Một trong số đó Đại tá Đinh Thế Hinh (trước khi nhập thế mang pháp danh là Đại đức Thích Pháp Lữ),  nguyên Chính ủy Trung đoàn 542 cho biết về phong trào yêu nước đặc biệt này...

Năm nay vừa tròn 75 năm (1947-2017) sau ngày 27 nhà sư đầu tiên tụ họp ở chùa Cổ Lễ “cởi áo cà sa, khoác chiến bào” ra trận. Thật khó tưởng tượng, giữa một khu phố tấp nập, phồn hoa của Hà Nội, chúng ta được nhớ lại một nhà sư, một cựu chiến binh từng là sĩ quan quân đội cấp cao sống cao đẹp cả “đời” và “đạo”.

Căn hộ nhỏ trong Khu tập thể E3-Thanh Xuân Bắc của Đại tá Đinh Thế Hinh toát lên sự giản dị, thanh tao như chính tâm hồn của vị chủ nhân. Phòng khách có một bộ bàn ghế mây đã cũ và một kệ sách gồm nhiều sách, báo về Phật học, quân sự. Hai bên tường, một bên treo ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh thời gian ở Xiêm La, khi Người cải trang là một nhà sư. Một bên treo ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


Đại tá Đinh Thế Hinh. 

Ông sinh ra tại làng Liêu Thượng, xã Xuân Thành, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định, là con út trong gia đình có 8 người con. Tôi là con trai duy nhất trong nhà, có lẽ vì vậy nên dù nghèo khó bố mẹ vẫn gắng cho tôi được ăn học. Dòng họ tôi nhiều đời thờ Phật, năm 13 tuổi, cha mẹ gửi tôi tu tập tại chùa Cổ Lễ.

“Ở chùa ông theo pháp môn Tịnh Độ. Đạo Phật đã giúp ông học hành, dạy cho ông những suy nghĩ về cuộc sống đời thường”.

Từ chùa Cổ Lễ, ông được đi học tiếp tại rất nhiều chùa như: Chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa Quán Sứ (Hà Nội), chùa Côn Sơn (Hải Dương)... trong 5 năm. Năm 1945, ông quay về chùa Cổ Lễ và bắt đầu dạy cho những nhà sư khác biết viết, biết đọc chữ Quốc ngữ.

Năm 1946, giặc Pháp quyết tâm xâm lược nước ta một lần nữa, chúng đưa quân chiếm đóng các thành phố ở miền Bắc, đưa quân gây hấn và chiếm đóng gần chùa Cổ Lễ. Chúng ép các nhà sư phải rút lên núi. “Trước khi sơ tán, các nhà sư đã bàn nhau là phải luyện võ nghệ, đồng thời tìm cách chống lại giặc Pháp xâm lược. Đó chính là nhiệm vụ trong lúc nước nhà lâm nguy và tất cả mọi người đều thấm nhuần Lời kêu gọi của Bác Hồ, xác định tinh thần sẵn sàng rời bỏ cuộc sống tu hành để ra chiến tuyến. Lúc này, tất cả đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ đều sẵn sàng cống hiến thân xác mình cho nền độc lập của Tổ quốc”

Mùa xuân năm 1947, Hòa thượng Thích Thế Long-sư trụ trì chùa Cổ Lễ đã tập hợp và khích lệ các sư nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đại đức Thích Pháp Lữ là một trong số 27 người đầu tiên nhập ngũ.

Đại tá Đinh Thế Hinh hồi tưởng: Đó là một buổi sáng mùa xuân, trời trong vắt, nắng tỏa nhẹ, chùa náo nhiệt khác thường. Từ sớm đã có rất đông nhân dân đến chứng kiến buổi lễ của đoàn Phật tử “cởi áo cà sa ra trận”.  Hòa thượng trụ trì Thế Long: “Giặc ngoại xâm đe dọa chủ quyền đất nước, bọn ác quỷ lăm le ngay cửa Phật, Phật pháp bất ly thế gian. Khi sơn hà nguy biến, dân chúng điêu linh, các Phật tử cũng tham gia đánh giặc cứu nước...”. Hòa thượng dứt lời trong tiếng hô vang dậy. 27 nhà sư trở thành 27 chiến sĩ Vệ quốc đoàn. Buổi lễ ngày hôm đó đã biến thành cuộc tuần hành, tỏa về các làng quê trong khí thế cứu nước hào hùng.

Sự tận hiến của đội quân Phật tử Vệ quốc tại chùa Cổ Lễ năm xưa, cùng hàng trăm nhà sư và hàng chục ngôi chùa từng là cơ sở cách mạng trước tháng 8-1945 đã góp phần chứng minh sinh động cho tinh thần tiếp nối truyền thống Phật giáo Việt Nam: Hàng nghìn năm đồng hành và nhập thế cùng dân tộc, chuộng nhân từ, bác ái nhưng cũng vô cùng kiên quyết trong việc loại trừ điều ác.

PHAO