển, trở thành “quốc nạn”. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực được đồng chí phát động từ loạt bài báo “Những việc cần làm ngay” (gồm 27 bài đăng báo Nhân Dân trong khoảng thời gian từ ngày 25/5/1987 đến ngày 28/9/1990).
Các bài báo thể hiện quyết tâm làm trong sạch và nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ; thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ, không khoan nhượng để làm lành mạnh hàng ngũ Đảng và bộ máy Nhà nước, làm lành mạnh xã hội để sửa chữa và ngăn chặn những sai lầm khuyết điểm mà một Đảng cầm quyền dễ phạm phải khi rơi vào chủ nghĩa quan liêu, xa rời quần chúng.
Đồng chí đã sớm chỉ ra căn bệnh hình thức trong đấu tranh phê bình, tự phê bình. Trong nhiệm kỳ của mình, nguyên Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh không chỉ đôn đốc việc tự phê bình và phê bình từ dưới lên mà cả từ trên xuống. Đồng chí đã tổ chức được việc kiểm điểm cá nhân từ Tổng Bí thư đến từng Ủy viên Bộ Chính trị, không chỉ trong công tác lãnh đạo mà cả trong ý thức tổ chức kỷ luật, trong đạo đức, lối sống. Việc làm đó có ý nghĩa rất lớn trong Đảng, được toàn Đảng, toàn dân nhiệt liệt hoan nghênh.
Đồng chí Nguyễn Văn Linh rất cảnh giác với xu hướng quan liêu hoá trong Đảng, cả trong lối sống và cách làm việc. Vì bệnh quan liêu đã làm hư hỏng nhiều cán bộ, làm cho Đảng xa rời quần chúng, không nhạy cảm với những gì quần chúng đang bức xúc, để cho lòng người nguội lạnh trước những vấn đề nóng bỏng mà cuộc sống đặt ra.
Khi còn là Bí thư Thành ủy TP. Hồ Chí Minh, đồng chí cho rằng gắn bó với Nhân dân là “vấn đề sống chết của Đảng bộ”. Đồng chí thường nói: “Tình hình trì trệ kéo dài của bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể, khuynh hướng hành chính hoá công tác cách mạng là một nguy cơ mà tổ chức Đảng ở một thành phố công nghiệp, một đảng của giai cấp công nhân phải hết sức cảnh giác, vì tai hại của nó thật vô cùng”.
2. Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh bài học lấy dân làm gốc và “phải đặc biệt chăm lo củng cố mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân. Mọi chủ trương chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng, khả năng của Nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân là làm suy yếu sức mạnh của Đảng”. Là người đã từng đồng cam cộng khổ, chịu đựng hy sinh cùng Nhân dân đi qua cuộc cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, tự do cho Nhân dân, qua suốt hai cuộc kháng chiến gian khổ, lâu dài và anh dũng để bảo vệ nền độc lập tự do ấy, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã rút ra những kết luận sâu sắc rằng: “Nguồn sức mạnh làm nên thắng lợi của chúng ta trong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến trước đây chính là ở chỗ Đảng gắn bó máu thịt với dân, lãnh đạo và phát huy được tiềm năng to lớn của Nhân dân, quan tâm giải quyết được các lợi ích thiết thân của quần chúng”.
Trên cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng trong những năm đầu của thời kỳ Đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh khẳng định mối quan hệ Đảng - Dân là “mối quan hệ sống còn”. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải gắn liền với việc tăng cường mối quan hệ Đảng - Dân theo nguyên tắc tập trung dân chủ, mỗi đảng viên phải thành khẩn tự phê bình và phê bình. Trong chỉ đạo thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn nêu cao tư tưởng Hồ Chí Minh “giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Theo đồng chí, mặc dù có những đặc điểm khác nhau trong mỗi thời kỳ nhưng các nhân tố tạo nên sự đoàn kết thống nhất trong Đảng ở mọi giai đoạn cách mạng là Đảng phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thường xuyên thực hiện tự phê bình và phê bình. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc mà đồng chí Nguyễn Văn Linh luôn yêu cầu các cấp uỷ Đảng phải nghiêm túc tích cực thực hiện.
3. Sinh thời, đồng chí Nguyễn Văn Linh thường trăn trở: “Để xứng đáng là người lãnh đạo chính trị đối với xã hội, xứng đáng với niềm tin yêu, hy vọng của Nhân dân, Đảng ta phải không ngừng nâng cao và hoàn thiện sự lãnh đạo của mình”. Nhận trọng trách Tổng Bí thư trước Đảng, trước Nhân dân trong một nhiệm kỳ đánh dấu khởi đầu sự nghiệp Đổi mới toàn diện đưa đất nước thoát khỏi một trong những giai đoạn khó khăn nguy hiểm nhất trong lịch sử dân tộc, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã cùng Bộ Chính trị, Trung ương Đảng lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến những bước vững chắc đầu tiên. Công tác xây dựng, chỉnh đốn để Đảng trong sạch, vững mạnh, có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo được khởi động từ Đại hội VI, hôm nay vẫn đang được Đảng nhấn mạnh trong hai Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII, đang được thực hiện mạnh mẽ trong thực tiễn để tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh kịp thời,mạnh mẽ và có hiệu quả với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đã tạo những chuyển biến tích cực trong xã hội, lấy lại lòng tin trong Nhân dân - như một nhân tố quyết định sự thành công.


TỰ DO MẠNG XÃ HỘI PHẢI ĐI KÈM TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI


Việt Nam chính thức kết nối với xa lộ thông tin của thế giới vào ngày 19-11-1997. Sau hơn 20 năm phát triển, đến nay Việt Nam đã trở thành một trong các quốc gia có tỷ lệ người dùng internet cao nhất châu Á, đứng thứ 12/20 quốc gia dẫn đầu thế giới về số người dùng internet.
Internet và mạng xã hội (MXH) ở Việt Nam đã trở thành công cụ vô cùng quen thuộc, là “một phần tất yếu” trong cuộc sống của người dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất nước. Thế nhưng, vừa qua trên một vài trang mạng vẫn xuất hiện những giọng điệu cho rằng: Việt Nam vi phạm tự do internet, tự do MXH.
Bức tranh sinh động
Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán chủ trương, chính sách tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet nói chung và MXH nói riêng. Điều này đã được hiến định trong Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013, được cụ thể hóa trong nhiều luật, nghị định cùng nhiều văn bản pháp luật khác và được biểu hiện sinh động trên thực tế.
Ngoài các báo điện tử, các trang tin, thông qua MXH (Facebook, YouTube, Lotus, Viber, Zalo, Twitter, Instagram...), người dân Việt Nam có thể tự do chia sẻ thông tin, hình ảnh, clip, bày tỏ quan điểm, ý kiến cá nhân của mình về mọi vấn đề của đời sống xã hội. Trong hệ thống chính trị, bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương ở Việt Nam ngày càng nhiều cơ quan, tổ chức sử dụng MXH để làm việc, giải quyết các thủ tục hành chính, giữ mối liên hệ với người dân, nắm bắt và giải quyết kịp thời những tâm tư, nguyện vọng chính đáng của quần chúng nhân dân…
Hệ thống pháp luật của Việt Nam về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin của công dân là cơ bản đầy đủ, đồng bộ và tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Đặc biệt, Luật An ninh mạng (ANM), sau một năm có hiệu lực đã dần đi vào cuộc sống, mang lại những hiệu quả rất rõ nét, thiết thực trong đời sống xã hội. Trước, trong và sau khi luật ra đời, không ít thông tin xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động cho rằng việc Việt Nam ban hành Luật ANM là "vi phạm quyền con người, bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...". Thực tế, sau một năm thực thi đã chứng minh Luật ANM hoàn toàn không vi phạm quyền con người, không bóp nghẹt tự do ngôn luận, mà ngược lại đã tạo nên nền tảng pháp lý vững chắc, phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân... Mọi cá nhân vẫn được bày tỏ chính kiến trên không gian mạng, tự do ngôn luận hoàn toàn không bị hạn chế nếu chấp hành các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, luật đã giúp tạo môi trường lành mạnh, an toàn. Nhiều thông tin, bài viết, video clip ảnh hưởng tiêu cực đến chuẩn mực, đạo đức xã hội đã được ngăn chặn, xử lý; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được bảo đảm; các đối tượng tung tin sai lệch, nhất là về dịch Covid-19 gây hoang mang dư luận, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch đã bị xử lý.
Tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin
Mặt khác, cũng cần thấy rằng nhận thức, quan điểm về internet, MXH và tham gia MXH của một số người chưa đúng, chưa đầy đủ. Không ít người dùng nghĩ rằng tự do internet, tự do MXH là vô hạn, không thấy rõ sự gắn bó giữa quyền lợi với nghĩa vụ và trách nhiệm của mình khi tham gia MXH. Do cách nhìn thiên về mặt trái của MXH nên vẫn có người nhìn nhận MXH với thái độ thành kiến. Đi kèm với tốc độ phát triển mạnh mẽ của internet, MXH, Việt Nam cũng là quốc gia có nguy cơ xảy ra các hành vi phạm pháp từ MXH.
Đặc biệt, tình trạng tin giả, lừa đảo, xuyên tạc, bịa đặt qua MXH là một trong những vấn đề nhức nhối nổi lên thời gian qua. Nguyên nhân của tình trạng này do đâu? Phân tích chúng ta thấy dư luận phản ứng rất mạnh mẽ trước những vấn đề thuộc giá trị đạo đức truyền thống hoặc các vấn đề nóng, vấn đề có tính thời sự cao trong đời sống xã hội. Lợi dụng yếu tố tâm lý này, nhiều người đã tạo ra các tin giả, tin lừa đảo, tin bóp méo, xuyên tạc sự thật với động cơ và mục đích cá nhân. Vì mục đích kinh tế mà một bộ phận bán hàng online cố tình tạo ra tin giả và lan truyền tin giả nhằm thu hút sự chú ý của khách hàng vào trang MXH của mình.
Sự bùng phát của tin giả, tin xuyên tạc cũng một phần do chính những người tiếp cận thông tin, những người tham gia MXH. Do nhận thức hạn chế, thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết nên không ít người không biết thông tin mình tiếp cận là đúng hay sai, có cơ sở khoa học hay không, tác động, ảnh hưởng đến người khác, đến xã hội như thế nào nên đã đăng tải, chia sẻ, bình luận một cách tùy tiện, vô trách nhiệm... Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động tạo ra rất nhiều thông tin giả, thông tin xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Một số đối tượng mang danh “thực hiện quyền tự do ngôn luận” thông qua MXH để “bày tỏ quan điểm cá nhân” nhưng thực chất là tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và đã bị xử lý trước pháp luật. Sau mỗi trường hợp bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động lại lu loa rằng “Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận”, “vi phạm tự do internet”... Cần khẳng định rõ rằng giọng điệu ấy không nhằm mục đích gì khác là bao che, dung túng, tiếp tay cho những hành vi vi phạm pháp luật và sâu xa là chống phá Việt Nam. Tôn trọng và bảo vệ quyền tự do MXH là nhiệm vụ của mọi quốc gia trên thế giới. Nhưng cũng như các quyền cơ bản khác, quyền tự do MXH chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào mục đích đúng đắn và phục vụ lợi ích chung của cộng đồng. Mọi hành vi lợi dụng quyền này để vi phạm pháp luật thì không chỉ có Việt Nam mà ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải xử lý nghiêm minh.
Để đối phó với nạn tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục để mọi người thấy rõ tính nguy hại của vấn đề; nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của người dân, nhất là người tham gia MXH cần tỉnh táo trong tiếp cận thông tin để tránh bị lợi dụng tiếp tay cho kẻ xấu, đồng thời tích cực đấu tranh với vấn nạn tin giả.
Tin giả lan truyền nhanh nhất ở bộ phận độc giả thiếu hiểu biết nhưng lại quá nhẹ dạ, cả tin… Do vậy, mỗi người cần đề cao trách nhiệm tự thân, nâng cao trách nhiệm đối với các nội dung được đăng tải, chia sẻ. Có thể ví MXH như cái chợ, ở đó người ta bán đủ thứ thông tin, hình ảnh mà không ai kiểm chứng, kiểm duyệt. Ở đó có cả hàng thật lẫn hàng giả, hàng nhái; lẫn cả hàng tươi ngon với hàng ôi thiu… Mỗi chúng ta hãy trở thành những người “tiêu dùng thông thái” khi tham gia vào chợ thông tin này. Hãy giữ cho mình tác phong thận trọng và luôn mang tâm thế của người hiểu biết, tỉnh táo. Chỉ có như vậy mới tạo ra cho mình một bộ lọc chuẩn trong thời đại "bão" thông tin này.
Chế tài xử phạt nghiêm minh
Cũng như hầu hết các quốc gia trên thế giới, Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có tự do internet, MXH. Mặt khác, đối với những người vi phạm các quy định của pháp luật trên không gian mạng, đăng phát các thông tin thất thiệt, lừa đảo, xuyên tạc, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân... các cơ quan chức năng của Việt Nam sẽ xử lý nghiêm minh theo pháp luật. Việt Nam kiên quyết phản đối, đấu tranh với mọi hành vi lợi dụng quyền con người nói chung và quyền tự do internet, MXH nói riêng để chống phá, can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
Ngày 3-2-2020, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 15/2020/NĐ-CP về “xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử” thay thế Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13-11-2013.
Nghị định số 174/2013/NĐ-CP của Chính phủ đã quy định khá cụ thể về hành vi thông tin sai sự thật trên môi trường viễn thông. Nhưng quá trình tổ chức thực hiện có những hạn chế và diễn biến tình hình đã thay đổi, xuất hiện những kẽ hở, mức độ xử phạt chưa đủ sức răn đe... Vì thế mà tình trạng dùng MXH, trang thông tin, tài khoản cá nhân để đăng thông tin sai sự thật chưa giảm, thậm chí có chiều hướng gia tăng.
Nghị định số 15/2020/NĐ-CP ra đời với 124 điều, đã quy định rõ hơn, chi tiết hơn về hành vi vi phạm hành chính, hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền lập biên bản và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực. Đây được xem là phương thuốc mạnh hơn trong việc phòng, chống những thông tin giả, sai lệch, xấu độc đang lan tràn trên không gian mạng thời gian vừa qua.
Hệ thống pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện, đồng bộ, kịp thời điều chỉnh mọi mặt của đời sống. Việc đưa pháp luật vào cuộc sống, nâng cao nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật cho người dân đang được các cấp, các ngành, các địa phương chú trọng thực hiện. Cùng với đó, trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, điều quan trọng đối với mỗi người dân là phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo trong tiếp nhận và xử lý thông tin. Trong khi thực hiện quyền của mình, mỗi người còn phải tôn trọng quyền và lợi ích của tập thể, cá nhân; luôn đặt lợi ích quốc gia-dân tộc lên hàng đầu, thể hiện rõ tinh thần thượng tôn pháp luật.
Việc Việt Nam ban hành Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan thực chất là nhằm bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thông tin, tự do internet, tự do MXH của người dân ngày càng tốt hơn; làm cho môi trường mạng của Việt Nam ngày càng trong lành và an toàn hơn, phục vụ tốt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luận điệu cho rằng Luật ANM, Nghị định số 15/2020/NĐ-CP cùng các văn bản quy phạm pháp luật mà Việt Nam ban hành và thực hiện là "bóp nghẹt tự do dân chủ, tự do ngôn luận...", “vi phạm tự do mạng xã hội”... thực chất là hành vi tuyên truyền xuyên tạc chống phá Đảng, Nhà nước ta. Việt Nam luôn hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền, tiến bộ, dân chủ và văn minh, trong đó các quyền con người nói chung, quyền tự do internet, tự do MXH nói riêng được tôn trọng và bảo đảm. Đồng thời, Việt Nam kiên quyết vạch trần và đấu tranh không khoan nhượng với những tổ chức, cá nhân lợi dụng vấn đề này để vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân.

KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC QUY TRÌNH XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM.


Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XIV (bế mạc vào cuối tuần qua) đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Đây là một trong những thành công lớn của kỳ họp lần này, đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo cử tri. Thế nhưng một số ít người có thể vì không hiểu hoặc cố tình không hiểu đã xuyên tạc quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam, gây bức xúc trong dư luận…
“Góp ý, phê bình về quy trình xây dựng luật” nhưng lại không hiểu luật
Ngày 18-6 vừa qua, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (Luật BHVBQPPL) với 92,96% đại biểu Quốc hội (ĐBQH) tham gia biểu quyết tán thành. Đây là một trong những dự án luật được đông đảo cử tri quan tâm. Dự án luật này cũng được một số đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta “soi xét” khá kỹ. Những người này từng có những bản “góp ý phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” đăng tải trên mạng xã hội và một số cơ quan báo chí nước ngoài, trong đó phê bình trực tiếp quy trình xây dựng Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL.
Có lẽ họ không nhớ vào ngày 22-5-2020, Quốc hội đã thảo luận trực tuyến về dự án Luật BHVBQPPL. Tại cuộc họp này, về cơ bản, các vị ĐBQH đã tán thành với báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý và nhiều nội dung của dự thảo luật; đồng thời đóng góp thêm ý kiến về một số điều, khoản cụ thể. Trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo luật. Có ý kiến đề nghị quy định rõ hơn về thời gian cơ quan chủ trì soạn thảo gửi văn bản tới Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và phạm vi, chủ thể, thời hạn thực hiện phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam để bảo đảm tính khả thi. UBTVQH đã báo cáo: Việc phản biện xã hội đối với dự thảo Luật BHVBQPPL đang được thực hiện theo quy định của Luật MTTQ Việt Nam. Dự thảo luật đã tiếp thu, bổ sung quy định về hoạt động phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại Điều 6. Các vấn đề về thời gian gửi văn bản, phạm vi, chủ thể, thời hạn phản biện xã hội thuộc trình tự, thủ tục thực hiện phản biện xã hội, hiện đang được quy định tại Nghị quyết liên tịch số 403/2017/NQLT-UBTVQH14-CP-ĐCTUBTWMTTQVN. Do đó, UBTVQH xin tiếp thu ý kiến của các ĐBQH để chỉ đạo các cơ quan liên quan rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung, quy định rõ trong Nghị quyết liên tịch số 403.
Cũng có ý kiến đề nghị Hội đồng Dân tộc (HDDT), các ủy ban của Quốc hội chỉ nên có ý kiến mà không nên quy định trách nhiệm thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh và tham gia thẩm tra dự án, dự thảo thuộc lĩnh vực phụ trách, UBTVQH cho rằng, theo quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Quốc hội, HĐDT, ủy ban của Quốc hội có nhiệm vụ thẩm tra các dự án luật thuộc lĩnh vực phụ trách nhằm bảo đảm tất cả nội dung liên quan của dự án luật đều được xem xét để báo cáo Quốc hội, UBTVQH. Tương tự như vậy, trong việc thẩm tra đề nghị xây dựng luật, ngoài trách nhiệm chung của Ủy ban Pháp luật thì rất cần ý kiến thẩm tra chuyên môn sâu của HĐDT, các ủy ban khác của Quốc hội với vai trò là cơ quan phụ trách lĩnh vực. Đây cũng là sự đổi mới hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội trong công tác lập chương trình xây dựng luật, pháp lệnh từ đầu nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật và đã đạt được những kết quả tích cực. Việc quy định như vậy cũng là nhằm đề cao, làm rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan tham gia trong quy trình xây dựng, ban hành luật như yêu cầu của Ban Bí thư tại Thông báo số 26-TB/TW ngày 19-4-2017.
Như vậy UBTVQH đã tiếp thu tối đa ý kiến đóng góp của các ĐBQH theo hướng mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ tập thể của các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và toàn dân trong xây dựng các dự án luật, điều này trái với ý kiến của một số người cho rằng Quốc hội áp đặt ý chí của một số ít người trong xây dựng luật. Điều đáng phê phán là có người “góp ý, phê bình về quy trình xây dựng luật ở Việt Nam” nhưng lại không hiểu quy trình xây dựng luật ở Việt Nam.
Thành quả xây dựng pháp luật ở Việt Nam là điều không thể phủ nhận
Lập hiến và lập pháp là một trong những hoạt động quan trọng và đặc trưng nhất của Quốc hội Việt Nam. Chức năng này đã được thể hiện xuyên suốt qua các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và Hiến pháp năm 2013. Ngoài Hiến pháp năm 1946 quy định nguyên tắc chung “Nghị viện nhân dân đặt ra các pháp luật”, thì cả 4 bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đều khẳng định Quốc hội là cơ quan lập hiến và lập pháp. Qua mỗi bản Hiến pháp, cơ chế thực hiện chức năng lập pháp của Quốc hội được kế thừa, phát triển và ngày càng được làm rõ hơn. Hiến pháp năm 2013 (hiện hành) đã khẳng định, Quốc hội là cơ quan làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật, sửa đổi luật; thực hiện quyền lập hiến, lập pháp. Trên thực tế, quy định này của Hiến pháp được thực hiện khá chặt chẽ, cụ thể theo trình tự như sau: Hàng năm, trên cơ sở đề nghị của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền trình dự án luật, pháp lệnh, UBTVQH lập và trình Quốc hội xem xét, quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh. Trên cơ sở đó, UBTVQH phân công, chỉ đạo, đôn đốc và giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện chương trình này. HĐDT, các ủy ban của Quốc hội, bên cạnh việc thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, còn dành nhiều thời gian, công sức cho việc chỉnh lý, hoàn thiện các dự án luật trên cơ sở ý kiến của các vị ĐBQH, ý kiến của nhân dân, của các cơ quan, tổ chức hữu quan. Để phục vụ cho công tác này, HĐDT, các ủy ban của Quốc hội đã tham gia ngay từ đầu vào quá trình xây dựng dự án luật. UBTVQH với tư cách là cơ quan chuẩn bị và chủ trì kỳ họp Quốc hội, thường xuyên cho ý kiến đối với các dự án luật, pháp lệnh. Giữa hai kỳ họp, các đoàn ĐBQH đã tổ chức các hội nghị để trao đổi, thảo luận và lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan. Ý kiến của ĐBQH là cơ sở quan trọng mang tính quyết định trong việc hoạch định chính sách, chỉnh lý và hoàn thiện từng nội dung của dự án luật. Theo trình tự này, Quốc hội đã nắm trọn quyền lập pháp, vì thế ý kiến một số người cho rằng Quốc hội chỉ là cơ quan thông qua luật là không có cơ sở lý luận và thực tiễn. Thực tế cho thấy, nếu so sánh giữa dự án luật trình Quốc hội với các dự án luật đã được các cơ quan của Quốc hội thẩm tra, chỉnh lý, hoàn thiện và Quốc hội thông qua thì chất lượng được nâng cao đáng kể, phù hợp với điều kiện thực tiễn, nhất là về các chính sách, cả về mặt nội dung cũng như hình thức văn bản. Quy trình xây dựng luật của Việt Nam cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Theo quy trình này, pháp luật đã ban hành giúp chúng ta đã thu được nhiều thành quả mà các thế lực thù địch dù có cố tình xuyên tạc nhưng cũng không thể phủ nhận.
Tại Kỳ họp thứ chín mới đây, Quốc hội đã thông qua 10 luật, 21 nghị quyết, cho ý kiến về 6 dự án luật khác. Các dự án luật, nghị quyết trình Quốc hội xem xét, thông qua và cho ý kiến tại Kỳ họp thứ chín đã bám sát chủ trương, đường lối của Đảng, tiếp tục thể chế hóa Hiến pháp, góp phần bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường; tổ chức bộ máy; quan hệ lao động; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường công tác nội luật hóa các điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, tiến trình hội nhập quốc tế.
Tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam
Có thể nói hệ thống pháp luật Việt Nam kể từ thời điểm đổi mới đất nước năm 1986 đến nay đã phát triển không ngừng và còn phải tiếp tục hoàn thiện. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHVBQPPL mà Quốc hội vừa thông qua sẽ tạo cơ sở pháp lý cho việc tiếp tục hoàn thiện quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Theo đó, cơ quan trình dự án luật được quyền bảo vệ quan điểm của mình trong toàn bộ quá trình soạn thảo và trình thông qua dự án luật. Còn cơ quan thẩm tra, dù đó là các ủy ban của Quốc hội hay UBTVQH thì phải làm đúng chức năng của cơ quan thẩm tra, giúp Quốc hội xem xét, thậm chí có thể đề nghị Quốc hội không thông qua một dự án luật là điều hoàn toàn có thể xảy ra nhưng không nên làm thay và tước đi quyền của cơ quan soạn thảo dự án luật.
Luật BHVBQPPL năm 1996 được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2002 đã quy định hồ sơ dự án luật trình Quốc hội phải có dự thảo văn bản quy định chi tiết. Luật BHVBQPPL năm 2008 đã bỏ quy định này. Tuy nhiên, năm 2013, qua giám sát tối cao việc ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, Quốc hội thấy rằng tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết có xu hướng gia tăng, dẫn đến luật chậm được triển khai thực hiện. Do đó, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 67/2013/QH13 yêu cầu trong hồ sơ dự án luật phải trình kèm theo dự thảo văn bản quy định chi tiết. Quy định này tiếp tục được thể hiện trong Luật BHVBQPPL sửa đổi, bổ sung. Đồng thời, tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQH, UBTVQH đã đề nghị cơ quan trình, cơ quan soạn thảo thời gian tới cần quan tâm hơn nữa việc chuẩn bị dự thảo văn bản quy định chi tiết nhằm bảo đảm chất lượng văn bản, tránh hình thức, lãng phí.
Để xử lý tình trạng còn xảy ra một số mâu thuẫn, chồng chéo trong quy định giữa các luật do ngay từ giai đoạn tổng kết, đánh giá, xây dựng dự thảo văn bản mới, các cơ quan liên quan chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm trong việc rà soát, phát hiện và xử lý kịp thời các nội dung có quy định khác nhau trong các văn bản luật ban hành trước, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung vào Luật sửa đổi bổ sung Luật BHVBQPPL quy định hồ sơ dự án luật gửi thẩm định, thẩm tra, trình Quốc hội phải có báo cáo về rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến dự án, dự thảo; đồng thời bổ sung vào Khoản 2, Điều 12 quy định “trường hợp văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành có quy định khác với văn bản mới nhưng cần tiếp tục được áp dụng thì phải được chỉ rõ trong văn bản mới đó”.
Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc sự cần thiết xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, toàn diện, là cơ sở xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Pháp luật của Việt Nam đã có những quy định rất cụ thể bảo đảm cho mọi công dân được tiếp cận thông tin đa dạng, nhiều chiều, công khai, chủ động tham gia góp ý kiến trong các giai đoạn của quy trình xây dựng pháp luật; đồng thời, các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng pháp luật phải lắng nghe, tiếp thu ý kiến, phản hồi ý kiến của người dân công khai minh bạch; trường hợp tiếp thu ý kiến thì cụ thể ý kiến về nội dung gì, nếu không tiếp thu thì phải giải trình rõ tại sao không tiếp thu. Qua đó, một mặt bảo đảm quyền dân chủ của người dân trong xây dựng pháp luật, mặt khác, những ý kiến góp ý từ người dân, từ cộng đồng sẽ giúp các cơ quan nhà nước, cá nhân có thẩm quyền xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn, phản ánh được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Không thể xuyên tạc thành quả và quy trình xây dựng pháp luật ở Việt Nam.