Thứ Ba, 7 tháng 7, 2020

LỊCH SỬ MÃI GHI NHỚ NHỮNG KẺ BÁN NƯỚC, CHIÊU HỒI NỔI TIẾNG CỦA DÂN TỘC

      Trong lịch sử dân tộc cũng lắm kẻ chiêu hồi theo giặc, bán nước cho giặc. Rốt cuộc cuộc đời của chúng sau đó cũng tàn lụi, con cháu không thể mở mày, mở mặt để tự hào về ông cha mình, thậm chí còn bị chính con cái, cháu chắt dòng tộc mình ruồng bỏ, lịch sử lưu tên kẻ bán nước. Nổi lên ở một số nỗi nhục khi nhắc đến như sau:

1. TRẦN ÍCH TẮC

Có thể gọi Trần Ích Tắc  là một hoàng tử nhà Trần, là con của Trần Thái Tông, em cùng cha khác mẹ với Trần Thánh Tông và Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải,  là chú của Trần Nhân Tông. Một tên tội đồ nhân danh kẻ "cõng rắn cắn gà nhà".

Vì có tham vọng muốn thay thế ngôi vị của Thánh Tông và Nhân Tông. Khi quân Nguyên Mông sang xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1285), ngày 15 tháng 3, Ích Tắc đem cả gia đình đi hàng giặc, được đưa về Trung Quốc và được Hốt Tất Liệt phong làm An Nam quốc vương và chờ ngày đưa trở về nước. Sau khi quân Nguyên Mông đại bại, Trần Ích Tắc ở lại Ngạc Châu  nay thuộc tỉnh Hồ Bắc cho giữ chức quan Hồ Quảng bình chương chính sự, gia phong tới Ngân Thanh vinh lộc đại phu rồi Kim tử quang lộc đại phu, Nghi đồng tam tư và chết ở Trung Quốc vào năm Thiên Lịch thứ 2 (1329) đời Nguyên Văn Tông. Một tên tội đồ nhân danh kẻ "cộng rắn cắn gà nhà".

2. LÊ CHIÊU THỐNG

Lê Chiêu Thống, tên thật là Lê Duy Khiêm; khi lên ngôi lại đổi tên là Lê Duy Kỳ, là vị hoàng đế thứ 16 và là cuối cùng của hoàng triều Lê nước Đại Việt, giữ ngôi từ cuối tháng 7 âm lịch năm 1786 tới đầu tháng 1 năm 1789.

Lê Chiêu Thống không đủ uy tín và tài năng cai quản Vương triều và để đất nước rơi vào loạn lạc, vì thế phải hết dựa vào thế lực này đến thế lực khác, cầu cứu nhà Thanh đưa gần 30 vạn quân sang xâm lược nước ta hòng duy trì ngôi vị. Nhưng ý trời đã định, trưa ngày mùng năm Tết Kỷ Dậu (1789), Quang Trung cưỡi voi, áo bào xạm đen khói súng, đem quân tiến vào Thăng Long đánh tan 29 vạn quân Thanh chỉ có 5 ngày, sớm hơn 2 ngày so với dự định (lúc khao quân ở Nghệ An ngày 30 Tết, Quang Trung hẹn ngày mùng 7 Tết vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng). Triều đại Lê Chiêu Thống sụp đổ hoàn toàn, gia đình Triều Lê phải nhận kết cục lưu vong trên đất nước Trung Quốc với bao điều đàm tiếu của nhân dân.

3. NGUYỄN ÁNH

Nguyễn Ánh sinh  ngày  8 tháng 2 năm 1762 , chết 3 tháng 2 năm 1820), húy là Nguyễn Phúc Ánh, thường được gọi tắt là Nguyễn Ánh,  là vị vua sáng lập nhà Nguyễn, triều đại quân chủ phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Để đạt được tham quyền cố vị trong một chế độ vương triều thối nát của Chúa Nguyễn đàng trong bị Vương Triều Tây Sơn đánh đổ.  Nguyễn Ánh đã cầu viện hơn 10 vạn quân Xiêm La (Thái Lan ngày nay) lật đổ Nhà tây Sơn; cầu viện thực dân Pháp dẫn đến Pháp xâm lược Việt Nam và thực hiện chế độ bóc lột, đàn áp quần chúng nhân dân gần 80 năm.
Năm 1802, sau khi chiếm được kinh đô Phú Xuân, một trong những việc làm đầu tiên của vua Gia Long là làm lễ “Hiến phù”, tức là cho dẫn vua tôi Tây Sơn đã bị bắt làm tù binh đến trước bàn thờ tổ tiên để báo cáo chiến thắng.

Vịn vào tục lệ ngàn xưa ấy nhằm uy hiếp tinh thần của đông đảo nhân dân còn lưu luyến nhà Tây Sơn và phong trào “áo vải cờ đào”. Gia Long đã hành hình vua quan Tây Sơn còn sống sót và gia đình họ một cách vô cùng dã man. Sau khi Gia Long nghỉ ngơi khoảng hai tháng ở kinh đô Đàng Trong, đã chính thức ra tay trừng phạt tù nhân của mình.

Trước hết là bắt vua Quang Toản phải tự mắt nhìn vào một loạt các cảnh gồm 5 động tác:

- Phơi bày thi thể của bố mẹ Quang Toản và những người than cận nhất của nhà vua một cách nguyên xi như lúc mới bốc ở dưới mộ chiều hôm trước.

- Lắp lại thành từng bộ phận hoặc toàn than những hài cốt của vua Quang Trung và bố mẹ Người để gây cảm xúc rung rợn, thương tâm.

- Tập trung những hài cốt đã lắp cùng với tất cả những hài cốt rời rạc của gia đình vào một cái giỏ lớn.

- Bắt buộc tất cả lính tráng và những người có mặt phải đến và đi tiểu vào cái giỏ hài cốt ấy.
Giã nát tất cả hài cốt thành bột và bỏ vào một cái giỏ khác đặt sát tận mắt vua Quang Toản để gây thêm đau khổ cho nhà vua.

- Sau khi khủng bố tinh thần như vậy Quang Toản được ăn một bữa cơm khá ngon rồi bị bịt mồm lại bằng giẻ rách, tất cả gia quyến của nhà vua cũng đều bị bịt mồm để ngăn cản họ kêu la chửi rủa.

- Rồi người ta dẫn đến bốn con voi, căng tay chân Quang Toản ra và trói một tay hoặc một chân của nhà vua vào một chân sau của mỗi con voi. Dưới sự điều khiển của tượng binh, bốn con voi đồng thời chạy về bốn hướng để xé than nhà vua thành bốn mảnh.

- Từ bốn mảnh xác ấy người ta róc thịt, lột da lấy xương để ra một nơi. Còn da thịt chia làm 5 phần bằng nhau đem ra phơi bày ở 5 chợ đông người nhất của kinh thành trên những cái cột cao để cho diều, quạ, mặt cắt…đến rỉa thịt. “Quang Tự, Quang Điện, Nguyễn Văn Trị rồi các con của Nguyễn Nhạc gồm Thanh, Hán, Dũng bị giết ngay sau khi bị bắt, 31 người có quan hệ huyết thống với Nguyễn Huệ đều bị xử lăng trì”.

“Quang Toản và những người con khác của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ là Quang Duy, Quang Thiệu và Quang Bàn bị 5 voi xé xác, đầu bị bỏ vào vò và giam trong ngục”. Riêng với thiếu phó Trần Quang Diệu, vì nổi tiếng là người rất có hiếu với mẹ nên được vua Gia Long miễn cho hình phạt “voi xé” và được hưởng hình phạt “chặt đầu”. Cha bị chặt đầu nhưng con gái ông vẫn phải chịu hình “voi xé”. Cô bé này khoảng 14 - 15 tuổi, rất xinh đẹp và dễ thương, khi thấy một con voi ra quấn mình, cô réo lên một tiếng vô cùng thê thảm: “mẹ ơi cứu con với”…Bùi Thị Xuân trả lời “nhưng con ơi, con nên chết với bố mẹ hơn là sống với bè lũ lang sói kia”. Lời nói ấy vừa chấm dứt thì con voi bị kích thích đưa vói quấn lấy cô bé rồi tung lên cao rồi cho rơi xuống cắm đứng vào cặp vòi nhọn hoắt của nó và nó làm thế hai lần thì cô bé chết.

Đến lượt nữ tướng Bùi Thị Xuân, bà đã hiên ngang đi thẳng tới con voi sắp giết mình và như muốn chọc tức nó. Khi bà lại gần con voi thì có một tiếng hô lớn: “Qùy xuống cho voi dễ nắm bắt”, bà không quỳ và cứ ung dung đến sát cạnh con voi. Thấy con voi vẫn đứng im, người nài phải thúc dục nó bằng nhiều cách nó mói chịu quấn than bà tung lên đến ba lần bà mới tắc thở. Người ta nói: “ Có lẽ thấy nữ tướng Bùi Thị Xuân hiên ngang đi tới, voi đã nhận ra đó là một trong những người chủ cũ của nó”.

Các quan văn khác của Tây Sơn như Ngô Thì Nhậm và Phan Huy ích ra hàng thì cho đánh đòn và được tha về (riêng Ngô Thì Nhậm thì bị Đặng Trần Thường trước có thù riêng nên cho người đánh chết).

Việc trả thù Tây Sơn của Nguyễn Ánh với mục đích tỏ rõ uy thế, tạo khiếp sợ và buộc những người chống đối (ở đây chủ yếu là các cựu thần Lê -Trịnh) phải quy thuận trước vương triều mới. Chính vì vậy, Nguyễn ánh không hề tìm cách che đậy sự tàn bạo của mình trong việc này. Ông tuyên bố: “Trẫm vì chín đời mà trả thù”. Dù trải qua 9 đời chúa, 13 đời vua, Bảo Đại là vị vua cuối cùng bán nước cho Pháp và lịch sử vẫn luôn ghi rõ Nguyễn Ánh là một kẻ "cộng rắn cắn gà nhà" và có nhiều giai thoại tàn độc nhất trong lịch sử Việt Nam.

4. NGÔ ĐÌNH DIỆM

(1901 - 2 tháng 11năm 1963) từng làm quan nhà Nguyễn thời vua Bảo Đại, sau đó làm Thủ tướng cuối cùng của Quốc gia Việt Nam, rồi trở thành Tổng thống bù nhìn đầu tiên của của chế độ ngụy quyền bán nước sau khi thành công trong việc phế truất Bảo Đại.

Ngô Đình Diệm là kẻ cấu kết với đế quốc Mỹ phá hoại hiệp định Gioneve thiết lập quyền lực chuyên chế theo thể chế gia đình trị, dẫn đến cuộc tàn sát đẫm máu nhiều người dân vô tội và đồng bào Phật giáo ở Miền Nam... bị CIA và các đảng phái chính trị đối lập giết hại cả gia đình năm 1963...
Xem thêm tội ác Ngô Đình Diệm: http://tuanbaovannghetphcm.vn/lich-su-dan-toc-khong-co-cho-cho-ke-ruoc-voi-giay-ma-to/.

5. HOÀNG VĂN HOAN

Hoàng Văn Hoan sinh tại Quỳnh Lưu, Nghệ An, tên thật là Trần Xuân Phong. Năm 1926, tham gia lớp huấn luyện cách mạng do Hồ Chí Minh mở ở Trung Quốc. Năm 1930, gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Sau Cách mạng Tháng Tám, là Thứ trưởng Bộ quốc phòng và Ủy viên chính trị toàn quốc Vệ quốc quân.

Từ năm 1950 đến năm 1957 làm Đại sứ đầu tiên của Việt Nam tại Trung Quốc kiêm Đại sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ. Hoàng Văn Hoan có vị trí hơn một đại sứ bình thường vì thường được Mao Trạch Đông tiếp riêng để bàn thảo các vấn đề hai nước, kể cả chiến lược đánh miền Nam của Ban lãnh đạo Hà Nội.

Năm 1951 Hoàng Văn Hoan được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và từ năm 1956 đến năm 1976 là Ủy viên Bộ chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam sau đó Hoàng Văn Hoan bị Tổng bí thư Lê Duẩn cho ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Hoàng Văn Hoan hoàn toàn theo đường lối Maoist, ủng hộ Trung Quốc trong cuộc chiến 1979, chế độ Pol Pot và phái bảo thủ tại Trung Quốc. Ngày 11 tháng 6 – 1979, lấy cớ sang Cộng hòa Dân chủ Đức để chữa bệnh, với sự giúp sức của tình báo Trung Quốc, Hoàng Văn Hoan đã bỏ trốn tại sân bay Karachi (Pakistan) rồi sang Bắc Kinh.

Tại Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan đã xuyên tạc tình hình trong nước, chính sách đối ngoại của Nhà nước. Sau sự kiện này Hoàng Văn Hoan đã trở thành biểu tượng của sự phản bội. Truyền thông Việt Nam lúc đó đã so sánh Hoàng Văn Hoan với Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc. Đó là thời điểm quan hệ Việt - Trung căng thẳng khi Trung Quốc xua quân xâm lược Việt Nam hồi đầu năm.

Không lâu sau, nhà nước Việt Nam lần lượt hủy bỏ các chức vụ và xóa Đảng tịch, Đảng Cộng sản Việt Nam của Hoàng Văn Hoan. Ngày 26 tháng 6 năm 1980, Việt Nam tuyên bố xử tử hình vắng mặt Hoàng Văn Hoan với tội danh phản bội Tổ quốc.

Hoàng Văn Hoan mất tại Bắc Kinh năm 1991 và được Trung Quốc tổ chức lễ tang cấp nhà nước, thi hài được chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, nơi chôn cất của các quan chức cao cấp của Trung Quốc. Sau này hài cốt của Hoàng Van Hoan đã được con trai chuyển về Việt Nam.

Quốc Văn ST

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét