Thứ Tư, 3 tháng 8, 2022

ĐỀ ÁN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

 

Thống nhất cao về nhận thức, tầm quan trọng của Đề án xây dựng Nhà nước pháp quyền

Chiều 18/4, tại trụ sở Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban chỉ đạo xây dựng Đề án "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045"

Kể từ phiên họp thứ nhất của Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045" vào tháng 7/2021, Ban Chỉ đạo đã làm việc trên tinh thần khẩn trương, quyết liệt, trách nhiệm cao trước Đảng và Nhà nước, các cơ quan liên quan đã khẩn trương xây dựng 27 chuyên đề nhánh làm cơ sở xây dựng Đề án.

Các cơ quan như Quốc hội, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Bộ Công an, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hội đồng Lý luận Trung ương, Bộ Tư pháp, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm xin ý kiến lãnh đạo các cơ quan, các chuyên gia về dự thảo các chuyên đề.

Nhiều thành viên Ban Chỉ đạo quyết liệt, sát sao, chủ động, dành thời gian cho ý kiến nhiều lần các chuyên đề nhánh để có được sản phẩm chất lượng tốt. Cũng trong 10 tháng qua, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc đã có 4 cuộc làm việc với các chuyên gia, nhà khoa học.

Ban Nội chính Trung ương đã làm tốt vai trò đầu mối, tham mưu trực tiếp và tổ chức rất thành công 3 hội thảo quốc gia ở Hà Nội, Đà Nẵng và TP Hồ Chí Minh với sự tham gia của hàng trăm lượt chuyên gia, nhà khoa học, cán bộ làm công tác quản lý, cán bộ làm công tác thực tiễn, trong đó có các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư để Ban Chỉ đạo lắng nghe ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học. Đây là đầu vào rất quan trọng cho xây dựng Đề án.

Thay mặt Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao tinh thần trách nhiệm trước Trung ương, trước Bộ Chính trị, của các thành viên Ban Chỉ đạo trong chỉ đạo xây dựng và hoàn thành 27 chuyên đề.

Chủ tịch nước cũng biểu dương, đánh giá cao các cơ quan và cảm ơn các chuyên gia, nhà khoa học, cùng Tổ Biên tập. Đặc biệt, trong hơn 1 tháng qua, các thành viên Tổ Biên tập, nhất là các chuyên gia, nhà khoa học đã dành hết tâm trí, sức lực, với phương pháp làm việc rất khoa học, trao đổi, thảo luận dân chủ, cởi mở, huy động tối đa kiến thức, kinh nghiệm tích lũy được trong nhiều năm vào việc tổng hợp để xây dựng dự thảo Đề án lần thứ nhất trình Ban Chỉ đạo cho ý kiến.

Theo đề nghị của Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, các thành viên Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án đánh giá cao Thường trực Ban Chỉ đạo đã chuẩn bị công phu, bài bản dự thảo Đề án lần nhất với sự tham gia ý kiến sâu của các nhà khoa học, dù đây là lần đầu tiên Đảng ta xây dựng Đề án rất quan trọng này.

Các thành viên Ban Chỉ đạo cũng cho ý kiến vào nội dung của Đề án như những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong những năm qua, cũng như các nguyên tắc, các đặc trưng cơ bản và những kiến nghị, đề xuất về mục tiêu, quan điểm, lộ trình theo 2 giai đoạn từ 2021- 2030 và từ 2030 - 2045, cũng như những phương hướng đột phá nhằm hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam do nhân dân, vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo.

Trong phát biểu kết luận phiên họp, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh, Ban Chỉ đạo thống nhất cao về nhận thức, tầm quan trọng, tính chiến lược của Đề án, trong đó thống nhất về các quan điểm đổi mới, phát triển đất nước, đưa đất nước phát triển bền vững dưới sự lãnh đạo của Đảng; các vấn đề nêu ra đều có cơ sở pháp lý.

Dự thảo lần thứ nhất được xây dựng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp và Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.

Từ ý kiến của các thành viên Ban Chỉ đạo, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đề nghị Ban Nội chính Trung ương, Tổ Biên tập tiếp tục hoàn thiện dự thảo Đề án một cách chặt chẽ, có hệ thống, đồng thời làm rõ thêm các nội dung quan trọng là đánh giá thực trạng, các quan điểm, mục tiêu đột phá, các nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Do thời gian hoàn thiện Dự thảo Đề án đến khi trình Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng sắp tới không còn nhiều, Chủ tịch nước đề nghị các thành viên Ban Chỉ đạo, nhất là Ban Nội chính Trung ương rà soát việc triển khai Kế hoạch để đôn đốc, thực hiện kịp thời và đảm bảo chất lượng các nhiệm vụ, trong đó cần phối hợp với Văn phòng Trung ương, Văn phòng Chủ tịch nước tổ chức 3 hội nghị ở 3 vùng cả nước để lấy ý kiến của các địa phương và cơ sở.

Chủ tịch nước đề nghị Ban Nội chính Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương thực hiện tốt công tác truyền thông để mọi tầng lớp nhân dân đều hiểu và có thể tham gia góp ý vào các vấn đề của Đề án.

 

MỤC ĐÍCH CHỐNG PHÁ CỦA THẾ LỰC THÙ ĐỊCH KÊU GỌI XÓA BỎ CÁC ĐIỀU LUẬT

 

Thời đại ngày nay, mọi quốc gia trên thế giới đều quản lý xã hội bằng pháp luật và các quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp luật theo tình hình, đặc điểm, điều kiện cụ thể. Điều đó thể hiện sự tiến bộ, văn minh của loài người.

Thế nhưng, hiện một số người, nhất là số cơ hội chính trị có quan hệ với các tổ chức thù địch, đối tượng phản động lưu vong, chống phá Nhà nước từ bên ngoài đang tìm cách đi ngược lại sự văn minh, tiến bộ xã hội. Các đối tượng tìm kiếm sự can thiệp từ bên ngoài nhằm kêu gọi xóa bỏ một số điều luật với các mục đích chính trị xấu.

Chẳng hạn, các đối tượng kêu gọi xóa bỏ một số điều luật được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi năm 2017), bao gồm một số điều luật thuộc nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia như: Điều 109 "Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân"; Điều 117 "Tội làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam". Hay như Điều 331 "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân" thuộc Chương XXII về các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính...

Thực chất, việc kêu gọi xóa bỏ các điều luật này xuất phát từ các đối tượng có âm mưu, hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Vậy, mục đích của các đối tượng kêu gọi xóa bỏ các điều luật này là gì?

Thứ nhất, các đối tượng đang muốn đưa mình thoát khỏi "vùng cấm" của luật pháp, muốn đứng ngoài vòng pháp luật để dễ bề hoạt động chống phá mà không bị chế tài pháp luật xử lý. Các đối tượng đang cố gắng tạo cho mình một vành đai an toàn, nằm trong "nhóm lợi ích" vượt ra ngoài sự quản lý của pháp luật để tiến hành các hoạt động chống phá Nhà nước như: Tuyên truyền chống Nhà nước; thành lập các tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng Cộng sản Việt Nam… mà không bị pháp luật cấm đoán.

Thứ hai, các đối tượng muốn gây sự chú ý từ bên trong lẫn bên ngoài, thông qua các hoạt động tuyên truyền kêu gọi, tẩy chay, đòi xóa bỏ các điều luật nhằm gây sự chú ý cho dư luận trong nước cũng như cộng đồng quốc tế, nhất là các tổ chức theo dõi nhân quyền, các cơ quan truyền thông thiếu thiện chí, thường xuyên có các bài viết chống phá Việt Nam như đài RFA, RFI... Các hoạt động kêu gọi nhằm đánh lạc hướng dư luận để tạo suy nghĩ rằng môi trường chính trị của Việt Nam đang "rối ren"; tâm lý người dân bất ổn, hoang mang, qua đó hòng tạo áp lực dư luận để đòi hỏi phải thay đổi các quy định hoặc xóa bỏ các điều luật này.

Thứ ba, tất cả các hoạt động kêu gọi xóa bỏ các quy định của điều luật trên không nằm ngoài âm mưu tạo ra môi trường thuận lợi để tiến hành các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, mục đích hướng đến là thay đổi nhận thức của đông đảo quần chúng toàn xã hội, tiến tới xóa bỏ, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc kêu gọi xóa bỏ một số điều luật trong Bộ luật Hình sự Việt Nam nhằm xuyên tạc, vu khống, hạ bệ hình ảnh Việt Nam, cho rằng chúng ta vi phạm dân chủ, nhân quyền; vu cáo nhà nước sử dụng các điều luật này để "bóp nghẹt" quyền tự do dân chủ, các quyền căn bản của công dân được Hiến định.

Các đối tượng chống phá muốn xóa bỏ các điều luật nói trên đều nằm trong âm mưu, ý đồ hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và đây không phải là thủ đoạn mới. Các Bộ luật Hình sự trước đây khi ban hành và thực thi thì các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động cũng tìm cách đả phá, đòi huỷ bỏ những điều luật mà họ cho rằng "lạc hậu", "trói cột", "bịt miệng"…

Thực tế, không phải vì nhận thức thiếu hiểu biết dẫn tới phạm pháp mà hầu hết các đối tượng đều hiểu rõ những hành động của mình là trái với quy định của pháp luật, là phạm tội, nhưng với các động cơ khác nhau, họ vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Thậm chí không ít đối tượng dù bị cơ quan chức năng nhiều lần cảnh cáo, nhắc nhở hay xử phạt hành chính, xử lý hình sự nhưng sau đó vẫn bất chấp, cố tình thực hiện hành vi, thách thức pháp luật. Do đó, việc xử phạt với các điều khoản tương ứng hành vi, tính chất phạm tội là việc làm đương nhiên của cơ quan bảo vệ pháp luật. Điều đó càng cho thấy sự nghiêm minh của pháp luật và việc xử lý đó được cộng đồng xã hội đồng tình ủng hộ (ngoại trừ các phần tử tham gia các tổ chức phản động, chống phá Nhà nước).

Một nguyên tắc trong xây dựng nhà nước pháp quyền là phải thượng tôn pháp luật, không ai có thể đứng ngoài pháp luật. Dù là ai, vị trí nào, gia thế ra sao thì khi vi phạm đều xử lý bình đẳng và pháp luật hình sự cũng quy định rõ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, những ai chủ mưu, cầm đầu, cố tình thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, phạm tội nhiều lần, tái phạm nguy hiểm… thì sẽ bị tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngược lại, những ai vì nhận thức thấp kém, phạm tội do bị rủ rê, lôi kéo; biết ăn năn, hối lỗi, thành khẩn khai báo… thì được giảm nhẹ hình phạt. Khi xét xử, luận tội, toà án xem xét công và tội rõ ràng, công minh.

Việc điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo tuân thủ theo quy định của Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự, quá trình xét xử đảm bảo việc tranh tụng dân chủ trước toà. Các vụ án xét xử bị cáo theo các tội danh mà các đối tượng thường xuyên có hoạt động kêu gọi xóa bỏ như Điều 109, Điều 117, Điều 331 Bộ luật Hình sự cũng đảm bảo theo quy định, nguyên tắc đó. Các hoạt động tố tụng đều thực hiện theo các trình tự, thủ tục được luật pháp quy định, thể hiện sự công khai, minh bạch, trách nhiệm trong các hoạt động công tố và các bản án được xem xét khách quan, người dân ủng hộ, điều này cũng góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

NÓI VỀ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN MỸ KHÔNG ĐỦ TƯ CÁCH NÓI CHUYỆN VỚI VIỆT NAM!

     Nguyên chủ tịch nước Nguyện Minh Triết “Thưa bà, nếu nói về dân chủ, nhân quyền, Mỹ không đủ tư cách nói chuyện với Việt Nam đâu”.
     Nhân Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi thăm chính thức Đài Loan, mình đăng lại câu chuyện "Bà Chủ tịch Hạ viện Mỹ Pelosi và Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết".
     Sau khi Mỹ và Việt Nam chính thức nối lại bang giao, nhiều người phía Mỹ vẫn mạnh mẽ chống đối Việt Nam. Khi nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết qua Mỹ vẫn còn gặp khó khăn, họ thiết kế một chương trình tiếp xúc, cuộc gặp gỡ đầu tiên với - Chủ tịch Hạ viện Mỹ, bà Nancy Pelosi.
     Vào cuộc gặp, chưa kịp ngồi, bà Nancy Pelosi đã tuôn một tràng rằng, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Mỹ để cùng nhau phát triển. Nhưng Việt Nam cứ vi phạm dân chủ, vi phạm nhân quyền, làm những việc sai trái, Mỹ không thể chấp nhận.
     Chờ bà Nancy Pelosi nói xong, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Văn Triết mới nhỏ nhẹ đáp lại thẳng thắn: “Thưa bà, nếu nói về dân chủ, nhân quyền, Mỹ không đủ tư cách nói chuyện với Việt Nam đâu”.
     Nghe như vậy, bà Pelosi sửng sốt: “Thế là thế nào ?”.
     Nguyên Chủ tịch nước đanh thép trả lời: “Ngày trước, Mỹ mang bom đạn xâm lược Việt Nam, gây bao nhiêu mất mát, đau khổ cho Việt Nam, Việt Nam đã bỏ qua. Hôm nay, Việt Nam đã gác lại quá khứ, hướng đến tương lai. Còn hiện tại, Mỹ vẫn còn có quân ở Iraq, Afghanistan, ở nhiều nơi khác trên thế giới. Bom đạn vẫn còn nổ, máu vẫn còn đổ, người vẫn còn chết,… Mỹ cũng vi phạm dân chủ nhân quyền”.
     Bà Pelosi im lặng, nhưng ông trợ lý ngồi bên cạnh liền cầm tấm ảnh chụp Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng đưa lên, rồi hỏi: “Ông có thấy tấm ảnh này không?”.
     Nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết bình tĩnh trả lời rằng: “Đây là việc làm sai trái của một cán bộ của chúng tôi và chúng tôi đã xử lý nghiêm khắc rồi. Nhưng các ông có biết, hôm đó, tại phiên tòa, ông Lý cũng buông những lời lẽ khó nghe như thế nào không? Vì những lời lẽ ấy nên cán bộ chúng tôi mới có vi phạm như thế. Nhưng dù gì đi nữa, cán bộ của chúng tôi sai, chúng tôi đã phải xử lý. Ngay tại Mỹ, cảnh sát Mỹ cũng sai phạm như đánh người, đánh dân, có những hành động sai trái trên đường phố. Tôi nghĩ rằng, sai trái này chỉ là cá biệt. Không phải là chủ trương của lãnh đạo, chúng ta phải xử lý, làm cho tốt hơn”.
     Sau cuộc gặp đó, mọi chuyện êm xuôi. Họ tiếp đoàn lãnh đạo cấp cao của Việt Nam rất nồng hậu. Đặc biệt, hôm gặp Tổng thống Mỹ G.Bush (con), ông ấy không đả động gì đến chuyện dân chủ, nhân quyền nữa. Cuộc trò chuyện diễn ra vui vẻ./.
Yêu nước ST.

Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

 

 
Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế đã đạt được nhất trí cao trong nhận thức và trong triển khai đường lối đổi mới ở nước ta. Về cơ bản, mối quan hệ đó là quan hệ nguyên nhân và kết quả và có tính bổ sung cho nhau, không triệt tiêu lẫn nhau, thể hiện qua một số khía cạnh chính sau: 
Thứ nhất, độc lập, tự chủ là điều kiện tiên quyết cho hội nhập quốc tế hiệu quả. Hiệu quả của hội nhập quốc tế được đo bằng mức độ đóng góp cho các mục tiêu độc lập tự chủ về an ninh, phát triển và vị thế của đất nước. Độc lập, tự chủ là cơ sở cơ bản để được cộng đồng quốc tế thừa nhận và bảo đảm cho hội nhập hiệu quả. 
Thứ hai, độc lập, tự chủ quyết định bước đi hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa quyết định chủ quan trước xu thế khách quan: trong khi toàn cầu hoá là khách quan, việc các nước quyết định mức độ, phạm vi và lộ trình hội nhập là thuộc yếu tố chủ quan nằm trong chủ quyền của từng nước. 
Thứ ba, hội nhập quốc tế có tác động trở lại đối với độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế không làm suy giảm độc lập, tự chủ nhưng làm thay đổi nội hàm và phương cách bảo đảm độc lập, tự chủ. Hội nhập quốc tế là quá trình “đánh đổi,” chuyển giao và tiếp nhận. Trong quá trình tham gia hội nhập quốc tế, các quốc gia chủ động và tự nguyện chuyển nhượng một phần quyền lực của mình cho thể chế hội nhập, cho thị trường. Đổi lại, quốc gia có quyền tham gia vào các quyết định ở tầm cao hơn, rộng hơn, trên quy mô khu vực và toàn cầu. Hội nhập quốc tế mang lại cho quốc gia vị thế mới, công cụ mới để giữ vững độc lập, tự chủ. 
Thứ tư, hội nhập quốc tế cũng tạo nên những thách thức mới đối với nhiệm vụ giữ vững độc lập, tự chủ và làm tăng sự lệ thuộc của quốc gia vào các nước khác, đồng thời tác động tới sự phân hoá xã hội của từng nước.
Từ mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế kể trên, có thể cho rằng càng hội nhập sâu rộng thì các phát triển mới trong khu vực và trên thế giới càng trực tiếp ảnh hưởng đến nước ta, từ đó tác động đến khả năng chúng ta độc lập và tự chủ xử lý công tác hội nhập. Các phát triển mới mang đến cả cơ hội và thách thức. Và đây là điều cần thống nhất trong nhận thức và trong hành động. 

Chủ động xây dựng cốt cán và người có uy tín trong các tầng lớp Nhân dân, đặc biệt ở vùng giáo, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng trọng điểm quốc phòng, an ninh

Công tác nắm tình hình Nhân dân, nắm tâm tư, nguyện vọng để tham mưu hoặc trực tiếp giải quyết là nhiệm vụ rất quan trọng. Để nắm chắc tình hình nhất là tình hình vùng đồng bào có đạo, dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn thì yêu cầu chính quyền, cán bộ, công chức, viên chức phải sâu sát cơ sở, gần gũi Nhân dân và quan tâm xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt. Để xây dựng lực lượng chính trị nòng cốt và người có uy tín thì từng cơ quan chức năng như công an, quân đội, cơ quan nội vụ, trực tiếp là Ban Tôn giáo, Ban Dân tộc phải có phương pháp phù hợp, hiệu quả đối với đặc điểm từng vùng, miền khác nhau trong cả nước. Địa phương nào mà chính quyền xây dựng được lực lượng chính trị nòng cốt và có cơ chế để các lực lượng này phối hợp chặt chẽ với nhau thì việc nắm thông tin, chất lượng công tác tham mưu cho chính quyền sẽ hiệu quả hơn. Đó cũng là biện pháp phòng ngừa phát sinh khiếu kiện đông người, phát sinh điểm nóng một cách chủ động nhất, kịp thời nhất.

Định hình khung lý thuyết và phương pháp khoa học phục vụ cho hoạt động tổng kết thực tiễn.

  Khung lý thuyết cho tổng kết thực tiễn phải làm rõ khách thể, đối tượng, chủ thể, nội dung, lực lượng tham gia tổng kết thực tiễn; mối quan hệ giữa tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, với nghiên cứu khoa học, với chỉ đạo điều hành; các phương pháp sử dụng tổng kết thực tiễn,.... Phải định hình được các phương pháp và kỹ năng tổng kết thực tiễn, giúp cán bộ nắm bắt được thuộc tính, bản chất các sự vật, hiện tượng; cách thức sử dụng kinh nghiệm phục vụ trực tiếp cho chỉ đạo, điều hành; con đường và cách thức tri thức hóa các kinh nghiệm. Khi đã định hình được khung lý thuyết và phương pháp luận, cần chuyển hóa vào quá trình đào tạo được lồng ghép trong chương trình trung cấp, cao cấp lý luận chính trị hoặc tổ chức tập huấn chuyển giao cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Trang bị khung lý thuyết và phương pháp tổng kết thực tiễn phải đi đôi với trang bị phương pháp đánh giá chính sách, xem xét quá trình vận động từ lý luận thông qua chính sách để thâm nhập vào thực tiễn. Chính sách là hình thức trung gian giữa lý luận và thực tiễn, không ít quan điểm, đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng khó đi vào cuộc sống hay bị lệch lạc trong “vận dụng” không hẳn do chỉ đạo thực hiện, mà do khâu thể chế hóa thành chính sách.

Tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn cho cấp ủy các cấp và xây dựng đội ngũ chuyên gia làm nòng cốt trong tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận.

Tổng kết thực tiễn trước hết là trách nhiệm của cấp ủy các cấp, cho nên, mỗi cấp ủy viên phải được tăng cường năng lực tổng kết thực tiễn, định hình ý thức thường trực về nhiệm vụ tổng kết thực tiễn gắn với nâng cao trình độ lý luận. Cấp ủy viên muốn lãnh đạo tốt thì phải có năng lực tư duy lý luận và năng lực tổng kết thực tiễn. Hai mặt này có quan hệ biện chứng với nhau. Có tư duy lý luận thì mới sử dụng tri thức kinh nghiệm đúng đắn, phù hợp, sửa chữa bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa. Sử dụng tri thức kinh nghiệm phù hợp là cách thức để rút ngắn khoảng cách giữa lý luận với thực tế, để vận dụng lý luận không tùy tiện, thậm chí loại trừ những giải pháp không phù hợp mà tư duy lý luận xơ cứng đề xuất. Tuy nhiên, để công tác tổng kết thực tiễn được tiến hành một cách chuyên nghiệp, cần phải xây dựng được đội ngũ chuyên gia nòng cốt. Đội ngũ đó thuộc các cơ cấu của hội đồng lý luận, các ban đảng từ Trung ương đến địa phương, phải có trình độ lý luận sâu sắc, am tường thực tiễn, thành thục về phương pháp và kỹ năng tổng kết thực tiễn. Cần tạo điều kiện để đội ngũ chuyên gia nòng cốt thường xuyên thâm nhập thực tiễn, tổng kết các mô hình, phong trào, tham gia đào tạo lý luận chính trị và định hình ý thức chủ động, tích cực về tổng kết thực tiễn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Có cơ chế, chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với đội ngũ chuyên gia nòng cốt để họ yên tâm công tác, trau dồi nghề nghiệp, dành tâm huyết cho nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Xây dựng hệ thống dữ liệu và trang bị các công cụ, phương tiện cần thiết để đội ngũ cán bộ chuyên trách nòng cốt thuận lợi trong tổng kết thực tiễn gắn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học

Đa dạng hóa phương thức tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học.

  Tổng kết thực tiễn khi trở thành chế độ bắt buộc như học tập, nghiên cứu lý luận, thì phương thức tổng kết thực tiễn cần phải đa dạng hóa. Tức là giúp cán bộ rèn luyện óc quan sát, điều tra, phân tích tình hình và tổng kết kinh nghiệm,... ở bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào nhằm tối ưu hóa khi vận dụng lý luận cũng như phát hiện tri thức mới để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng. Tổng kết thực tiễn lâu nay mới chủ yếu coi trọng phương thức gián tiếp thông qua thành lập ban chỉ đạo và tổ chức theo hệ thống dọc. Phương thức này rất cần thiết nhằm triển khai một đề án, nhiệm vụ tổng kết thực tiễn - lý luận cụ thể khi lý luận còn có độ trễ trước thực tiễn, đòi hỏi phải được bổ sung bằng chính dữ liệu của đời sống hay chu trình của một nghị quyết đủ niên độ thời gian (5 năm, 10 năm) phải tổng kết, đánh giá. Ngoài tổng kết theo phương thức gián tiếp thì còn có tổng kết theo phương thức trực tiếp, tức người lãnh đạo dành thời gian đi cơ sở để quan sát, điều tra, tổng kết các mô hình; nghiên cứu các nhân tố mới, gương điển hình tiên tiến (đơn vị anh hùng, cá nhân anh hùng, gương điển hình tiên tiến); tổng kết thực tiễn thông qua tham dự đào tạo lý luận chính trị. Nhờ tham dự trực tiếp mà cán bộ tổng kết được thực tiễn một cách chân thật, sâu sắc, như Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: “Muốn hiểu biết toàn bộ một sự vật, hiểu biết bản chất và quy luật nội bộ của nó, thì phải suy xét kỹ lưỡng, gom góp những cảm giác phong phú lại, rồi chọn lọc cái nào thật, cái nào giả, cái nào đúng, cái nào sai, từ ngoài đến trong, để tạo thành một hệ thống khái niệm lý luận. Đó là hiểu biết do thực hành mà có và được cải tạo trong thực hành. Hiểu biết ấy sâu sắc hơn, đúng hơn, phản ánh sự vật một cách hoàn toàn hơn”([4]). Để phương thức tổng kết trực tiếp có hiệu quả đòi hỏi phải định hình chế độ đi cơ sở của cán bộ lãnh đạo các cấp; hình thành  thói quen quan sát, điều tra, xem xét các tình huống trong thực tiễn, đặc biệt là phát hiện các mâu thuẫn và hướng giải quyết mâu thuẫn; xây dựng chế độ tham dự đào tạo lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo các cấp. Chế độ đi cơ sở giúp cán bộ có điều kiện nắm bắt thực tiễn, bổ sung dữ liệu thực tiễn cho những nhận thức còn chưa sáng rõ, đồng thời kiểm tra lý luận bằng thực tiễn. Các nhân tố mới, gương điển hình tiên tiến rất phong phú trong đời sống, gồm cả gương tập thể và cá nhân, cần phải được phân tích và đánh giá thấu đáo để phổ biến nhân rộng, bổ sung cho tri thức lý luận. Gương tiên tiến là bao hàm cả tư tưởng  tiên tiến, phong cách tiên tiến, cách làm tiên tiến. Đào tạo lý luận chính trị là một không gian tốt cho tổng kết thực tiễn trong môi trường học đường([5]), đặc biệt đối với các lớp có sự tham gia giảng dạy của cán bộ lãnh đạo cao cấp. Cần đổi mới phương pháp giảng dạy từ truyền thụ kiến thức một chiều sang khuyến khích tranh luận, phản hồi của người học, tăng độ tương tác giữa người học, nhờ đó sẽ thu được khối lượng tri thức thực tiễn nhất định ngay trên môi trường học đường. Người giảng viên với vốn tri thức lý luận của mình sẽ giúp người học có định hướng đúng trong sử dụng tri thức kinh nghiệm, sửa chữa căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa khi vận dụng lý luận vào thực tế.

Hoàn thiện các thể chế, cơ chế và điều kiện hóa cho tổng kết thực tiễn phục vụ nghiên cứu lý luận ở Việt Nam

 Đó là ban hành các thể chế xác định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của cấp ủy, cấp ủy viên, của cơ quan chuyên trách làm nòng cốt trong tổng kết thực tiễn ở mỗi cấp, mỗi ngành. Tổng kết thực tiễn phải được xây dựng thành chế độ bắt buộc đối với cán bộ, đảng viên; gắn liền với chế độ học tập, nâng cao trình độ lý luận; gắn với yêu cầu đưa cán bộ gần dân, bám sát thực tiễn. Rà soát, đánh giá lại các cơ chế tổng kết thực tiễn hiện có ở các cơ quan chuyên trách nòng cốt với sự phân tách hoạt động hành chính đảng với hoạt động chuyên môn nghiệp vụ phục vụ tổng kết thực tiễn ở các ban đảng. Các ban đảng là những cơ quan tham mưu của Đảng, có vai trò nòng cốt chuyên trách trong tổng kết thực tiễn, nhưng đến nay còn chưa tách biệt giữa hoạt động hành chính đảng với hoạt động nghiên cứu, tham mưu (bao gồm cả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, tham mưu đường lối, chủ trương) đòi hỏi phải có trình độ chuyên ngành, liên ngành và phương pháp tương ứng. Cơ chế hiện có  chưa giúp cán bộ tham mưu nâng cao trình độ lý luận, thiếu được trang bị các phương pháp, kỹ năng tổng kết thực tiễn, nên lúng túng khi triển khai một đề án tổng kết thực tiễn cụ thể. Cần phải hoàn thiện các chính sách liên quan, đặc biệt là bảo đảm nguồn lực, điều kiện, môi trường công tác cho các cơ quan, cán bộ  ra sức trau dồi đạo đức nghề nghiệp, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nhờ đó mà làm tròn vai trò chuyên trách nòng cốt trong tổng kết thực tiễn.


NÂNG CAO CẢNH GIÁC VỚI NHỮNG CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 

hững năm gần đây, sự phát triển của công nghệ thông tin và các ứng dụng trên không gian mạng đã làm thay đổi bộ mặt của xã hội. Lợi dụng sự phát triển nhanh chóng này mà các thế lực thù địch đã tăng cường các hoạt động tuyên truyền, phát tán nhiều thông tin sai trái, xấu, độc trên mạng xã hội nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Vì thế, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân hiện nay là cần phải tỉnh táo, nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong việc tiếp nhận thông tin nhất là trên các trang mạng xã hội như Facebook, Zalo,… để không rơi vào âm mưu tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng xã.

Hiện nay, mạng xã hội bùng nổ với số lượng người tham gia ngày càng lớn. Đặc biệt là các trang mạng như: Facebook, Zalo. Vì vậy, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các công cụ này để đẩy mạnh các hoạt động chống phá từ bên ngoài, tạo dựng lực lượng chống đối từ bên trong. Các phần tử phản động xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; thổi phồng những hạn chế, yếu kém trong quản lý, những sơ hở, thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong lĩnh vực dân tộc, tôn giáo. Đồng thời móc nối, cấu kết với những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, biến chất nhằm lôi kéo, mua chuộc, tạo lực lượng chống phá từ bên trong. Trong đó, số hoạt động ở nước ngoài chỉ đạo, hỗ trợ kinh phí hoạt động, các đối tượng trong nước tích cực tập hợp lực lượng, thu thập tin tức để cung cấp cho bên ngoài vu cáo, xuyên tạc tình hình đất nước. Lợi dụng internet, mạng xã hội để lan truyền các clip, tài liệu xuyên tạc, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và địa phương,... nhằm gây hoang mang, hoài nghi, suy giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

Trên địa bàn huyện Nam Trà My, trong thời gian qua lợi dụng tình hình chiến sự Nga - Ucraina diễn biến phức tạp, làm giá cả thị trường leo than, nhất là giá xăng dầu tăng cao; một số cán bộ, đảng viên cấp cao của Đảng bị bắt, khai trừ Đảng do liên quan đến công tác phòng, chống dịch Covid-19. Các thế lực thù địch, phản động lưu vong nước ngoài thường xuyên cập nhật thông tin, viết bài chia sẽ những hình ảnh về chiến sự Nga – Ucraina, sự ưu việc về chính sách của các nước phương tây, thiệt hại của người dân Ucraina, sự tàn phá của Nga liên quan đến dân thường,… hay làm nhiều phóng sự, video về những quan chức cấp cao của Đảng suy thoái, biến chất vì tham nhũng, một số nội dung liên quan đến tôn giáo, dân chủ, đăng lên Youtube, Facebook, Zalo,… với mục đích lôi kéo cán bộ, đảng viên, nhân dân xem, thích, bình luận, chia sẻ, gây rối loạn thông tin, tạo tâm lý hoang mang, ngờ vực trong cán bộ, đảng viên, nhân dân về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hầu hết thông tin được đăng tải sai sự thật, pha lẫn với một số sai phạm của một số cán bộ, đảng viên nên cán bộ, đảng viên, người dân khi cập nhật thông tin, không sáng suốt, không có lập trường, quan điểm vững vàng sẽ rơi vào âm mưu chống phá của bọn chúng.

 Để làm tốt nhiệm vụ đấu tranh chống lại các luận điệu sai trái, các quan điểm xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, của các thế lực phản động trong và ngoài nước trên mạng xã hội, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần nâng cao khả năng nhận diện với các thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội. Đồng thời, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng; có ý thức cảnh giác, không đăng tải hoặc để lộ, lọt thông tin, tài liệu liên quan đến bí mật quốc gia…. Phát hiện kịp thời âm mưu, thủ đoạn, phương thức hoạt động của các thế lực thù địch trên không gian mạng, chỉ cập nhật những thông tin chính thống, không xem và chia sẻ những thông tin chưa được kiểm chứng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình,… không để đồng nghiệp, người nhà của mình bị lôi kéo, dụ dỗ mà cố ý hoặc vô tình ủng hộ, chia sẻ, lan truyền những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức cần sử dụng trang mạng xã hội như một kênh thông tin, tuyên truyền những thông tin chính thống về chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ các bài viết về những điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện các phong trào thi đua yêu nước.

Đấu tranh phòng, chống hoạt động lợi dụng internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài. Vì vậy, hơn bao giờ hết, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức cần phải tỉnh táo, sáng suốt trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình; phải luôn xây dựng khối đại đoàn kết ngày càng vững mạnh, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để ngăn chặn, đẩy lùi những thông tin sai lệch trên không gian mạng.

GIÁ TRỊ KHOA HỌC TRONG NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TA!

         Đối với cách mạng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. 
     Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp sáng tạo giữa nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và thực tiễn sinh động, lịch sử cụ thể của Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


Môi trường ST.

Đập tan âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an của các thế lực thù địch

 

Hiện nay, Trên các phương tiện thông tin, nhất là mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội chính trị tung ra đủ mọi “lý lẽ”, “cơ sở” của việc đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang. Chúng kết hợp bên trong với bên ngoài, tập trung tiến công trực diện vào những quan điểm cơ bản của chúng ta về chính trị của lực lượng vũ trang, của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Chúng giương lên ngọn cờ: bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", yêu cầu cần phải "bỏ hẳn cách hiểu lực lượng vũ trang chỉ cần trung thành với Đảng Cộng sản và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa"!

Với những luận điệu ru ngủ, Các thế lực thù địch, phản động cho rằng: Trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam có một truyền thống oai hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, của đất nước, đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân trong nhiều thập kỷ qua của lịch sử Việt Nam hiện đại; có quan hệ mật thiết với nhân dân, là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ đó, chúng đặt vấn đề lực lượng vũ trang “chỉ là của dân tộc”, “của đất nước”, “của nhân dân” là “phù hợp”, chứ không cần phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào! Trơ tráo hơn, chúng còn phủ nhận tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về quân sự, quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, hòng tạo cơ sở cho việc đòi “phi chính trị hóa” Quân đội và Công an nhân dân. Chúng tập trung công kích nguyên tắc Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với LLVT; cho rằng nguyên tắc đó thể hiện Đảng tự cho mình quyền đứng trên xã hội, trên luật pháp, bởi LLVT là để “bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, Đảng chỉ là một bộ phận của xã hội, sao lại giành “độc quyền lãnh đạo” cho riêng mình!

Luận điệu trên tưởng như là khách quan, không chính trị, không giai cấp, nhưng lại nằm trong âm mưu “phi chính trị hóa” QĐND và CAND của các thế lực thù địch, thực chất là nhằm lái chính trị của lực lượng vũ trang sang chính trị tư sản. Bằng quan điểm đó, chúng đã khéo léo đi đến nhằm loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với QĐND và CAND, xóa nhòa bản chất chính trị giai cấp, tiến tới làm biến chất Quân đội nhân dân và Công an nhân dân Việt Nam.

Thực chất của luận điệu xuyên tạc đó là nhằm tách QĐND và CAND ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng; đồng thời, kích động tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, chúng ra sức phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới đất nước,… hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ mất lòng tin vào nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo khoảng trống về tư tưởng – lý luận, để luồn lách quan điểm, lập trường giai cấp tư sản.

Đây là luận điệu đặc biệt nguy hiểm; thực sự phản động về chính trị và phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Nhưng lại rất dễ làm cho chúng ta lầm tưởng rằng, các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết và những lý lẽ, lời “khuyên nhủ” của chúng là hợp lý, khách quan đúng với thực tiễn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

Không thể nói rằng, lực lượng vũ trang là "của nhân dân, của dân tộc” một cách chung chung, không cần sự lãnh đạo của một đảng phái, lực lượng chính trị nào. Lịch sử phát triển của nhân loại từ khi có giai cấp, nhà nước đến nay cho thấy, không bao giờ có cái gọi là lực lượng vũ trang “trung lập về chính trị”, "đứng ngoài chính trị", "phi giai cấp", "không can dự vào chính trị"… Quân đội, công an luôn gắn chặt với giai cấp, nhà nước sinh ra nó và mang bản chất giai cấp sâu sắc. Vì thế, không thể có và không bao giờ có lực lượng vũ trang “phi giai cấp”, “siêu giai cấp”, “phi chính trị”, “đứng ngoài chính trị”. V.I.Lê-nin đã vạch rõ bản chất phản động của luận điệu lực lượng vũ trang “đứng ngoài chính trị”, coi đó là “cái giáo lý tầm thường”, “giả nhân, giả nghĩa và dối trá”; và Người đã khẳng định một cách dứt khoát: Không thể có quân đội, công an “trung lập về chính trị”. Vì thế, mọi luận điệu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang thực chất chỉ là chiêu trò lừa bịp những ai nhẹ dạ, cả tin, ấu trĩ về chính trị mà thôi.

Từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập, giáo dục, rèn luyện các Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, lấy QĐND và CAND làm nòng cốt. Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với QĐND và CAND. Vì vậy, lực lượng vũ trang mang bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Đảng ta luôn quan tâm chăm lo xây dựng QĐND và CAND theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,” lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của lực lượng QĐND, CAND, đủ sức hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội trong mọi điều kiện, tình huống.

Tuy nhiên, đến nay vẫn có không ít người thiếu tỉnh táo đã cổ súy một cách mê muội cho những luận điệu đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang mà các thế lực thù địch rao giảng và được một số hãng truyền thông phương Tây như: VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ cơ hội chính trị, phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng tung hô, cổ vũ nhiệt thành đã ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp xây dựng QĐND và CAND, đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, cần phải bác bỏ.

Mọi luận điệu cổ súy cho quan điểm “lực lượng vũ trang phải trung lập về chính trị”, đòi bỏ quy định sự trung thành của lực lượng vũ trang đối với Đảng Cộng sản Việt Nam… Đó chính là những cái bẫy “phi chính trị hóa” hết sức tinh vi và thâm hiểm của các thế lực thù địch. Bài học đắt giá về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu; và gần đây là những sự kiện ở bất ổn chính trị - xã hội liên miên, kéo dài làm suy yếu đất nước đang diễn ra ở một số nước châu Á, châu Âu và hàng loạt nước theo thể chế đa nguyên, đa đảng ở Trung Đông, Bắc Phi, khiến chúng ta phải hết sức cảnh giác, không mắc mưu trước những chiêu trò “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch, tập trung chăm lo xây dựng các tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện lệch lạc về chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang; tiếp tục quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện tốt Chỉ thị 05CT/TW của Bộ chính trị khóa XII về: “Học tập tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh”. Qua đó, xây dựng tổ chức đảng các cấp trong lực lượng vũ trang thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống./.


Những thách thức đối với Nato

Một trong những điểm nhấn quan trọng của hội nghị thượng đỉnh NATO vừa diễn ra chính là việc đưa ra "Khái niệm chiến lược" mới, đánh dấu sự chuyển đổi để thích ứng với bối cảnh địa chính trị mới. Đây là tài liệu quan trọng, xác định các giá trị và mục tiêu của liên minh quân sự, đồng thời định hướng các nhiệm vụ ưu tiên liên quan đến vấn đề an ninh và giải quyết những thách thức mà  NATO phải đối mặt

Được cập nhật khoảng 10 năm một lần, “Khái niệm chiến lược” của NATO là "kim chỉ nam" cho chính sách quốc phòng của từng nước thành viên. Trong “Khái niệm chiến lược” năm 2010, hiện đã hoàn toàn lỗi thời, NATO xác định "mở rộng vòng tay" với Nga, coi Moskva là “đối tác chiến lược”, trong khi kẻ thù giả định của khối này là chủ nghĩa khủng bố. Chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine đã làm thay đổi tất cả, khiến các nước thành viên trở nên đồng thuận hơn trong việc định nghĩa “mối đe dọa Nga”.
Tuy nhiên, sau nhiều năm “hòa bình ở châu Âu”, xung đột tại Ukraine đã khiến khái niệm “phòng thủ tập thể” có cơ hội một lần nữa trở thành sứ mệnh tồn tại của NATO. Ngoài việc giữ nguyên mục tiêu chống khủng bố, NATO muốn một chiến lược phòng thủ và răn đe mới có tính đến các mối đe dọa hỗn hợp và không gian mạng như đã thấy tại chiến trường Ukraine.
Theo Khái niệm chiến lược mới, lần đầu tiên sau hơn 10 năm, NATO chính thức thay đổi quan điểm với Nga, chuyển từ xem Nga là "đối tác chiến lược" trở thành "mối đe dọa lớn nhất, trực tiếp nhất". Tuy nhiên NATO khẳng định không tìm kiếm sự đối đầu với Nga.
Còn đối với Trung Quốc, lần đầu tiên nước này cũng trở thành một chủ đề chính thức trong khái niệm Chiến lược mới của NATO. NATO coi Trung Quốc là “thách thức hệ thống” lâu dài đối với liên minh. Tổng Thư ký Stoltenberg đã từng khẳng định “ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc đang định hình lại thế giới". Việc NATO đề cập đến Trung Quốc trong chiến lược mới được coi là bước đi mang tính “thực tế”, thừa nhận rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc không còn có thể bị bỏ qua.
Và hội nghị lần này cũng lần đầu tiên đánh dấu việc các đối tác Australia, New Zealand, Hàn Quốc và Nhật Bản có mặt tại một hội nghị cấp cao nhất của NATO, cho thấy rõ sự thay đổi nhận thức của khối trong việc mở rộng ảnh hưởng về phía Đông để ứng phó với các thách thức mới.
Theo các nhà phân tích, việc NATO đưa ra chiến lược mới xuất phát từ những thay đổi lớn trong cấu trúc an ninh khu vực và thế giới thời gian gần đây, đòi hỏi NATO phải có những thay đổi tương ứng cả về định hướng chiến lược và tư duy hành động, thể hiện rõ qua việc kết nạp các thành viên mới và tạo lập mối liên kết với các quốc gia ở Châu Á-Thái Bình Dương như New Zealands, Nhật Bản, Hàn Quốc. Khái niệm Chiến lược mới cho thấy tham vọng của NATO trở thành một liên minh toàn cầu đối phó với các thách thức mới trong thế kỷ XXI.
  Tuy nhiên giới phân tích cũng nhận định thách thức sẽ ngày càng gia tăng đối với từng mục tiêu mà liên minh NATO đề ra.
Chẳng hạn như việc mở rộng của NATO được nhận định sẽ tạo thêm đối đầu và xung đột. Thực tế với 5 lần mở rộng về phía Đông của NATO trong lịch sử, đến nay đã gây ra sự phản đối từ phía Nga và là một phần nguồn cơn gây ra “cuộc chiến” trong lòng châu Âu. Một trong những căn nguyên khiến Nga tiến hành chiến dịch quân sự đặc biệt nhằm vào Ukraine từ tháng 2/2022 đến nay là do Kiev mong muốn gia nhập NATO, dấy lên quan ngại làm mất bảo đảm an ninh của Moskva. Mặc dù cuộc xung đột Ukraine mang lại cho phương Tây động lực để gắn kết lợi ích nhưng gần đây đã có dấu hiệu cho thấy sự đoàn kết của các nước phương Tây đang đối mặt với thách thức lớn. Hơn 100 ngày sau chiến dịch quân sự của Nga, tình hình chiến trường thay đổi với việc Ukraine mất thêm nhiều vùng đất. Châu Âu phải gánh chịu hậu quả từ chính các lệnh trừng phạt của mình nhằm vào Nga, đã có nhiều tiếng nói trên truyền thông phương Tây thể hiện sự mệt mỏi với xung đột… Thậm chí, khi mà các nhà lãnh đạo NATO vẫn đang tham dự hôi nghị thượng đỉnh tại Madrid vào tuần trước thì ở bên ngoài, những cuộc biểu tình ở Tây Ban Nha, Đức và Canada đã diễn ra. Người biểu tình kêu gọi hòa bình và họ tin rằng, sự mở rộng của NATO sẽ không bao giờ mang lại hòa bình cho thế giới.

Xác định chiến lược mới của NaTo

  

Ngày 28 đến 30/6, Hội nghị thượng đỉnh Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) đã diễn ra tại Madrid, Tây Ban Nha với sự tham dự của lãnh đạo các nước thành viên. Hội nghị lần này được coi là sự kiện mang tính bước ngoặt của khối với nhiều quyết sách quan trọng được thông qua, trong đó thống nhất về khái niệm chiến lược mới, cải tổ lực lượng phản ứng nhanh và nhất trí mời Thụy Điển và Phần Lan gia nhập liên minh quân sự này.
Tuyên bố chung gồm 22 điều, nhấn mạnh mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương, vai trò của phòng thủ tập thể, củng cố liên minh và gia tăng tốc độ thích ứng với những thay đổi trong môi trường an ninh thế giới. 
Một số điểm quan trọng trong tuyên bố chung bao gồm việc xác nhận một Khái niệm chiến lược mới, trong đó xác định một số mối đe dọa đối với NATO, bao gồm cả đe dọa từ không gian vũ trụ và trên không gian mạng, khẳng định sẽ tăng cường khả năng răn đe và phòng thủ, khả năng tự cường của NATO thông qua các hoạt động như đảm bảo chi tiêu quốc phòng quy ước của các nước thành viên, tăng cường diễn tập phòng thủ tập thể, gia tăng khả năng tương tác và sử dụng hiệu quả các công cụ chính trị và quân sự và đảm bảo an ninh năng lượng của các nước thành viên.
Song song với đó, NATO quyết định tăng lực lượng ở trạng thái sẵn sàng cao lên mức hơn 300.000 quân. Lực lượng phản ứng nhanh của NATO là sự kết hợp của các khí tài trên bộ, trên biển và trên không được thiết kế để triển khai nhanh chóng trong trường hợp bị tấn công. Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg cho biết “bản thiết kế quân sự mới” này sẽ “nâng cấp mạnh mẽ” hệ thống phòng thủ phía Đông của khối.  Theo đó, NATO sẽ nâng các nhóm tác chiến ở sườn phía Đông lên cấp độ lữ đoàn hoặc sư đoàn. Hiện tại, khối này đang duy trì 8 nhóm đồn trú tại Litva, Estonia, Latvia, Ba Lan, Romania, Hungary, Slovakia và Bulgaria cùng với nhiều vũ khí hạng nặng mới được bổ sung trong thời gian diễn ra xung đột Nga-Ukraine.
Ngoài ra, vấn đề mở rộng liên minh được dư luận quốc tế đặc biệt quan tâm trong hội nghị cấp cao lần này của NATO. Trong tuyên bố chính thức đưa ra tại hội nghị ở Madrid (Tây Ban Nha), các nhà lãnh đạo NATO quyết định mời Phần Lan và Thụy Ðiển gia nhập liên minh. NATO tái khẳng định cam kết đối với Chính sách mở cửa và quyết định mời hai quốc gia này trở thành thành viên của NATO và nhất trí ký các nghị định thư gia nhập vào ngày 5/7 tới. NATO cũng hoan nghênh việc ký kết biên bản ghi nhớ ba bên giữa Thổ Nhĩ Kỳ, Phần Lan và Thụy Điển. Tuy nhiên quyết định kết nạp Phần Lan và Thụy Điển vẫn cần được Quốc hội của 30 nước thành viên NATO thông qua và Tổng thư ký Jens Stoltenberg cho biết quá trình này sẽ được đẩy nhanh hơn bình thường.
Các nhà lãnh đạo các nước thành viên cũng đồng ý đầu tư nhiều hơn cho NATO và tăng nguồn tài trợ chung. Một quỹ đổi mới NATO trị giá 1 tỷ USD đã được nhất trí thành lập tại hội nghị. Tổng Thư ký NATO cho biết, 9 trong số 30 quốc gia thành viên đã đạt hoặc vượt mục tiêu chi 2% GDP hằng năm cho quốc phòng và các thành viên khác cũng xây dựng kế hoạch rõ ràng để đạt mục tiêu này vào năm 2024.
Cũng tại hội nghị thượng đỉnh lần này, NATO cam kết sẽ giúp đỡ Ukraine và đồng ý về một gói hỗ trợ mới nhằm hiện đại hóa lĩnh vực quốc phòng của nước này.
Trong buổi họp báo ngay sau lễ bế mạc hội nghị, Tổng Thư ký NATO Stoltenberg tuyên bố, NATO vừa kết thúc một hội nghị cấp cao lịch sử mang tính chuyển đổi, với những quyết định sâu rộng nhằm củng cố khối đồng minh. Tổng Thư ký Stoltenberg nhấn mạnh, các quyết định được đưa ra tại Madrid sẽ bảo đảm để NATO, liên minh quân sự 73 năm tuổi, tiếp tục giữ gìn hòa bình, ngăn ngừa xung đột, bảo vệ người dân và các giá trị của khối.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận

 Công tác lý luận bao gồm các hoạt động nghiên cứu, phát triển lý luận, cung cấp những luận cứ khoa học cho việc hoạch định và cụ thể hóa đường lối; và các hoạt động truyền bá lý luận, đưa lý luận và cuộc sống, nhằm nâng cao trình độ lý luận, giác ngộ chính trị, xây dựng phương pháp tư duy khoa học cho các đối tượng. Đây là mặt công tác quan trọng hàng đầu trong công tác tư tưởng, giữ vai trò quyết định trên mặt trận tư tưởng. Thực tế cho thấy, chỉ làm tốt công tác lý luận mới đảm bảo cho Đảng giữ vững và không ngừng nâng cao bản chất giai cấp công nhân (GCCN), tính tiền phong, năng lực lãnh đạo chính trị đối với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Công tác lý luận là trách nhiệm và hoạt động của toàn Đảng, nhưng trước hết và chủ yếu thuộc về cấp chiến lược. Đảng tiên phong trước hết là tiên phong về lý luận.

Nhiệm vụ của công tác lý luận: Một là, tổng kết thực tiễn; Hai là, phát triển lý luận. Hai mặt này gắn liền với nhau và là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác tư tưởng. Sự chậm trễ hoặc phạm sai lầm trong công tác lý luận là nguyên nhân cơ bản gây nên tình trạng dao động, không thống nhất về chính trị, tư tưởng, dẫn Đảng tới nguy cơ sai lầm về đường lối, chủ trương, dẫn đến mất vai trò lãnh đạo. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu càng đòi hỏi công tác lý luận phải được tăng cường, đẩy mạnh. Đại hội IX của ĐCS Việt Nam đã chỉ ra: phải “đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn; từng bước cụ thể hóa, bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng; đấu tranh với những khuynh hướng, tư tưởng sai trái”(2). Nghị quyết số 16/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước yêu cầu mới; Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17-4-2009 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, khóa X về tăng cường công tác đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; nghị quyết Đại hội Đảng qua các thời kỳ... Trong đó, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã khẳng định: “Đấu tranh, phản bác có hiệu quả đối với các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị chống phá Ðảng, Nhà nước và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, trong đó xác định một trong sáu quan điểm chỉ đạo là: “Bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân”.  ĐCS Việt Nam luôn xác định công tác lý luận là một trong những hoạt động quan trọng hàng đầu của Đảng, là một trong những nội dung quan trọng của công tác lãnh đạo và là phương thức lãnh đạo chủ yếu của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cách mạng.

Mục tiêu của công tác lý luận là vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể hiện nay của Việt Nam để xây dựng cơ sở lý luận cho đường lối cách mạng của Đảng; phổ biến, truyền bá lý luận, quan điểm, đường lối của Đảng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân; cổ vũ, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia công cuộc đổi mới, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng lãnh đạo.

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng, công tác lý luận là một nội dung trọng yếu, nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên sự thống nhất, đoàn kết trong Đảng. Công tác lý luận góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. ĐCS Việt Nam xác định công tác lý luận là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Đảng, đóng vai trò quyết định trong việc bảo vệ, phát triển và củng cố niềm tin khoa học vào chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng; làm cho hệ tư tưởng của Đảng, lý tưởng XHCN giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; gìn giữ, kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa thế giới. Công tác lý luận giúp bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ, tuyên truyền, giáo dục, động viên lực lượng và tổ chức nhân dân thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, nâng cao vai trò tiên phong của Đảng về chính trị, lý luận, tư tưởng, trí tuệ, văn hóa và đạo đức. Công tác lý luận có vai trò đi trước, mở đường trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác lý luận phải góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phê phán các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá, nhất là âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, củng cố và phát huy sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định cho sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển bền vững đất nước. Trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, công tác lý luận luôn được coi trọng và tăng cường, góp phần tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức về nội dung, con đường đi lên CNXH ở nước ta đã ngày càng rõ hơn, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao uy tín và vị thế quốc tế của đất nước(3)...

Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác lý luận của Đảng. Từ khi thành lập đến nay, cùng với việc xây dựng và tổ chức thực hiện đường lối chính trị, Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch; ngày càng chú trọng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện nhiệm vụ quan trọng này. Đảng ta luôn nhấn mạnh vị trí, vai trò của công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, coi đó là một bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.

Chủ thể, lực lượng tham gia: Công tác lý luận phải gắn bó chặt chẽ với công tác tổ chức, cán bộ và phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân; phải tiến hành đồng thời với việc thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng; nói đi đôi với làm. Cần hết sức coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu để bổ sung và phát triển lý luận, góp phần xây dựng, hoàn thiện đường lối, chính sách. Thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức tiến hành công tác tư tưởng, lý luận đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác lý luận là nhiệm vụ của toàn Đảng, của tất cả đảng viên, trước hết là cấp ủy, bí thư cấp ủy các cấp; của cả hệ thống chính trị với sự tham gia tích cực của nhân dân, trong đó lực lượng nòng cốt là đội ngũ chuyên trách làm công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ quan trọng bảo vệ trận địa tư tưởng của Đảng, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng, vì vậy, cần huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị; việc tổ chức đấu tranh cần được chuẩn bị kỹ, chặt chẽ, khoa học và quyết tâm cao. Tất cả các cơ quan tư tưởng, thông tin, tuyên truyền, báo chí là lực lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ này. Người đứng đầu cấp ủy phải là người tổ chức cuộc đấu tranh. Cần huy động một đội ngũ chuyên gia giỏi, tâm huyết tham gia cuộc đấu tranh. Cần thường xuyên sơ kết, rút kinh nghiệm, biểu dương những cơ quan, những người làm tốt nhiệm vụ.

Tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; phê phán, phản bác có hiệu quả các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị. Đa dạng hóa các hình thức đấu tranh trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc; mềm dẻo, linh hoạt trong phương pháp; công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận. Đối thoại, trao đổi với những người có ý kiến khác trên tinh thần khoa học, dân chủ, xây dựng và thuyết phục. Phát huy vai trò và trách nhiệm của các phương tiện truyền thông đại chúng, các diễn đàn khoa học vì sự phát triển ổn định, bền vững của đất nước, vì lợi ích của nhân dân và sự vững vàng của chế độ.

Vai trò bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận:  Cuộc đấu tranh trên lĩnh vực lý luận có vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và sự phát triển của đất nước. Cuộc đấu tranh đó không chỉ có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân (GCCN) trước sự tấn công, chống phá của kẻ thù giai cấp, mà còn bảo vệ độc lập dân tộc. Đồng thời, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng còn có nhiệm vụ vô cùng quan trọng là góp phần bổ sung, hoàn thiện và phát triển lý luận, học thuyết cách mạng của GCCN trước sự vận động, biến đổi của lịch sử nhân loại, cũng như của bản thân giai GCCN và các lực lượng xã hội khác. Bởi vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận là một sự phân tích, phê phán mácxít nghiêm túc luôn đòi hỏi công tác lý luận có một thái độ đối xử có phân biệt, thích hợp trong mọi trường hợp cụ thể, đối với các đại biểu cụ thể của các trường phái tư tưởng triết học, xã hội học tư sản hiện nay. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận còn có vai trò hết sức quan trọng là định hướng hệ giá trị tư tưởng cho các lực lượng, tầng lớp trong xã hội nước ta, đồng thời góp phần tập hợp lực lượng nhằm thực hiện mục tiêu là xây dựng thành công CNXH.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận hiện nay có một số đặc điểm mới. Một là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận trước sự thay đổi về tương quan giữa các đối thủ chủ yếu trong cuộc đấu tranh ý thức hệ hiện nay; Hai là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận trong kỷ nguyên toàn cầu hóa sôi động và Cách mạng công nghiệp 4.0;  Ba là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong cuộc đấu tranh hiện nay;  Bốn là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận ngày càng gay gắt, phức tạp với những hình thức biểu hiện mới.

Nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực lý luận phải kịp thời, kiên quyết, kiên trì, sắc bén, có căn cứ khoa học, có sức thuyết phục; không áp đặt, võ đoán, quy kết, định kiến. Cuộc đấu tranh này phải được triển khai sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với nội dung phong phú, phù hợp với từng đối tượng.  Để cuộc đấu tranh này có hiệu quả, cần nắm vững và thực hiện tốt các quan điểm. Một là, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng phải đi đôi với phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Hai là, kết hợp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch với đấu tranh chống suy thoái và tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phòng, chống tham nhũng, nêu cao vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là của người đứng đầu; Ba là, kết hợp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc với đấu tranh chống bảo thủ, giáo điều, cực đoan, duy ý chí với khắc phục hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; Bốn là, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng, Nhà nước, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng làm công tác tư tưởng, lý luận, báo chí là nòng cốt, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các cấp ủy đảng, sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội;  Năm là, giữ vững trận địa tư tưởng, nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Triển khai tích cực, kiên quyết, thường xuyên, liên tục với quyết tâm chính trị cao, phương pháp khoa học, có sức thuyết phục cao, sức lan tỏa sâu rộng.


Các tác động của thách thức an ninh phi truyền thống đến các quốc gia

 Các thách thức an ninh phi truyền thống, điển hình như vấn đề an ninh môi trường, tội phạm công nghệ cao, di cư bất hợp pháp... không chỉ đe dọa an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh lương thực…, mà còn là một trong những nguy cơ lớn đe dọa an ninh quốc gia và sự tồn vong của nhân loại. Những thách thức này thường lan tỏa rất nhanh qua nhiều quốc gia và để lại những hậu quả lâu dài. Các mối đe doạ an ninh phi truyền thống không chỉ là vấn đề cấp bách, mà còn là vấn đề thường xuyên, lâu dài, liên quan tới toàn nhân loại.

Biến đổi khí hậu toàn cầu là một vấn đề quan trọng hàng đầu của an ninh môi trường và đã trở thành thách thức an ninh phi truyền thống lớn nhất mà thế giới đang phải đối mặt. Biến đổi khí hậu toàn cầu đã nổi lên như một yếu tố thách thức và tiềm ẩn nguy cơ cho sự tồn tại trong tương lai của các quốc gia. Biến đổi khí hậu gây ra các biến động không có lợi về môi trường, gây khủng hoảng sinh thái, từ đó đe dọa tới an ninh con người, an ninh quốc gia. Biểu hiện rõ nhất là sự nóng lên của trái đất, băng tan, nước biển dâng cao; các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão lũ, sóng thần, động đất, hạn hán, tai biến và giá rét kéo dài… ảnh hưởng tới tính mạng con người, gây suy thoái kinh tế, xung đột và chiến tranh, mất đa dạng sinh học, phá huỷ hệ sinh thái, thiếu lương thực và xuất hiện hàng loạt dịch bệnh…

Biến đổi khí hậu đã gây ra hàng loạt các tác động tiêu cực đến con người và kinh tế. Theo hãng bảo hiểm Thụy sỹ Swiss Re, các hiện tượng thời tiết cực đoan trên thế giới năm 2015 đã gây thiệt hại 85 tỷ USD, 26.000 người chết do các hiện tượng thời tiết cực đoan. Năm 2015 đã đi vào lịch sử là năm nóng nhất từ trước tới nay, do hiện tượng ấm lên toàn cầu và ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết El Nino. Năm 2015 cũng ghi nhận kỉ lục 9 trận siêu bão xuất hiện tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trận động đất mạnh 7,8 độ richter làm rung chuyển Nepal và các nước láng giềng, khiến nhiều người thiệt mạng, phá hủy nhiều công trình kiến trúc cổ và gây thiệt hại lớn về kinh tế.

Quản trị nhà nước trong tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Thể chế, định chế nhà nước là sản phẩm của Nhà nước, của trí tuệ tập thể trong bối cảnh xã hội nhất định. Ở thời đại Hồ Chí Minh, dấu ấn của Người thể hiện ở quan điểm, mục tiêu xây dựng nhà nước kiểu mới, một nền hành chính của Nhân dân, lấy lợi ích của Nhân dân làm mục tiêu hoạt động.

Tư tưởng của Người về một nhà nước của dân, do dân, vì dân ở chỗ:

(1) Của dân, là: dân bầu ra Nhà nước, gồm những người được do dân tín nhiệm; dân kiểm soát Nhà nước; dân bãi miễn Nhà nước; dân biểu thị khen, chê Nhà nước.

(2) Do dân, là: dân tự làm, tự lo, tự giải quyết trong vòng pháp luật; Nhà nước chỉ can thiệp vừa, đủ, đúng theo pháp luật.

(3) Vì dân là: mọi quy định pháp luật đều vì dân; mọi lợi ích cho dân; mọi thuận tiện cho dân; xóa đặc quyền, đặc lợi; thân dân; gần dân.

Theo Người, nền hành chính nhà nước được thiết kế, tổ chức để phục vụ Nhân dân, chăm lo cho lợi ích của Nhân dân. Hiến pháp năm 1946 quy định: cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ (có nghĩa Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất của Nhà nước), người đứng đầu là Thủ tướng Chính phủ, là người nắm tập quyền hành pháp trong bộ máy nhà nước. Chính phủ hoạt động dựa trên Hiến pháp và pháp luật, là trung tâm điều chỉnh mọi hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước.

Nhận diện về các thế lực thù địch và các quan điểm sai trái cần đấu tranh

 Các thế lực thù địch là tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, Nhà nước hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hoạt động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị đều là thành phần của “các thế lực thù địch”

Các thế lực thù địch trong việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của đảng hiện nay có 3 nhóm chính: Nhóm thứ nhất, là các lực lượng thù địch, bao gồm cả những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản. Cả những nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng tư bản theo kiểu truyền thống và một số người thuộc giới cầm quyền có tư tưởng XHCN cũng bị tấn công. Cuộc đấu tranh này không chỉ diễn ra ở đất nước chúng ta mà còn trên phạm vi thế giới; Nhóm thứ hai, là lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài luôn lôi kéo, kết hợp với số chống đối, bất mãn ở trong nước lập ra các tổ chức như Việt Tân, Việt Nam phục quốc, Triều đại Việt...; Nhóm thứ ba, là một số cán bộ, đảng viên, có những đảng viên đã từng giữ chức vụ trung, cao cấp trong bộ máy, hệ thống chính trị của nước ta suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” Lực lượng này len lỏi, phức tạp, không khó để nhận ra nhưng lại rất khó để đấu tranh. Đây là những người phản bội lại quá khứ, phản bội lý tưởng và nguyên nhân của sự phản bội đó đôi khi lại bắt nguồn từ sự bất mãn, không đồng ý một số vấn đề cụ thể trong chính sách, ứng xử của những cơ quan, đơn vị.

Các thế lực thù địch đang sử dụng nhiều phương tiện, bằng nhiều con đường và với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCS)  trên các hướng chính sau: Phủ định nền tảng tư tưởng của Đảng: xuyên tạc, bài bác, phủ định Học thuyết về chủ nghĩa xã hội khoa học của Mác, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ định các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin; Phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên CNXH của Việt Nam: Các thế lực thù địch phê phán triệt để, bôi đen CNXH hiện thực, bác bỏ con đường XHCN, công khai ca ngợi con đường TBCN; Phủ nhận sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam và bôi nhọ lãnh đạo. Các thế lực thù địch công kích vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam; Các thế lực thù địch phản bác Cương lĩnh, quan điểm và nguyên tắc cơ bản của Đảng, đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng; Các thế lực thù địch bằng mọi cách tác động của nội bộ Việt Nam, dựng chuyện có phái này, phái nọ (phái bảo thủ, phái cấp tiến...), trong các cơ quan Đảng, Nhà nước nhằm tạo ra nghi ngờ nhau trong nội bộ, làm suy giảm đoàn kết trong các cơ quan Đảng, Nhà nước và trong nhân dân...Các thế lực thù địch tìm mọi cách bịa đặt, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước; Phủ định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam; Các thế lực thù địch đã  xuyên tạc tình hình kinh tế - xã hội ở Việt Nam, phủ nhận những thành tựu to lớn của nhân dân Việt Nam  trong quá trình đổi mới, đồng thời thổi phồng những yếu kém, khuyết điểm của Nhà nước Việt Nam trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, coi tệ quan liêu, tham nhũng là khuyết tật không thể khắc phục được trong xã hội XHCN, quy mọi yếu kém ở Việt Nam đều do ĐCS lãnh đạo; đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; Các thế lực thù địch đã xuyên tạc lịch sử, hạ bệ thần tượng, phủ nhận thắng lợi lịch sử có tính quốc tế của nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đó được dư luận quốc tế, loài người tiến bộ và được các tổ chức quốc tế như Liên Hợp quốc, UNESCO xác nhận và tôn vinh, ca ngợi; Vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ nhân quyền, cố tình đổi trắng thay đen, dựng chuyện Việt Nam đàn áp tôn giáo, kỳ thị, phân biệt đối xử với các dân tộc thiểu số v.v..

Mục tiêu của các thế lực thù địch: Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực thù địch đang thay đổi chiến lược và phương thức chống phá. Mục tiêu nhất quán không thay đổi của chúng là chống phá tận gốc về tư tưởng chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa quân đội và lực lượng công an, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

 Âm mưu của các thế lực thù địch: Âm mưu cơ bản, lâu dài của các thế lực thù địch là xóa bỏ chế độ CNXH ở Việt Nam, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Để thực hiện âm mưu cơ bản đó, “Diễn biến hòa bình” là một chiến lược nằm trong hệ thống chiến lược phản cách mạng  của chủ nghĩa đế quốc.

Đối tượng mà các thế lực thù địch hướng  vào tác động, lôi kéo: Một là, tầng lớp văn nghệ sĩ, trí thức và thanh niên, học sinh, sinh viên; Hai là, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước các cấp, nhất là ở Trung ương và cấp tỉnh; Ba là, những người bất mãn với Nhà nước, nhất là những người có quan điểm sai trái, đối lập với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là những người có hoạt động lôi kéo những người khác vào hoạt động chống đối Đảng, Nhà nước; Bốn là, những người Việt Nam ra nước ngoài công tác, học tập, lao động, trao đổi văn hóa, hội nghị, hội thảo, du lịch v.v..

Công cụ, phương thức, thủ đoạn: Một là, triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình, và mạng intemet từ nước ngoài để chuyển tải các quan điểm sai trái, thù địch để tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam; Hai là, lợi dụng danh nghĩa công khai hợp pháp của những người có thân phận ngoại giao, những người sang Việt Nam để thực hiện các dự án hợp tác, hỗ trợ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, khoa học, y tế... hoặc vào Việt Nam dự hội nghị, hội thảo, du lịch, thăm thân, thông qua các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc để truyền bá, phổ biến các quan điểm sai trái, thù địch; Ba là, thông qua hoạt động của các tổ chức phi chính phủ (NGO) của nước ngoài ở Việt Nam để truyền bá, phổ biến quan điểm sai trái thù địch;  Bốn là, tìm mọi cách tác động vào số cán bộ, công nhân, học sinh, sinh viên, trí thức, văn nghệ sĩ ra nước ngoài công tác, học tập, tham gia hội thảo, tham quan, du lịch để lôi kéo, gieo rắc tư tưởng hoài nghi con đường XHCN, hướng về phương Tây TBCN; Năm là, Mỹ và các nước phương Tây sử dụng các tổ chức phản động người Việt lưu vong ở nước ngoài vừa lôi kéo tập hợp lực lượng, vừa tiến hành các hoạt động bạo loạn hòng gây tình hình mất ổn định ở Việt Nam; Sáu là, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc” và “tôn giáo” để gây sức ép về chính trị, kích động, hình thành xu hướng ly khai đối lập với ĐCS Việt Nam; Bảy là, tăng cường móc nối với số đối tượng cơ hội chính trị, chống đối ở Việt Nam, tóm “ngọn cờ” để tập hợp lực lượng, hình thành phe phái tiến tới hình thành đảng đối lập ở Việt Nam; Tám là, làm cho xã hội Việt Nam  “tự diễn biến”.v.v..

Bên cạnh các luận điểm của các thế lực thù địch, hiện nay còn không ít những quan điểm sai trái của những kẻ thoái hóa, cơ hội chính trị, bất mãn: Một số đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn, mặc dù thụ hưởng những thành quả cách mạng do Đảng và nhân dân mang lại, nhưng lại tuyên truyền, tiếp nhận, tán phát tài liệu có nội dung xấu, móc nối viết bài nói xấu chế độ, Nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam. Những bài viết được tung lên internet, thậm chí kích động tụ tập đông người, biểu tình gây áp lực với chính quyền, đòi thả tự do cho số “tù nhân lương tâm”. Họ có quan điểm tiêu cực với hầu hết các sự kiện, các thành tựu của đất nước, chẳng hạn nhân sự kiện Việt Nam đăng cai tổ chức APEC, phủ nhận sự thành công của Hội nghị, xuyên tạc bài diễn văn của Tổng thống Mỹ nhằm gây chia rẽ quan hệ Việt Nam - Trung Quốc v.v..