Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

MỘT SỐ NỘI DUNG BỒI DƯỠNG BẢN CHẤT CÁCH MẠNG CHO THẾ HỆ TRẺ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

             Thế hệ trẻ trong quân đội là lực lượng xung kích, đi đầu trong thực hiện nhiệm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, góp phần to lớn vào sự nghiệp trưởng thành, chiến thắng của Quân đội. Tuy nhiên, thực tế, vẫn còn tình trạng một bộ phận thế hệ trẻ trong quân đội có những dấu hiệu sa sút ý chí chiến đấu, suy giảm niềm tin, thoái hóa về đạo đức, lối sống,... làm ảnh hưởng đến bản chất cách mạng trong sáng và uy tín của “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong khi đó, ở một số đơn vị, có lúc, có nơi, việc chăm lo vun đắp bản chất, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ bị xem nhẹ hoặc thiếu tính hiệu quả. Vì vậy, việc chăm lo xây dựng, bồi dưỡng bản chất cách mạng cho thế hệ trẻ trong quân đội vừa là một yêu cầu mang tính thường xuyên, lâu dài, vừa là đòi hỏi bức thiết, trước mắt, mà tổ chức Đảng, người chỉ huy, cơ quan chức năng các cấp đều phải hết sức quan tâm.

Để nâng cao bản chất cách mạng cho thế hệ trẻ trong quân đội cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

Một là, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị - tư tưởng nâng cao lòng yêu nước, giáo dục sâu sắc lòng yêu CNXH, đưa tình cảm cao quý đó lên một tầm cao mới - yêu Tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất, XHCN. Giáo dục các quân nhân lòng trung thành vô hạn và niềm tin không gì lay chuyển được vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn; giữ gìn và phát huy tinh hoa bản sắc dân tộc. Đó là quá trình xây dựng làm cho thế hệ trẻ quân đội nắm vững mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội nhân dân trong thời kỳ mới; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹ lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ CNXH, bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ gìn sự ổn định chính trị và môi trường hoà bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Mục tiêu trên đây phản ánh sự thống nhất biện chứng giữa quyền lợi giai cấp và quyền lợi dân tộc, giữa độc lập dân tộc và CNXH, giữa dân tộc và quốc tế. Để có được bản chất cách mạng trên, lãnh đạo và chỉ huy các cấp cần chăm lo giáo dục để thế hệ trẻ quân đội luôn luôn đứng vững trên nền tảng chính trị của Đảng, bảo vệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh hiện nay, giáo dục chính trị - tư tưởng phải luôn bám sát sự phát triển mới của thực tiễn cách mạng, chú trọng đi sâu phân tích để cán bộ, chiến sĩ có nhận thức đầy đủ hơn về thời cơ và nguy cơ, nhất là những khó khăn, thách thức đặt ra đối với đất nước, quân đội, trực tiếp là đối với thế hệ trẻ trong quân đội, từ đó chủ động ngăn ngừa những tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường, cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn trong chiến lược " diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội ta. Phải coi trọng đấu tranh trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, phê phán sâu sắc những quan điểm sai trái, những luận điệu tuyên truyền lừa bịp của các thế lực phản động, thù địch; đấu tranh, uốn nắn kịp thời những nhận thức lệch lạc, những hành vi và thói quen không phù hợp với bản chất cách mạng và truyền thống vẻ vang của quân đội.

Hai là, tiếp tục đẩy mạnh giáo dục bản chất, truyền thống quân đội gắn với giáo dục lịch sử dân tộc, lịch sử Đảng, lịch sử quân đội, lịch sử và truyền thống đơn vị, đồng thời coi trọng giáo dục truyền thống địa phương, nơi sinh trưởng của cán bộ, chiến sĩ và nơi đứng chân của đơn vị. Bởi lẽ quá khứ, hiện tại và tương lai là một dòng chảy liên tục. Tuy nhiên, giáo dục không phải chỉ để ca ngợi quá khứ, mà như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói, phải làm cho quá khứ sống lại đẹp đẽ hơn bao giờ hết trong bản anh hùng ca của hiện tại.

Giáo dục truyền thống cần coi trọng giáo dục gương đấu tranh cách mạng của các đảng viên tiền bối và gương chiến đấu của các anh hùng, dũng sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân ta. Đặc biệt là cần học tập tấm gương và cuộc đời hoạt động của Bác Hồ, đây là một yêu cầu cấp thiếp đối với sự nghiệp giáo dục,  rèn luyện các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội, phù hợp với nguyện vọng và tình cảm thiêng liêng của quân đội ta đối với Bác. Vì Người là kết tinh những giá trị tinh thần, văn hóa của nhân dân ta, dân tộc ta qua suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Ở Bác, tinh hoa của dân tộc được kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin - đỉnh cao của tư tưởng nhân loại trong thời đại mới. Người là tấm gương tuyệt vời về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng nhân đạo và yêu mến nhân dân, chí công vô tư, khiêm tốn giản dị... thực hiện tốt những yêu cầu nội dung giáo dục đó, mới động viên và khơi dậy được mạnh mẽ  lòng tự hào dân tộc, tình cảm thiêng liêng gắn bó của thế hệ trẻ quân đội đối với Đảng, với lãnh tụ, với quân đội và đơn vị mình, từ đó củng cố quyết tâm phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ba là, coi trọng trau dồi thường xuyên về đạo đức cách mạng cho bộ đội. Bởi lẽ, nhịp sống trong cơ chế thị trường tác động rất mạnh đến thị hiếu, tác phong, lối sống, đạo đức của tuổi trẻ. Hiện nay, do cơ cấu giai cấp trong xã hội có sự phát triển, xuất thân của cán bộ, chiến sĩ trong quân đội cũng biến đổi theo, vì vậy nhận thức, tư tưởng của mỗi người cũng đa dạng, phức tạp hơn. Thậm chí, so với trước đây, ngày nay sự nhìn nhận, đánh giá về nhân cách, phẩm giá của con người cũng có những thay đổi, phát triển mới. Tuy nhiên, không vì thế những giá trị đạo đức truyền thống như: chủ nghĩa tập thể, tinh thần sống mình vì mọi người, trọng danh dự, tình đồng chí đồng đội, "đồng cam cộng khổ", sẵn sàng nhường thuận lợi cho bạn, nhận khó khăn về mình, v.v., từng được bao thế hệ cán bộ chiến sĩ trân trọng giữ gìn, lại bị coi nhẹ hay hạ thấp đi. Ngày nay, quân đội ta vẫn còn khó khăn, thiếu thốn; còn phải tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ không kém phần gay go, phức tạp, thậm chí phải đổ máu, hy sinh vì lợi ích Tổ quốc và nhân dân. Để làm được nhiệm vụ đó, cần luôn quán triệt quan điểm" xây đi đôi với chống"; tích cực đấu tranh với những biểu hiện chạy theo cuộc sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, coi vật chất, lợi ích cá nhân, cụ bộ nặng hơn danh dự, nhân  cách quân nhân. Kỷ luật quân đội phải được tôn trọng và duy trì nghiêm túc, tự giác, không dung thứ  cho những hành vi trái với luật pháp và điều lệnh quân đội. Việc giáo dục sâu rộng về đạo đức cách mạng, phong cách Hồ Chí Minh cần phải được tiến hành một cách  rộng khắp, thường xuyên, sâu sắc đối với thế hệ trẻ trong quân đội.

Bốn là,  đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp phải luôn luôn là tấm gương sáng về nhân cách để mọi người noi theo. Thực hiện những di huấn quý báu của Bác Hồ, người chỉ huy các cấp phải thực sự phấn đấu để có "trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung", "giàu sang không thể quyến rũ, uy vũ không thể khuất phục"; người cán bộ chính trị phải thực sự "thân thiết như người chị, công bình như người anh". Bởi lẽ, thế hệ trẻ thường học không chỉ trong sách vở, mà chủ yếu học trong đời thường, nhất là từ đội ngũ đảng viên, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, cán bộ chính trị trực tiếp tại đơn vị.

Năm là, chú trọng thắt chặt mối liên hệ với cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể và nhân dân địa phương, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục thanh niên, tăng cường bồi dưỡng lòng yêu nước XHCN, bản chất, truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, bản chất, truyền thống của Quân đội nhân dân cho thế hệ trẻ, tạo điều kiện thuận lợi để thanh niên khi bước vào quân ngũ có nhận thức đúng, tình cảm tốt đẹp về quân đội, từ đó xác định động cơ tham gia xây dựng quân đội đúng đắn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.

 

BẢN CHẤT CÁCH MẠNG TRONG THẾ HỆ TRẺ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY

 

Thế hệ trẻ trong quân đội là lực lượng xung kích, đi đầu trong thực hiện nhiệm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước trong thời kỳ mới, góp phần to lớn vào sự nghiệp trưởng thành, chiến thắng của Quân đội, xứng đáng với lời khen của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng".

Thông qua lời dạy của Bác Hồ đã toát lên lập trường, bản lĩnh chính trị và sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Lập trường, bản lĩnh và sức mạnh đó được thể hiện cụ thể ở danh hiệu mà nhân dân đã tặng cho quân đội ta là: "Bộ đội Cụ Hồ". "Bộ đội Cụ Hồ" là bộ đội từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; là một di sản, một giá trị tinh thần và đạo đức cao quý, một thành tựu tốt đẹp mà lớp lớp các thế hệ cha anh đã dày công vun đắp, xây dựng. Thế hệ trẻ quân đội ngày nay phải luôn luôn trân trọng, học tập và phát huy tinh thần truyền thống đó trong thời kỳ mới.

Tuy nhiên, bên cạnh thực tế đáng tự hào đó, vẫn còn tình trạng một bộ phận thế hệ trẻ trong quân đội có những dấu hiệu sa sút ý chí chiến đấu, suy giảm niềm tin, thoái hóa về đạo đức, lối sống,... làm ảnh hưởng đến bản chất cách mạng trong sáng và uy tín của “Bộ đội Cụ Hồ”. Trong khi đó, ở một số đơn vị, có lúc, có nơi, việc chăm lo vun đắp bản chất, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ bị xem nhẹ hoặc thiếu tính hiệu quả.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ chính trị của quân đội ta có bước phát triển mới. Quân đội thực hiện các chức năng của đội quân chiến đấu, đội quân lao động sản xuất, đội quân công tác và làm nhiệm vụ quốc tế trong hoàn cảnh mới khác rất nhiều với giai đoạn cách mạng trước đây. Đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, vừa đứng trước những thời cơ, vận hội, vừa phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Mặt trái của kinh tế thị trường và mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tác động rất mạnh đến nhận thức, tâm tư, tình cảm của từng người. Sự giao thoa văn hóa giữa môi trường quân đội với bên ngoài bên cạnh yếu tố tích cực cũng không tránh khỏi ảnh hưởng tiêu cực từ những dòng văn hóa xấu độc, xa lạ với bản chất, truyền thống văn hóa của dân tộc nói chung và của quân đội nói riêng. Hơn nữa, quân đội ta còn là một đối tượng chủ yếu trong chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch. Âm mưu “phi chính trị hóa" quân đội của chúng thực chất là nhằm triệt tiêu bản chất, truyền thống cách mạng, vô hiệu hóa vũ khí chính trị - tinh thần sắc bén, từ đó vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội ta.

Phát huy bản chất truyền thống của Quân đội, trước những khó khăn, thách thức, những năm qua quân đội ta vẫn phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của mình, xứng đáng là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Cán bộ, chiến sĩ quân đội vẫn luôn luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất, sát cánh cùng cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân các địa phương làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cùng nhân dân xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, đẩy mạnh sản xuất, xoá đói giảm nghèo, phòng chống thiên tai, bão lũ,... Những hành động đó đã làm ngời sáng thêm bản chất cách mạng của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân.

 

 

Yêu cầu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới

 

Tình hình thế giới, khu vực và thực tiễn xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới có sự phát triển với nhiều nội dung mới, sâu sắc và toàn diện. Nội hàm cốt lõi của bảo vệ Tổ quốc là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Điều này không chỉ thể hiện tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước có những diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo; đan xen cả thời cơ và thách thức, mà còn biểu thị rõ quyết tâm của Đảng ta xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”[1]. Đây là cơ sở định hướng để các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền địa phương tập trung triển khai thực hiện có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải.

Nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới là trách nhiệm chính trị của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; trong đó, lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân giữ vai trò nòng cốt.

Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi quân đội ta cần chủ động nghiên cứu, nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình thế giới, khu vực và trong nước, tham mưu chiến lược kịp thời với Đảng, Nhà nước trong việc đề ra các chủ trương, đối sách xử lý thắng lợi các tình huống, không để bị động, bất ngờ, không để mâu thuẫn, tranh chấp phát triển thành xung đột vũ trang, chiến tranh; chủ động, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững mạnh ở từng khu vực và trên cả nước, nhất là các địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng - an ninh; xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, bảo đảm chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, phải tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội và các tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, bảo đảm đủ sức lãnh đạo toàn quân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Như vậy, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đặt ra những yêu cầu cao hơn về phẩm chất chính trị trong thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu, đòi hỏi Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, xứng đáng là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc,

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2021, tr.155-156.

Nhận thức đúng mục tiêu chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch

 

“Diễn biến hòa bình” là chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa. Về bản chất, so với các chiến lược và mục tiêu trong thời kỳ chiến tranh lạnh, chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống đến cùng chống đến cùng chủ nghĩa xã hội và không thay đổi. Trong tình hình và thời cơ mới, chiến lược này chỉ thay đổi phương thức và thủ đoạn, đó là “chiến thắng không cần chiến tranh”, “không đánh mà thắng”, hoặc “cuộc cách mạng nhung”, “cách mạng màu”, có nghĩa là, về bản chất sâu xa, họ vẫn tiến hành một cuộc chiến tranh, nhưng như họ đã từng tuyên bố, đó là một cuộc “chiến tranh không có khói súng”. Điều đó có nghĩa là mục đích cuối cùng của chiến lược  “diễn biến hòa bình” là xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Để đạt được điều đó, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch xác định các mục tiêu cơ bản sau:

Một là, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin để thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản trong các nước xã hội chủ nghĩa. Các nhà lý luận của chiến lược “diễn biến hòa bình” cho rằng, tư tưởng là lĩnh vực có tầm quan trọng hàng đầu, vì vậy, mục tiêu phải đạt được là tước bỏ vũ khí tư tưởng của đối phương và coi đó là khâu đột phá của chiến lược “diễn biến hòa bình”.

Hai là, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong các nước xã hội chủ nghĩa. Luận điệu được sử dụng thường xuyên là đảng cộng sản độc quyền là “độc tài”, là “bóp nghẹt dân chủ”, vì thế phải thay bằng chế độ chính trị đa đảng! Từ đó, tìm mọi cách nhen nhóm các lực lượng phản động chống đối, cơ hội chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa.

Ba là, gây mất ổn định về chính trị trong các nước xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn thường xuyên được sử dụng là lợi dụng, kích động những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ lôi kéo một bộ phận quần chúng vào các cuộc bạo loạn chính trị. Các thế lực thù địch bỏ ra nhiều công sức và cả tiền bạc để lôi kéo, tập hợp “những người bất đồng chính kiến”, thực chất là những phần tử chống chủ nghĩa xã hội, phủ nhận sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dùng họ làm “cơ sở”, “nội ứng” cho việc thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”.

Bốn là, làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế.

Năm là, chuyển hóa văn hóa, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo quỹ đạo và các giá trị phương Tây, từ đó làm biến đổi theo chiều hướng tiêu cực và tha hóa con người, dẫn tới biến chất cả một xã hội.

Sáu là, “phi chính trị hóa” để vô hiệu hóa quân đội và công an.

Những mục tiêu cơ bản trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu để các thế lực thù địch thực hiện được thì điều không tránh khỏi là học sẽ đạt đến mục đích cuối cùng là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.

                                                                           

Vai trò của cán bộ và công tác cán bộ trong Quân đội nhân dân Việt Nam

 

Cán bộ và công tác cán bộ giữ vai trò quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của sự nghiệp cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc... huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng, là “then chốt của then chốt”. Đảng đã dành nhiều công sức, tâm huyết để xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo các cấp; qua đó, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khóa VIII ngày 18 tháng 6 năm 1997 “Về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19 tháng 5 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” tiếp tục khẳng định: “Công tác cán bộ là khâu “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ quan trọng này, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: “Đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”. Cán bộ và công tác cán bộ không những là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, mà còn là khâu then chốt trong toàn bộ hoạt động của Đảng ta; điều này đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, coi công tác cán bộ là “then chốt” của nhiệm vụ “then chốt”.

 Đội ngũ cán bộ quân đội là một bộ phận cán bộ trọng yếu của Đảng công tác trong quân đội, đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý từ cấp toàn quân đến cơ sở. Đây là lực lượng nòng cốt trong thực hiện đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, nhân tố có vai trò quyết định trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu của quân đội. Vì vậy, cán bộ và công tác cán bộ trong Quân đội có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân đội. Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã có nhiều chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng đội ngũ cán bộ bảo đảm số lượng, cơ cấu ngày càng hợp lý, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho. Thực tiễn gần 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của cán bộ và công tác cán bộ trong quân đội; trong cùng một điều kiện, hoàn cảnh tương đương nhau, nhưng kết quả thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ, trước hết là người đứng đầu. Cơ quan, đơn vị nào có đội ngũ cán bộ chất lượng tốt, tinh thần trách nhiệm cao, người đứng đầu gương mẫu, tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, phong cách làm việc và phong cách lãnh đạo thì đơn vị đoàn kết, thống nhất, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

 

Nhận rõ sự chống phá của các thế lực thù địch về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay

 

Hiện nay, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước câu kết với nhau tăng cường hoạt động chống phá toàn diện, nhưng tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội như: chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Hướng trọng tâm chống phá vào cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an và các tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ, thế hệ trẻ. Chúng triệt để lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước, nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước hòng gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, để chia rẽ các dân tộc, các tôn giáo, chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, quân đội, công an để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Hiện nay, chúng cũng ra sức lợi dụng vấn đề bảo vệ “môi trường”, chủ quyền biển, đảo, biên giới đất liền để chống phá Việt Nam, gây sức ép về chính trị đối với Đảng, Nhà nước ta, can thiệp và mặc cả với Việt Nam trong các vấn đề quốc tế…

Các thế lực thù địch đẩy mạnh việc tuyên truyền các quan điểm sai trái, đòi “phi chính trị hóa” quân đội, phủ nhận nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội; tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng về công tác quân sự, quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân... Chúng cố tình phủ nhận các chức năng cơ bản của quân đội, xuyên tạc, bóp méo những giá trị cao đẹp của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ”. Những phương thức, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động đối với quân đội ta ngày càng tinh vi, xảo quyệt, trực diện hơn. Qua đó, chúng trông đợi sẽ truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ bi quan, giao động lập trường, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; mơ hồ, mất cảnh giác, lơi lỏng nhiệm vụ, rơi vào lối sống thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, từng bước tác động, chuyển hóa nhằm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”.

Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động tăng cường đẩy mạnh chống phá công tác cán bộ của Đảng trong quân đội; dùng nhiều thủ đoạn để mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo cán bộ, làm cho một số cán bộ quân đội suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, nhằm tạo ra lớp cán bộ “đỏ vỏ, xanh lòng” để chống lại Đảng, Nhà nước, quân đội và nhân dân. Đồng thời, chúng cũng triệt để lợi dụng, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội hiện nay, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội và các hiện tượng độc đoán, gia trưởng, quân phiệt của một số cán bộ quân đội... để đưa những thông tin bịa đặt, bình luận xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, làm suy giảm lòng tin giữa cán bộ, chiến sĩ, suy yếu, giảm sút khả năng sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Khoét sâu, kích động tư tưởng công thần, địa vị cá nhân, bè phái, cục bộ địa phương, đòi hưởng thụ, đãi ngộ...; lợi dụng những khó khăn về đời sống vật chất, tinh thần của một số ít cán bộ trong quân đội ta để làm lu mờ, bôi đen bản chất cách mạng “Bộ đội Cụ Hồ”…

Để hoàn thành nhiệm vụ quan trọng đó, một mặt, các cơ quan, đơn vị toàn quân cần tiếp tục quan tâm công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ quân đội vừa “hồng”, vừa “chuyên”; mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Đó cũng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho đội ngũ cán bộ quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân.

 

Tư tưởng Hồ Chí Minh - một học thuyết cách mạng vô giá của Việt Nam

 


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một kho tàng di sản văn hóa đồ sộ. Đó là các tác phẩm tiêu biểu, như “Bản án chế độ thực dân Pháp” (năm 1925), “Đường Cách mệnh” (năm 1927), “Tuyên ngôn Độc lập” (năm 1945), “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” (năm 1946), “Sửa đổi lối làm việc” (năm 1947), “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (năm 1969) và bản “Di chúc” thiêng liêng bất hủ (năm 1969) được coi là những kiệt tác, những bảo vật quốc gia vô cùng quý giá. Bao trùm lên tất cả là tư tưởng Hồ Chí Minh, kết tinh của trí tuệ và tinh hoa văn hóa Việt Nam, của tinh thần yêu nước, thương dân, yêu Tổ quốc và đồng bào, yêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, yêu Đảng Cộng sản, ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của cách mạng Việt Nam.

"Về lãnh đạo, cán bộ phải thật sự đoàn kết, nhất trí, phải đi sâu đi sát, phải lãnh đạo thiết thực và toàn diện”.

 


Lời huấn thị trên được trích trong thông báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nội dung đợt chỉnh huấn cho toàn Đảng, toàn dân, do Trung ương phát động, khi Người về thăm và nói chuyện với đồng bào, cán bộ tỉnh Bắc Giang tháng 4-1961.

Các chú đã thực hiện khẩu hiệu “Đã đánh là thắng”.

 


Sau sự kiện Không quân Nhân dân Việt Nam lần đầu xuất kích đánh to và thắng lớn không lực Hoa Kỳ trong các ngày 3 đến ngày 5-4-1965, Bác gửi thư khen ngợi: “Các chú đã chiến đấu dũng cảm, đã tiêu diệt máy bay Mỹ. Các chú đã thực hiện khẩu hiệu “Đã đánh là thắng”. Như thế là xứng đáng với truyền thống anh hùng của quân và dân ta... Chúc các chú lập nhiều chiến công hơn nữa”.

Lời Bác căn dặn: “Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”

 


Ngày 5-4-1948, Bác Hồ viết 12 điều răn yêu cầu mọi người phải nhớ và thực hành khi tiếp xúc với dân. Để cổ động, Bác viết bài thơ: “Mười hai điều trên/ Ai chả làm được/ Hễ người yêu nước/ Nhất quyết không quên/ Tập thành thói quen/ Muôn người như một/ Quân tốt, dân tốt/ Muôn sự đều nên/ Gốc có vững, cây mới bền/ Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”.

Tăng cường giáo dục cho mỗi cán bộ, đảng viên trước âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù

 


 

Trong thời gian gần đây bên cạnh những thành tích đạt được, công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước ngày càng gặp không ít khó khăn, trở ngại, trong các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên nhiều phương diện. Đặc biệt chúng tận tận dụng tối đa những chức năng và lợi thế từ mạng xã hội, nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đã quyết liệt chống phá Đảng và Nhà nước ta với nhiều hình thức, mức độ ngày gia tăng với hình thức ngày càng tinh vi, phức tạp hơn.

KINH NGHIỆM ĐẤU TRANH BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG, PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, THÙ ĐỊCH TRÊN KHÔNG GIAN MẠNG Ở ĐƠN VỊ CƠ SỞ HIỆN NAY

 


 

Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là một nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Đại hội XIII Đảng ta xác định “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị. Đơn vị cơ sở là lực lượng luôn đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng với những mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả, qua đó đã góp phần bổ sung, phát triển những kinh nghiệm có giá trị trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

BÁC HỒ VỚI NGÀY QUỐC TẾ LAO ĐỘNG 1/5

 Ngày 1/5 là ngày biểu thị tình đoàn kết hữu nghị giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn cầu, cùng đấu tranh cho thắng lợi của hòa bình, tự do, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Ở Việt Nam, Ngày Quốc tế Lao động đầu tiên được tổ chức vào năm 1930. Ngày 1/5/1930, lần đầu tiên trong lịch sử phong trào công nhân ở Đông Dương, giai cấp công nhân nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã biểu tình ngoài đường phố để biểu dương tình đoàn kết cách mạng với công nhân quốc tế, đồng thời đấu tranh trực diện với bọn đế quốc thực dân Pháp, đòi chúng phải cải thiện điều kiện làm việc, phải tăng lương và thực hiện luật lao động ngày làm việc 8 giờ. Đó là điểm bắt đầu cho cả cao trào 1930 - 1931 với đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước nhà được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 22c NV/CC ngày 18/2/1946 về những ngày nghỉ Tết, kỷ niệm lịch sử, trong đó công bố: Ngày 1/5 là một trong những ngày Lễ chính thức và công nhân, lao động cả nước được nghỉ một ngày có hưởng lương. Kể từ đây, ngày 1/5 được coi là một trong những ngày lễ chính thức hàng năm của Nhà nước ta.
Ngày 1/5/1946, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, ngày Quốc tế lao động 1/5 được tổ chức kỷ niệm mít tinh trọng thể tại Hà Nội, với sự tham dự của 20 vạn nhân dân lao động. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi:“Cùng đồng bào toàn quốc! Cùng anh chị em lao động! Ngày 1 tháng 5 là một ngày Tết chung cho tất cả các nước trên thế giới. Đó là một ý nghĩa đoàn kết rất sâu xa. Ở nước ta, lần này là lần đầu tiên đồng bào ta, anh chị em lao động ta được tự do đón tiếp ngày 1 tháng 5. Vậy nên nó có ý nghĩa đặc biệt sâu xa hơn nữa. Đối với chúng ta nó là một ngày để cho thế giới biết rằng: Ngày này chẳng những là ngày Tết lao động, mà còn là ngày nhân dân đoàn kết. Đoàn kết để giữ vững tự do dân chủ. Đoàn kết để kiến thiết nước nhà.
Đoàn kết để xây dựng một đời sống mới”.
Ngày 1/5/1948, Bác Hồ ra “Lời kêu gọi thi đua yêu nước”, trong đó có đoạn: “Nước ta kinh tế lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và chí quật cường chẳng kém ai. Nay muốn tự cung tự cấp, tự túc, đi kịp người thì chúng ta phải đi mau. Vì vậy, sĩ, nông, công, thương, binh, gái trai già trẻ, toàn thể quốc dân ta, vô luận ở địa vị nào, làm công việc gì, phải ra sức tham gia cuộc Thi đua yêu nước, tức là tăng gia sản xuất”.
Ngày 1/5/1951, trong lời kêu gọi nhân ngày Quốc tế Lao động, Bác Hồ xác định “Trọng tâm thi đua là: Quân đội thi đua giết gịăc lập công. Công nhân thi đua tăng gia sản xuất. Nông dân thi đua sản xuất lương thực. Trí thức thi đua sáng tác, phát minh. Cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính. Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến”.
Ngày 1/5/1958, Bác đưa ra “Lời kêu gọi nhân Ngày Quốc tế Lao động” khẳng định: “Hôm nay, cùng với nhân dân lao động toàn thế giới, chúng ta nhiệt liệt chào mừng Ngày 1 tháng 5 trong lòng đầy tin tưởng và phấn khởi quyết tâm vượt mọi khó khăn, tiến lên làm tròn những nhiệm vụ mới... Ngày 1 tháng 5 năm nay là một ngày đoàn kết, đấu tranh, tin tưởng và phấn khởi”.
Kể từ sau năm 1975, kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5 ở Việt Nam ngày càng có ý nghĩa khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm Ngày Chiến thắng 30/4. Đây là dịp giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nước ôn lại truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm; sôi nổi hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước để bày tỏ lòng tưởng nhớ, biết ơn sâu sắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người đã có công lao rất to lớn giúp nhân dân ta ý thức được ý nghĩa lịch sử và tác động của việc kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động 1/5, từ đó càng thêm quyết tâm đi theo con đường cách mạng do Đảng và Bác kính yêu đã lựa chọn, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
St

XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY

 Sau 35 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu vô cùng to lớn. Tuy nhiên, những yêu cầu, thách thức mới trong bối cảnh hiện nay đang đặt ra trọng trách lớn hơn đối với Đảng. Để xây dựng Đảng vững mạnh, luôn đủ năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, chúng ta cần nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn các nội dung xây dựng Đảng, trong đó có xây dựng Đảng về đạo đức. Quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức và các nội dung, nguyên tắc cơ bản của xây dựng Đảng về đạo đức cần được đặt trong mối quan hệ gắn liền với các mặt khác của công tác này, nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn hiện nay.

Quan niệm xây dựng Đảng về đạo đức
Theo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức của Đảng Cộng sản là đạo đức kiểu mới - đạo đức cách mạng, hình thành qua thực tiễn lãnh đạo cuộc đấu tranh chống áp bức dân tộc và giai cấp, xây dựng chế độ mới công bằng, tốt đẹp. Đó là hệ thống nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi của tổ chức đảng và của đảng viên trong các mối quan hệ với bản thân, với công việc, với đồng chí và các tầng lớp Nhân dân. Những phẩm chất đạo đức nổi bật là: luôn đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp, của Đảng lên trên hết, trước hết; sự khiêm tốn, giản dị; tinh thần dám đấu tranh với mọi sai lầm, khuyết điểm, tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với Nhân dân, phụng sự Nhân dân; cần, kiệm, liêm, chính; yêu thương con người; có tinh thần quốc tế vô sản chân chính.
Xây dựng Đảng về đạo đức là toàn bộ hoạt động của Đảng, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên với sự tham gia của các tổ chức trong hệ thống chính trị, các tầng lớp Nhân dân trong việc định hình, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của Đảng. Thông qua việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho mỗi cán bộ, đảng viên góp phần tạo nên sức mạnh, sức bền cho Đảng, để Đảng vượt qua mọi khó khăn, thách thức, lãnh đạo Nhân dân hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị. Nhiệm vụ cách mạng càng ngày càng nặng nề, đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên càng phải bản lĩnh, rèn luyện đạo đức cách mạng để "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục".
Đạo đức là yếu tố làm nên sức mạnh tinh thần to lớn, tạo ra niềm tin của Nhân dân với Đảng, làm cho Đảng thật sự là một Đảng cách mạng, chân chính. Ở Việt Nam, khi trở thành Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì vấn đề giữ vững bản chất cách mạng, đạo đức trong sáng của Đảng là vấn đề vừa cấp thiết, vừa thường xuyên và lâu dài. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đạo đức là gốc, là nền tảng của Đảng, cho nên từ sự suy thoái về đạo đức sẽ kéo theo sự suy thoái của Đảng trên tất cả các lĩnh vực và tất yếu đánh mất niềm tin của Nhân dân vào Đảng, Đảng sẽ tự đánh mất vai trò lãnh đạo và sứ mệnh lịch sử cao cả của mình.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: Xây dựng Đảng về đạo đức là một trong những trụ cột của công tác xây dựng Đảng nói chung, có mối liên hệ biện chứng với các nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đường lối chính trị xuyên suốt của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, hay nói một cách khác, độc lập dân tộc phải đi liền cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân. Xây dựng và thực thi đường lối chính trị đảm bảo mục tiêu xuyên suốt đó cũng chính việc thực hành đạo đức cao nhất của người cộng sản - đạo đức vì nước, vì Dân. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về tổ chức để Đảng trở thành một tổ chức có kỷ luật nghiêm minh tự giác, thành một khối thống nhất trăm người như một, thì không chỉ cần đến các nguyên tắc, các chế tài mà còn phải luôn quan tâm đến giáo dục tình thương, lẽ phải. Thực hành dân chủ, thực hành phê bình và tự phê bình, gắn bó mật thiết với Nhân dân thực chất là thực hành đạo đức của người cộng sản. Như vậy, yếu tố đạo đức, xây dựng Đảng về đạo đức đã nằm trong tất cả các hoạt động xây dựng Đảng, là cơ sở đảm bảo thực hiện các mục tiêu và nội dung xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.
Thực tiễn công tác xây dựng Đảng trong những năm qua đã cho thấy tầm quan trọng của xây dựng Đảng về đạo đức. Việc đưa nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức đặt ngang tầm với các nhiệm vụ trong xây dựng Đảng không chỉ là một vấn đề thực tiễn mà còn là sự vận dụng, phát triển lý luận về xây dựng Đảng trong điều kiện mới.
Các nội dung cơ bản trong xây dựng Đảng về đạo đức
Khi nói về tiêu chuẩn của Đảng cách mạng, V.I.Lê-nin nêu yêu cầu xây dựng Đảng phải trở thành đại diện cho “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”1. Quan điểm này được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển khi khẳng định Đảng “là đạo đức, là văn minh”, “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc”2. Từ khi ra đời và trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển, không ngừng tự bồi đắp, bổ sung, hoàn thiện những phẩm chất đạo đức tốt đẹp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thực tiễn, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp, của dân tộc.
Xây dựng đạo đức của Đảng trước hết là xây dựng đường lối chính trị, mục tiêu chính trị tốt đẹp, nhân văn vì con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác”3. Mục đích cao nhất của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và sau đó là chủ nghĩa cộng sản. Là lực lượng lãnh đạo, Đảng đề ra các định hướng phát triển, quyết định các vấn đề quan trọng đất nước, các vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống của Nhân dân. Vì thế, tính nhân văn của tổ chức đảng nằm ngay trong quá trình nghiên cứu, thảo luận và ban hành các chủ trương, chính sách. Những chủ trương, chính sách đó phải xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, đáp ứng những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, mục tiêu vì Nhân dân và phù hợp với thực tiễn đời sống. Những chủ trương, chính sách xa rời thực tiễn, không vì Nhân dân sẽ dẫn đến sai lầm về đường lối, từ đó kéo theo những sai lầm trong tổ chức thực hiện, mà hệ lụy của nó ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống Nhân dân.
Với vai trò là lực lượng lãnh đạo, tổ chức đảng phải thực sự là chuẩn mực về việc tuân thủ các nguyên tắc hoạt động của Đảng cách mạng kiểu mới, là tổ chức tiên phong của những con người cách mạng, sống với nhau “có lý có tình”. Chuẩn mực đạo đức của mỗi tổ chức là yếu tố nền tảng tạo thành văn hóa tổ chức – văn hóa Đảng, nó trái ngược với chủ nghĩa hình thức, bệnh quan liêu, lợi ích nhóm, tình trạng bè cánh trong tổ chức.
Đảng là một khối đoàn kết thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cương lĩnh, điều lệ, đường lối, chính sách của Đảng và lợi ích chung của đất nước, dân tộc, giai cấp. Các nhà mác-xít đã chỉ ra trong điều kiện đảng cầm quyền, sự bất đồng dù nhỏ có thể dẫn đến sự nguy hiểm về chính trị, bởi đó là nguồn gốc của sự chia rẽ trong nội bộ, tự nó phá hoại sức mạnh của Đảng. Sự đoàn kết, thống nhất ở đây không phải là xuôi chiều, hình thức mà phải trên cơ sở thường xuyên và nghiêm túc tự phê bình và phê bình trong mỗi cá nhân, trong đơn vị, giữa các cấp, giữa cá nhân với tổ chức, giữa Nhân dân với Đảng để khắc phục sai lầm và khuyết điểm, phát huy ưu điểm.
Xây dựng mối liên hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, kiên quyết đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng. Mối liên hệ giữa Đảng với Nhân dân không chỉ là tiêu chuẩn của một đảng chân chính mà còn là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng, là vấn đề cơ bản trong xây dựng Đảng, nguồn gốc sức mạnh của Đảng. Xây dựng ý thức gần Dân, phục vụ Nhân dân, lắng nghe Nhân dân, biết trân trọng và huy động nguồn lực vô tận từ “tài dân, sức dân, của dân”, thực hiện tốt cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”4.
Xây dựng Đảng là một tổ chức kỷ cương, kỷ luật, dân chủ, cấp trên tạo thuận lợi cho cấp dưới hoàn thành tốt nhiệm vụ; cấp dưới tôn trọng và phục tùng cấp trên. Đảng là một tổ chức chính trị, nhưng sự gắn kết giữa các thành viên trong Đảng không chỉ bởi mục tiêu chính trị, nhiệm vụ chính trị mà còn bền chặt, sâu sắc hơn bởi tình yêu thương con người lẫn nhau của người cùng chung lý tưởng cao đẹp.
Xây dựng ý thức tôn trọng, chấp hành và phục tùng pháp luật của tổ chức Đảng, của mọi đảng viên từ những đảng viên giữ chức vụ cao nhất trong hệ thống tổ chức Đảng và bộ máy chính quyền, không có vùng cấm trong áp dụng pháp luật. Có như vậy, trong điều kiện đảng cầm quyền, mới có thể ngăn chặn tình trạng chuyên quyền, lạm quyền, đặc quyền, đặc lợi.
Xây dựng bản lĩnh chính trị cho đảng viên, dám dũng cảm nhận và quyết tâm sửa chữa sai lầm, khuyết điểm; có tinh thần đấu tranh kiên quyết, không khoan nhượng với các biểu hiện đa dạng của chủ nghĩa cá nhân, chống bệnh kiêu ngạo cộng sản, chống hiện tượng “tự diễn biến”, “tự suy thoái”, chống tham ô, tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Cuộc đấu tranh đó trước hết là đấu tranh trong chính bản thân mỗi người, giữa lý tưởng và hiện thực, giữa nhiệm vụ phụng sự với nhu cầu, lợi ích tầm thường, để có thể chiến thẳng “kẻ thù trong lòng”, chiến thắng ham muốn vật chất không chính đáng. Bên cạnh đó, cần xây dựng tinh thần cách mạng, đấu tranh kiên quyết với tư tưởng, quan điểm và hoạt động sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ. Bản lĩnh chính trị đó trong thời đại hội nhập và phát triển hiện nay còn là sự dũng cảm “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”5.
Xây dựng tinh thần khiêm tốn, cầu thị, không ngừng học hỏi. V.I.Lê-nin từng nói, người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng trí thức mà nhân loại đã tạo ra. Có tinh thần học hỏi đó mới không bị lạc hậu, mới theo kịp sự tiến bộ của Nhân dân, của đất nước và thời đại, nhất là trong thời đại kinh tế tri thức và công nghệ số hiện nay.
Mỗi đảng viên, mà trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải tự giác nêu gương “để khẳng định vị trí lãnh đạo, vai trò tiên phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng”6. Nêu gương trong các mặt công tác, trong đời sống; nêu gương trong Đảng và trước Nhân dân; nêu gương từ lời nói đến hành động; về tác phong, nề nếp làm việc, ứng xử với đồng chí và Nhân dân, trong tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng…
Trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, lợi ích dân tộc quốc gia và lợi ích giai cấp, lợi ích quốc tế đa dạng, phức tạp, đan xen lẫn nhau. Vì vậy, đòi hỏi Đảng phải “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”7.
Xây dựng ý thức đạo đức cách mạng và tổ chức thực hành đạo đức cách mạng là công việc thường xuyên, lâu dài, bền bỉ của Đảng. Thông qua việc tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện đạo đức, các quan điểm, tư tưởng đạo đức cách mạng được chuyển hóa, trở thành tình cảm đạo đức cách mạng; các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức thành lẽ sống, lương tâm, danh dự của Đảng và đảng viên; từ các đòi hỏi của Đảng và xã hội đối với người đảng viên thành nhu cầu nội tâm, hành vi tự giác rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời, trong công tác và cuộc sống đời thường.
Nguyên tắc xây dựng Đảng về đạo đức
Xây dựng Đảng về đạo đức phải trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tuân theo những nguyên tắc xây dựng và thực hành đạo đức mới, phải tu dưỡng suốt đời, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, xây đi đối với chống.
Xây dựng Đảng về đạo đức gắn với giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và các quy định của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên. Đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra tổ chức đảng, đảng viên thực hiện Cương lĩnh, Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng Đảng về đạo đức cho đảng viên không thể chỉ bằng tu dưỡng đạo đức, mặc dù đó là yêu cầu đầu tiên. Việc giáo dục, rèn luyện và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng chỉ có hiệu quả khi thiết lập chế độ “kỷ luật sắt” trong Đảng và nền pháp chế trong xã hội. Kỷ luật và pháp luật phải đảm bảo vừa răn đe, đề phòng, hạn chế sự vi phạm kỷ luật, vừa xử lý nghiêm khắc những hành vi, hiện tượng vi phạm đạo đức của Đảng. Không thể để bất cứ cán bộ, đảng viên nào nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát của tổ chức, của Nhân dân; không có “vùng cấm”, “hạ cánh an toàn”, không có “đặc quyền” hay ngoại lệ. Bên cạnh đó, phát huy vai trò của Nhân dân và kiến tạo môi trường lành mạnh trong Đảng, trong xã hội cũng là phương thức hữu hiệu để xây dựng và thực hành đạo đức Đảng một cách chắc chắn, bền vững.
Xây dựng Đảng về đạo đức phải đi liền với chỉnh đốn Đảng, đây là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phải trên cơ sở xây dựng mà chỉnh đốn và chỉnh đốn nhằm loại trừ những yếu tố lạc hậu, tiêu cực, bổ sung nguồn lực mới, làm giàu và phát triển lên nội lực đang có, làm cho Đảng vững mạnh hơn, trong sạch hơn. Mỗi giai đoạn lịch sử đặt ra nhiệm vụ khác nhau và yêu cầu ngày càng cao hơn, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng phấn đấu, rèn luyện đáp ứng nhu cầu thực tiễn, sự kỳ vọng của Nhân dân. Trong chiến tranh, ở mỗi bước ngoặt quan trọng, những trận đánh quyết định, Đảng tiến hành chiến dịch chỉnh quân, chỉnh Đảng nhằm kịp thời uốn nắn tư tưởng hoang mang, dao động hay chủ quan, tự mãn; củng cố tinh thần, động viên cán bộ đảng viên, chiến sĩ để hoàn thành nhiệm vụ. Trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới, Đảng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên không chỉ có lòng nhiệt tình mà còn phải có năng lực, trí tuệ, tinh thần sáng tạo, chủ động giải quyết những công việc diễn ra rất phức tạp, đa dạng trong thực tiễn cũng như không ngừng đấu tranh chống lại mọi sự cám dỗ của vật chất, danh vọng, địa vị, giữ vững bản chất cách mạng. Như vậy, xây dựng Đảng đi đôi phòng chống suy thoái về đạo đức; đấu tranh mạnh mẽ và kiên quyết với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về chính trị, tư tưởng và các hiện tượng vi phạm các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Xây dựng Đảng về đạo đức xuất phát từ nhu cầu thực tiễn, nhằm giải quyết vấn đề từ thực tiễn. Sự thay đổi về môi trường xã hội tất yếu dẫn đến sự lạc hậu, kém hiệu quả của một số nội dung, phương pháp của công tác xây dựng Đảng về đạo đức. Nói cách khác, thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu, xây dựng một cách đồng bộ những nội dung, phương pháp phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Cùng với nội dung giáo dục lý tưởng, chính trị, hiện nay cần trang bị cho đảng viên những hiểu biết về môi trường xã hội, các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường, những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa thời kỳ hội nhập quốc tế. Hiện nay, nhiều vấn đề mới nảy sinh từ cơ chế thị trường như vai trò của Đảng trong các doanh nghiệp nhà nước, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân, nạn tham nhũng, hối lộ, tệ nạn sùng bái lợi ích vật chất… đang tác động mạnh mẽ đến đạo đức cách mạng của đảng viên cũng như toàn xã hội. Bởi vậy, trong việc xây dựng Đảng về đạo đức, cần kết hợp nghiên cứu lý luận về xây dựng đạo đức trong Đảng với tổng kết thực tiễn, thường xuyên xem xét các nghị quyết, chỉ thị nói chung, liên quan đến đạo đức nói riêng đã thi hành đến đâu, thi hành như thế nào, nếu không sẽ chỉ là lời nói suông, gây tổn hại đến lòng tin của Nhân dân. Cần làm cho việc xây dựng Đảng về đạo đức trở thành một nhu cầu văn hóa, động lực tu dưỡng, rèn luyện và được minh chứng cụ thể thông qua hành động thực tiễn của mỗi cán bộ, đảng viên.
Xây dựng Đảng về đạo đức không tách rời trong tổng thể các nội dung xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều kiện hiện nay. Xây dựng Đảng về đạo đức là sự kết hợp giữa giáo dục nhận thức với bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm cách mạng, hình thành niềm tin khoa học và thực hành đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Thiếu vắng hoặc xem nhẹ yếu tố đạo đức trong xây dựng Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền sẽ dẫn tới tới tình trạng suy thoái, biến chất trong Đảng; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ trở nên xa lạ với cuộc sống; các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng bị vi phạm, phá vỡ sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức là tạo ra những điều kiện đảm bảo cho việc thực hành đạo đức trong Đảng, bởi chính trị có vững, lý tưởng có kiên định và tổ chức có tốt thì đạo đức cách mạng mới được củng cố và phát huy. Đó chính là vấn đề tạo lập môi trường tích cực để nuôi dưỡng, bảo vệ các giá trị đạo đức trong Đảng, trong xã hội chống lại các biểu hiện phi đạo đức
Xây dựng Đảng về tư tưởng là củng cố, phát triển nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng - lý luận khoa học, chân chính, vì con người. Từ đó, cán bộ, đảng viên có cơ sở lý luận để củng cố niềm tin vào con đường, lý tưởng của Đảng, vững vàng, không bị dao động trước những tác động tiêu cực hay những khó khăn, sai lầm, thất bại tạm thời. Bên cạnh đó, xây dựng Đảng về đạo đức cần triển khai trên một nền tảng đổi mới tư duy lý luận về xây dựng Đảng, cụ thể là tư duy mới về đạo đức, đó là đạo đức hành động, đem lại kết quả thiết thực với đời sống của Nhân dân chứ chỉ không chỉ là việc nêu ra chuẩn mực chung chung.
Xây dựng Đảng về chính trị làm cho Đảng luôn giữ vững bản chất cách mạng, định hướng chính trị, không ngừng nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và qua đó không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, làm cho đạo đức thấm sâu, lan tỏa từ chủ trương, chính sách đến hành động thực tiễn của các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên. Mặt khác, khi đã có tư tưởng đạo đức tiến bộ, chủ trương, đường lối chính trị đúng thì nhân tố quyết định để thực hiện chính là tổ chức và cán bộ. Từ tư tưởng đạo đức đến thực hành đạo đức cần thông qua hoạt động của những con người cụ thể và được bảo đảm bằng ý thức tự giác của mỗi đảng viên và nguyên tắc, quy định, kỷ luật của tổ chức Đảng. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng mà các nhà mác-xít nêu ra như tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh, tự giác; đoàn kết, thống nhất trong Đảng… được xây dựng trên cơ sở vận dụng và phát triển những quy chuẩn đạo đức của xã hội vào tổ chức và hoạt động của một đảng chính trị. Không đảm bảo thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt, Đảng không thể tồn tại và phát triển được.
Yêu cầu, hiệu quả của việc xây dựng và thực hiện các chuẩn mực đạo đức trong xây dựng Đảng không thể tách rời một loạt các điều kiện về đánh giá sử dụng, loại trừ thành phần thoái hóa khỏi Đảng, chế độ đãi ngộ với cán bộ, đảng viên. Làm tốt công tác cán bộ là khâu quyết định xây dựng Đảng về đạo đức.
Xây dựng Đảng về đạo đức là vấn đề được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra từ trước khi thành lập tổ chức Đảng và là nội dung xuyên suốt trong quá trình tồn tại, phát triển của Đảng. Trong điều kiện hiện nay, khi Đảng lãnh đạo đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, cũng như khi đối diện với những khó khăn, thách thức mới, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức càng được coi trọng hơn. Vấn đề này cần có những nhận thức mới, những nội dung và nguyên tắc cụ thể, phù hợp hơn với những biến đổi của thực tiễn, để Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh”, luôn đại diện cho giá trị tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới./.
St

NGƯỜI CON ƯU TÚ CỦA ĐẢNG VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

 Toàn bộ cuộc đời, sự nghiệp của Tổng Bí thư Trần Phú từ lúc bước vào con đường hoạt động cách mạng đến hơi thở cuối cùng là một trang sử chói lọi, tràn đầy năng lực trí tuệ và bản lĩnh; kiên định và vững vàng; trung thành và lạc quan; bất khuất và hiên ngang.

Đồng chí Trần Phú là người con ưu tú của Đảng và dân tộc Việt Nam, thể hiện qua suy nghĩ và hành động ngay khi còn học tại Trường Quốc học Huế.
Trần Phú thuộc lớp thanh niên ưu tú thời dựng Đảng, nồng nàn yêu nước, khát khao lý tưởng cách mạng, tràn đầy hoài bão và nhiệt huyết cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Tuổi trẻ Trần Phú sớm có ý thức định hình, định hướng về cách mạng. Khi làm giáo viên tiểu học, Trần Phú đã khơi dậy tinh thần yêu nước, căm thù bọn xâm lược cho học sinh; truyền cảm hứng về niềm tự hào, truyền thống văn hóa-lịch sử, đấu tranh chống ngoại xâm của quê hương và dân tộc.
Trần Phú nhạy cảm với tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga, với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Lòng nhiệt huyết và nhạy bén chính trị đó đã sớm đưa Trần Phú tham gia tổ chức Hội Phục Việt và đến với tư tưởng cách mạng. Khi được gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, dự lớp huấn luyện do Người trực tiếp giảng dạy, Trần Phú đã nhanh chóng chuyển biến từ lập trường yêu nước có tinh thần cách mạng sang lập trường yêu nước cách mạng, quyết tâm đi theo con đường cách mạng mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra, nguyện cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Với trí tuệ lớn, bản lĩnh, năng động, sáng tạo, đồng chí Trần Phú để lại cho Đảng ta, dân tộc ta và cách mạng Việt Nam bản Luận cương chính trị có giá trị sâu sắc về cả lý luận và thực tiễn.
Cùng với Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được Hội nghị thành lập Đảng thông qua, thì Luận cương chính trị (còn gọi là Luận cương cách mạng tư sản dân quyền) do Trần Phú khởi thảo, được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (tháng 10-1930) thông qua là những cương lĩnh chính trị có ý nghĩa lớn định hướng lâu dài cho cách mạng Việt Nam. Nội dung luận cương cơ bản thống nhất và khẳng định lại nhiều vấn đề cốt yếu thuộc về chiến lược cách mạng nước ta mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu lên, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là: “Cách mạng tư sản dân quyền là thời kỳ dự bị tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, không qua thời kỳ phát triển tư bản. Nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc và đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân”. Luận cương khẳng định hai động lực chính của cách mạng là giai cấp vô sản và giai cấp nông dân, nhưng giai cấp vô sản là động lực rất mạnh, là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Điều kiện cốt yếu cho thắng lợi của cách mạng Đông Dương là phải có một Đảng Cộng sản lãnh đạo với một đường lối chính trị đúng, kỷ luật tập trung, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin làm gốc, liên lạc mật thiết với quần chúng. Cách mạng Đông Dương là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới.
Đáng chú ý là trong Luận cương có một số điểm được cụ thể hóa hơn, xác định thêm một cách đúng đắn như phương pháp cách mạng, tình thế trực tiếp của cách mạng. Khi có thời cơ thì Đảng phải lãnh đạo khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay công nông. Bàn tới mối quan hệ khăng khít, mật thiết giữa mục đích trước mắt và mục đích lâu dài của cách mạng, Luận cương cho rằng không chú ý mục đích hằng ngày là rất sai lầm, nhưng chỉ chú ý mục đích hằng ngày mà không chú ý mục đích lớn, cuối cùng cũng là rất sai lầm.
Dưới ánh sáng của Luận cương và những chỉ đạo sát sao của Tổng Bí thư Trần Phú, phong trào cách mạng của quần chúng dấy lên sôi nổi, mạnh mẽ. Công nhân và nông dân bắt tay nhau giữa trận tuyến chống xâm lược và tay sai bán nước, tiến tới cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, một cao trào cách mạng đã có ảnh hưởng lớn, tỏ rõ tinh thần anh dũng luôn luôn nồng nàn trong tâm hồn quần chúng, mở đường cho thắng lợi về sau.
Luận cương cho thấy sự nỗ lực, cố gắng cao độ của một trí tuệ lớn, bản lĩnh, năng động, sáng tạo. Đồng chí Trần Phú đã vận dụng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của Quốc tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa và những luận điểm cơ bản trình bày trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt. Luận cương thể hiện một trái tim nhiệt huyết, một bộ óc thông minh, luôn luôn suy nghĩ đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc và cách mạng lên trên hết, trước hết.
Những hạn chế mặt này, mặt khác của Luận cương là điều dễ hiểu, là biện chứng của sự phát triển. Bởi vì mỗi bản cương lĩnh cũng như nhiều tác phẩm lý luận khác từ xưa đến nay đều là sản phẩm nhận thức của một thời kỳ lịch sử cụ thể. Đánh giá Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thấm nhuần Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn. Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình".
Là người đứng đầu đội tiên phong của giai cấp công nhân và của dân tộc, Tổng Bí thư Trần Phú tỏ rõ là một nhà lãnh đạo xuất sắc, người chiến sĩ cộng sản kiên trung của Đảng, của dân tộc và cách mạng Việt Nam.
Trên cương vị Tổng Bí thư, đồng chí Trần Phú đã cùng Ban Thường vụ Trung ương chỉ đạo soạn thảo, hoàn thiện các văn kiện về tổ chức Đảng, dân vận, Mặt trận...; lãnh đạo cuộc đấu tranh tư tưởng trong Đảng chống lại các tư tưởng cơ hội, lệch lạc, đầu cơ, biệt phái...; tuyên truyền, giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin; khẳng định bản chất giai cấp công nhân trong Đảng; củng cố tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở; xây dựng và tăng cường sức chiến đấu của chi bộ đảng.
Tổng Bí thư Trần Phú có đóng góp lớn về công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; trang bị lý luận Mác-Lênin; khắc phục bệnh ấu trĩ tả và hữu khuynh trong Đảng; kiện toàn các cơ quan đảng từ Trung ương đến các đảng bộ cơ sở.
Tổng Bí thư Trần Phú là người học trò xuất sắc của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh, tấm gương sáng về chí khí chiến đấu, để lại nhiều bài học quý cho Đảng ta hôm nay.
Trước hết, cần khẳng định Đảng ta là một Đảng cầm quyền, phải có một đường lối lãnh đạo đúng đắn, đó là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đảng phải kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; kiên định đường lối đổi mới vì hạnh phúc của nhân dân.
Hai là, Đảng cần phải nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng theo tinh thần “bôn sê vích hóa” Đảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức, cán bộ; phải kiên quyết chống lại mọi biểu hiện làm lệch lạc đường lối của Đảng, những xu hướng cơ hội, bè phái; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; phải xây dựng sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình trên cơ sở cương lĩnh của Đảng, làm cho Đảng ta trở thành một Đảng chân chính cách mạng thực sự, luôn luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên hết, trước hết. Một vấn đề không phải định mệnh nhưng có tính quy luật: Ở đâu, lúc nào Đảng không tự hoàn thiện mình, không sớm thì muộn, sẽ giảm dần và đi tới mất năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng.
Ba là, trong mọi hoàn cảnh, mỗi cán bộ, đảng viên phải “giữ vững chí khí chiến đấu”, kiên quyết, kiên trì quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với mọi khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung; chống thói vô trách nhiệm, sợ trách nhiệm, né trách nhiêm. Phải kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả của công cuộc đổi mới, bảo vệ nhân dân; xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, tự do, hạnh phúc./.
ST

BA CHIẾN CÔNG CỦA LỰC LƯỢNG QUÂN BÁO, TRINH SÁT TRONG CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ

 TẤM BẢN ĐỒ CÓ GIÁ TRỊ BẰNG VÀNG

Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng, núi cao bao quanh, rừng rậm hiểm trở. Trong khi đó, địch luôn tổ chức lùng sục nhằm phát hiện, truy quét lực lượng trinh sát của ta, khiến hoạt động quân báo, trinh sát gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, vượt qua các trở ngại, lực lượng trinh sát của Tiểu đoàn 122 đã lập chiến công lớn trước giờ nổ súng.
Cuối năm 1953, đầu năm 1954, Mặt trận Điện Biên Phủ đã trở thành trọng tâm số một của tình báo các bên. Phó cục trưởng Cục Quân báo Cao Pha được phân công cùng một bộ phận Phòng 2 đặc trách Mặt trận Điện Biên Phủ. Ngày ấy trên bản đồ Bắc Bộ, Điện Biên Phủ chỉ là một chấm nhỏ mà không có mấy thông tin. Bản đồ quân sự vì thế trở thành một yêu cầu hết sức cấp thiết cho hoạt động tác chiến.
Thành lập ban quân báo chiến dịch điện biên phủ
Cuối năm 1953, địch đã tập trung lực lượng khá lớn ở Bắc Bộ, gồm 112 tiểu đoàn, trong đó có 44 tiểu đoàn cơ động; 18 tiểu đoàn và 19 đại đội pháo binh; 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn và 2 đại đội thiết giáp; 7 tiểu đoàn và 8 đại đội công binh. So sánh về lực lượng, phương tiện khi đó, quân số của ta trên chiến trường Bắc Bộ chỉ bằng 2/3 của địch, 76 tiểu đoàn/112 tiểu đoàn; binh khí kỹ thuật lại càng kém hơn. Đầu năm 1954, thực dân Pháp xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, có công sự hầm hào kiên cố, chia thành ba phân khu: Phân khu Bắc, Phân khu Trung tâm và Phân khu Nam. Chúng cho rằng Điện Biên Phủ là “pháo đài bất khả xâm phạm” và sẵn sàng nghiền nát bộ đội chủ lực của ta.
Để tiếp tục nghiên cứu sâu tình hình, tương quan và bố trí lực lượng của địch, tháng 11-1953, Ban Quân báo Chiến dịch Điện Biên Phủ được thành lập gồm các bộ phận: Nghiên cứu, Cung tù binh, Binh địa và Đồ bản. Ban Quân báo Chiến dịch Điện Biên Phủ do Cục trưởng Cục Quân báo Lê Trọng Nghĩa làm Trưởng ban, Cục phó Cao Pha làm Phó ban. Lực lượng trinh sát kỹ thuật gồm một trung đội, 10 máy thu; lực lượng trinh sát bộ đội do đồng chí Nguyễn Việt phụ trách. Ngoài lực lượng của Tiểu đoàn 122 của Cục Quân báo còn có các đại đội trinh sát, các Ban 2 của các đại đoàn, các đại đội trinh sát và Tiểu ban 2 của các trung đoàn bộ đội. Đồng chí Nguyễn Việt được Cục Quân báo cử đi cùng Cục phó Cao Pha theo Bộ Chỉ huy tiền phương của Bộ lên Điện Biên Phủ chuẩn bị chiến dịch.
Ở Điện Biên Phủ, đồng chí Nguyễn Việt được Cục trưởng Cục Quân báo Lê Trọng Nghĩa giao nhiệm vụ trực tiếp chỉ đạo lực lượng trinh sát địch. Cụ thể, Đại đội 62 của Tiểu đoàn 122 có nhiệm vụ bám địch ở Phân khu Trung tâm. Đại đội 63, Tiểu đoàn 122 bám địch ở phía Him Lam. Tin tức hàng ngày phải thường xuyên, kịp thời báo cáo về Bộ Chỉ huy tiền phương và Bộ Chỉ huy chiến dịch, kết hợp với tin trinh sát kỹ thuật và các nguồn tin khác giúp cho Bộ có cơ sở nhận định, đánh giá, kết luận chính xác về tình hình địch.
Trong tháng 11-1953, khi Tổng Quân ủy và Bộ Tổng tư lệnh phổ biến nghị quyết của Bộ Chính trị và Kế hoạch tác chiến Đông-Xuân 1953-1954 thì ngày 20-11-1953, lực lượng trinh sát kỹ thuật của Cục phát hiện địch mở cuộc hành quân cấp tốc, đổ quân tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ (6 tiểu đoàn với 4.500 tên). Thông tin đã được kịp thời chuyển về phục vụ Bộ Tổng tư lệnh chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung kế hoạch tác chiến, trong chiến cuộc Đông-Xuân 1953-1954 của ta.
Trước tình hình địch tăng cường lực lượng tại Điện Biên Phủ, Bộ Quốc phòng giao nhiệm vụ cho Cục Quân báo xác định: Địch đóng ở lại Điện Biên Phủ hay chúng rút? Để phục vụ Bộ nghiên cứu chính xác tình hình của tập đoàn cứ điểm, Tiểu đoàn 122 đã tổ chức cho cán bộ, chiến sĩ Đại đội 62 đặt đài quan sát bí mật nắm các hoạt động của địch; ban ngày quan sát theo dõi, ghi nhật ký; ban đêm tiềm nhập để điều tra xác minh. Đại đội đã tổ chức nhiều nhóm, mũi phát hiện địch, nắm địa hình, nhưng gặp rất nhiều khó khăn do địch tổ chức tuần tra, lùng sục liên tục.
Sau khi tiềm nhập trinh sát nhiều lần các điểm cao phía Đông đồi A1, đồi C, đồi D, và khu vực phía Nam sân bay Mường Thanh, kết hợp chặt chẽ với lực lượng trang bị vô tuyến điện sóng cực ngắn để trinh sát phát hiện mạng thông tin của địch, Đại đội 62 đã phát hiện địch tổ chức đào giao thông hào, xây dựng lô cốt và các cứ điểm kiên cố. Dựa trên kết quả đó, Tiểu đoàn 122 báo cáo kịp thời về Cục Quân báo, khẳng định địch chiếm đóng Điện Biên Phủ lâu dài. Bên cạnh đó, những ngày cuối tháng 12-1953, Đại đội 62 đã phục vụ thu thập tin tức, điều tra và phối hợp với đơn vị bạn tổ chức hai lần phục kích bắt được một số tù binh và tập kích phá hủy một máy bay hai thân C119, một máy bay vận tải, bắt sống 13 lính dù, thu 200 chiếc dù, 30 hòm đại bác 105mm.
Tấm bản đồ có giá trị “bằng vàng”
Đêm 24-12-1953, Phân đội trinh sát thuộc Đại đội 62 gồm 6 đồng chí, do đồng chí Phân đội phó Trần Phận chỉ huy, cùng 6 đồng chí tổ chức tiềm nhập điều tra địch, đánh bắt tù binh, khai thác tin tức tại khu vực sân bay Mường Thanh. Khi vào đến vị trí và đang ém quân tại chân hàng rào dây thép gai, Phân đội phát hiện địch thả rất nhiều dù, trong đó có một chiếc dù màu đỏ. Phân đội đã nhanh chóng tiếp cận lấy chiếc dù đỏ, đưa về vị trí ém quân kiểm tra, phát hiện trong dù chứa ba hòm, trong đó một hòm gỗ và hai hòm sắt. Hòm gỗ chứa thực phẩm, hai hòm sắt có 25 bản đồ vùng lòng chảo Điện Biên Phủ tỷ lệ 1:25.000 và 32 bức ảnh ghép cảnh bản đồ khu vực Điện Biên Phủ. Những bản đồ này có giá trị đặc biệt về quân sự, thể hiện tương đối đầy đủ và chi tiết các yếu tố địa hình, địa vật, bình độ, phục vụ kịp thời cho hoạt động tác chiến của ta.
Sự kiện này được báo cáo lên Bộ Tham mưu mặt trận. Tham mưu trưởng mặt trận Hoàng Văn Thái vô cùng mừng rỡ, lập tức chuyển cho Phòng Đồ bản - Bộ Tổng Tham mưu nhân thêm thành 50 tấm bản đồ và 48 ảnh ghép cảnh đồ, tức tốc gửi tới các đơn vị tham chiến, kịp thời phục vụ công tác tham mưu mặt trận, đặc biệt là phục vụ cho tác chiến hiệp đồng giữa bộ binh và pháo binh. Phó cục trưởng Cục Quân báo Cao Pha tiếp tục trực tiếp trinh sát trận địa Điện Biên Phủ, đôn đốc lực lượng lên sơ đồ và sa bàn mặt trận.
Từ những địa điểm không tên tuổi, với tấm bản đồ, những địa danh mà giờ đây đã đi vào lịch sử lần lượt hiện lên. Đó là những đồi A1, C1, những Him Lam, Hồng Cúm... Tất cả các mục tiêu của địch đều xuất hiện đầy đủ trên sa bàn, cho thấy hệ thống phòng ngự của địch không chỉ vững chắc ở phía Đông mà đã tăng cường tuyến phòng thủ kiên cố ở phía Tây, dọc sân bay vào trung tâm, trên các hướng tiến công chính của Đại đoàn 312 và Đại đoàn 308.
Những dữ kiện cực kỳ quan trọng do tình báo quân sự thu được này cũng cho thấy ta không còn khả năng đánh nhanh, giải quyết nhanh ở Điện Biên Phủ như dự định ban đầu nữa. Với thành tích đó, Phân đội trinh sát đã được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất; đồng chí Trần Phận được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Hai ngay tại mặt trận. Bản chính tấm bản đồ chiến lợi phẩm đặc biệt quan trọng này hiện đang được Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam lưu giữ.
Nhà báo Pháp Béc-na Phôn khi có mặt tại Sở Chỉ huy chiến dịch quân viễn chinh Pháp tại Điện Biên Phủ đã viết: “…Những thiệt hại về sinh lực của quân đội Pháp đã là một tổn thất nặng thì việc Việt Minh thu được những tấm bản đồ tỷ lệ 1:25.000 khu vực Điện Biên Phủ mới in là một mất mát lớn hơn. Từ bản đồ này, pháo binh Việt Minh có điều kiện chỉ huy bắn với độ chính xác cao gây thiệt hại nặng cho quân viễn chính Pháp sau này…”./.
ST