Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI!

BÀI 1: KHÔNG PHẢI LÀ “ SỰ CÁO CHUNG CỦA LỊCH SỬ”!
     Sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) hiện thực ở Liên Xô và một số nước Đông Âu sụp đổ (năm 1991), trên thế giới xuất hiện luận thuyết chính trị về "sự cáo chung của lịch sử” với hàm ý chủ nghĩa tư bản (CNTB) sẽ vĩnh viễn ngự trị trên thế giới, còn chủ thuyết về CNXH được xây dựng trên cơ sở hệ tư tưởng Mác-Lênin sẽ bị lịch sử đào thải. Tuy vậy, những thành tựu to lớn trong xây dựng CNXH ở một số nước đã khẳng định nhận định trên là vội vàng, quy chụp. Sự thật cho thấy, sự phát triển của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) đang minh chứng rõ ràng về xu hướng đi lên CNXH là quy luật tất yếu của lịch sử loài người!

Diễn biến tình hình thế giới trong hơn 30 năm kể từ khi mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô sụp đổ đã đặt dấu hỏi nghi vấn về luận thuyết chính trị “sự cáo chung của lịch sử”. Vì thực tế một số quốc gia rất thành công khi vẫn kiên định lựa chọn con đường phát triển đi lên CNXH, điển hình là Trung Quốc, Việt Nam và một số nước khác. Trong khi đó, CNTB trong kỷ nguyên toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh đã lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống, đẩy thế giới tới tình cảnh bất bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội ngày một lớn.

Những khiếm khuyết khó có thể lấp đầy dưới chế độ tư bản
Sau Chiến tranh lạnh, CNTB từng bước lâm vào cuộc khủng hoảng hệ thống; mức sống của người dân ngày càng giảm sút do giá cả và lạm phát tăng cao; người dân phải đóng thuế cho các cuộc chiến tranh và xung đột triền miên; sự suy thoái các giá trị tinh thần-đạo đức truyền thống; tệ quan liêu của giới tinh hoa chính trị cầm quyền; tệ tham nhũng; nạn di cư ồ ạt trên phạm vi toàn cầu; sự biến đổi khí hậu trái đất chưa được ngăn chặn; nạn ma túy, chủ nghĩa khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia hoành hành ở nhiều nước trên thế giới.

Nhận định về cuộc khủng hoảng của CNTB, cựu Thủ tướng Đức Angela Merkel từng nói: “Đã đến lúc thế giới phải chấp nhận thực tế là, sau gần một phần tư thế kỷ kể từ khi nước Đức thống nhất và kết thúc Chiến tranh lạnh, thế giới đang bước sang một kỷ nguyên lịch sử khác thay thế kỷ nguyên ưu thế thuộc về phương Tây”.

Diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos năm 2019 với chủ đề “Toàn cầu hóa 4.0: Định hình cấu trúc thế giới trong kỷ nguyên Cách mạng công nghiệp lần thứ tư” đưa ra nhận định, CNTB thế giới đang bước vào kỷ nguyên của những chuyển dịch căn bản do tác động của cục diện kinh tế và chính trị trên phạm vi toàn cầu trong giai đoạn chuyển tiếp từ Cách mạng công nghiệp 3.0 tới Cách mạng công nghiệp 4.0, trong đó đang diễn ra quá trình sắp xếp lại bức tranh kinh tế và chính trị toàn cầu.

Trong bối cảnh đó, đại dịch Covid-19 đã phần nào phơi bày những “ung nhọt” của các nước tư bản hàng đầu thế giới. Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres nhận định: “Đại dịch Covid-19 chứng tỏ, đã đến lúc thế giới (CNTB) cần tiến hành công cuộc tái cấu trúc hướng tới mục tiêu xây dựng nền kinh tế và cộng đồng xã hội bình đẳng, toàn diện, bao trùm, có khả năng phát triển bền vững hơn khi phải đối mặt với các rủi ro như đại dịch, biến đổi khí hậu, sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp dân cư, nạn nghèo đói, sự cạn kiệt tài nguyên, nạn ô nhiễm môi trường trên quy mô toàn cầu, tội phạm xuyên quốc gia và khủng bố quốc tế"(1). 

Đại dịch Covid-19 chứng tỏ mô hình dân chủ tự do ở đa số các nước phương Tây không còn là khuôn mẫu thế giới, làm tan biến huyền thoại về tính ưu việt của mô hình kinh tế và chính trị của CNTB. Giáo sư Klaus Schwab, Chủ tịch Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2020 nhận định: Khi Covid-19 mới bùng phát, nhiều người dự báo đại dịch này sẽ tạo ra sự bình đẳng vĩ đại, trong đó không còn phân biệt người nghèo và người giàu, nhưng thực tế lại chứng tỏ đại dịch này đã khoét sâu thêm sự bất bình đẳng trong xã hội. Nếu không có các biện pháp hóa giải, tất cả các quốc gia, dưới hình thức này hay hình thức khác, sẽ phải đối mặt với sự bất ổn xã hội ngày càng gia tăng. Đại dịch Covid-19 đã đẩy CNTB thế giới tới trước một sự lựa chọn mang tính lịch sử: Tiếp tục phát triển theo mô hình hiện hành mà không thể hóa giải được những thách thức mang tính toàn cầu hoặc là phải tái cấu trúc để chuyển sang mô hình khác có khả năng hóa giải các thách thức đó(2).

Chủ nghĩa tư bản không ngừng điều chỉnh để thích nghi
Để tái cấu trúc mô hình hiện hành của CNTB, nhóm chuyên gia kinh tế hàng đầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới đề xuất phát triển nền kinh tế bao trùm, hoặc nền kinh tế toàn diện, với 5 yếu tố: Cùng tham gia, bình đẳng, tăng trưởng, ổn định và bền vững.

“Cùng tham gia” có nghĩa là tạo cơ hội cho tất cả mọi người, không có ngoại lệ, được tham gia các quá trình kinh tế như tiếp cận thị trường với tư cách là người lao động, người tiêu dùng và chủ doanh nghiệp.

“Bình đẳng” có nghĩa là tạo cơ hội cho tất cả mọi người, không có ngoại lệ, được tiếp cận hàng hóa, dịch vụ, cơ sở hạ tầng công cộng, giáo dục, y tế, và được hưởng môi trường không khí trong lành và nước sạch; các công ty phải có nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu của tầng lớp lao động sống dưới mức nghèo khổ.

“Tăng trưởng” có nghĩa là chuyển đổi nền kinh tế để cải thiện điều kiện sống của tất cả mọi người, kể cả người nghèo; thay thế việc sử dụng GDP như là chỉ số tăng trưởng kinh tế bằng các chỉ số khác phản ánh mức độ hạnh phúc của người dân.

“Ổn định” có nghĩa là mọi người dân phải được bảo đảm về xã hội, các quyết sách của chính phủ phải được minh bạch và có thể dự báo được.

“Bền vững” có nghĩa là phải tính đến lợi ích dài hạn khi sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên xã hội và con người(3).

Theo Giáo sư Klaus Schwab, đã đến lúc CNTB phải đổi mới mô hình phát triển. Hiện nay trên thế giới đang vận hành 3 mô hình CNTB. Một là, mô hình CNTB cổ đông (shareholder capitalism) đang được hầu hết các nước tư bản trên thế giới áp dụng nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận bằng mọi giá. Hai là, mô hình CNTB nhà nước (state capitalism) hiện được áp dụng ở đa số các nước đang phát triển, chủ yếu là ở châu Á, trong đó chính phủ nắm trong tay mọi cơ hội, khả năng và đòn bẩy để định hướng phát triển kinh tế. Ba là, mô hình CNTB toàn diện (inclusive capitalism), hoặc CNTB có trách nhiệm xã hội, trong đó các công ty bắt đầu nhận thấy họ không chỉ là tổ chức kinh tế mà còn là tổ chức xã hội, được xã hội ủy thác, hoạt động không chỉ nhằm thu được lợi nhuận và hiệu quả kinh tế cao mà còn phải tập trung nỗ lực khắc phục hậu quả tiêu cực đối với xã hội như sự bất bình đẳng về thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, ô nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp, tham nhũng(4). 

Mô hình được áp dụng nhiều nhất hiện nay trên thế giới là CNTB cổ đông, đã từng trở nên phổ biến ở Mỹ trong thập niên 1970 và lan tỏa trên toàn cầu trong những thập kỷ tiếp theo. Sự phát triển nhanh chóng của mô hình này thu hút hàng trăm triệu người trên khắp thế giới phát triển thịnh vượng, đứng ra thành lập các công ty cổ phần để tìm kiếm thị trường và tạo việc làm nhằm thu về lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, do CNTB cổ đông thường theo đuổi các mục tiêu ngắn hạn và không chú ý đến các mục tiêu dài hạn, nên đã từng gây ra hậu quả tiêu cực đối với xã hội và môi trường. Vì thế, hiện nay, CNTB cổ đông đang từng bước được thay thế bằng CNTB có trách nhiệm xã hội, hoặc CNTB toàn diện. Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cho rằng, với CNTB có trách nhiệm xã hội, thế giới sẽ phải hành động chung và nhanh để cải cách tất cả các lĩnh vực đời sống và nền kinh tế, từ giáo dục đến y tế.  

Như vậy, CNTB thế giới đang đứng trước sự phát triển có tính bước ngoặt lịch sử, phải tiến hành cuộc “tái cấu trúc” hướng tới các giá trị như xóa bỏ bất bình đẳng xã hội, đề cao nhân phẩm con người, xóa bỏ tận gốc tình cảnh nghèo đói và tình trạng thất nghiệp, chống tham nhũng, bảo vệ môi trường, xây dựng hệ thống giáo dục và y tế phổ cập toàn dân... Những giá trị đó tương đồng với mục tiêu và các giá trị của CNXH hiện thực trong thế kỷ 20.

Những giá trị tốt đẹp của CNXH và xu thế tất yếu của thời đại
Không phải ngẫu nhiên mà ngay trong lòng các nước tư bản phát triển hàng đầu thế giới, các giá trị của CNXH lại đang thu hút được sự quan tâm của đông đảo người dân và cả giới tinh hoa chính trị. Có khoảng 57% dân số ở các nước tư bản phát triển hàng đầu thế giới không hài lòng với mô hình CNTB hiện hành ở Mỹ và nhiều nước phương Tây. Các tầng lớp xã hội ở nhiều quốc gia bị vỡ mộng với mô hình dân chủ tự do của CNTB. 

Theo kết quả thăm dò dư luận của Viện Galupp (Mỹ), trong năm 2018, có đến 51% thanh niên Mỹ và 57% đảng viên Đảng Dân chủ Mỹ có cảm tình với các giá trị của CNXH. Ở Cộng hòa Liên bang Đức, người dân đã từng sống ở Cộng hòa Dân chủ Đức đang muốn được quay trở lại chế độ XHCN. Theo kết quả điều tra dư luận xã hội tiến hành trong năm 2023, có tới 80% người Nga được hỏi ý kiến coi chế độ XHCN thời Xô viết là tốt đẹp và có 63% ý kiến tiếc về sự sụp đổ của Liên Xô. Trong bối cảnh đó, Francis Fukuyama, tác giả của luận thuyết về “sự cáo chung của lịch sử” cũng phải thừa nhận rằng mô hình CNTB hiện hành đang trên đà suy thoái.  

Rõ ràng là, CNXH hiện thực sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào cuối thế kỷ 20 hoàn toàn không phải là “sự cáo chung của lịch sử” mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể. Còn CNXH với những giá trị tốt đẹp nhất như là một nấc thang phát triển của loài người để tiến lên chủ nghĩa cộng sản vẫn là xu thế tất yếu của thời đại và đã từng được V.I.Lênin, lãnh tụ của cuộc cách mạng XHCN đầu tiên trên thế giới ở nước Nga dự báo cách đây hơn 100 năm: “CNTB nhà nước độc quyền là sự chuẩn bị vật chất đầy đủ nhất cho CNXH, là phòng chờ đi vào CNXH”(5)./.
------------------------
(1) Valentin Katasonov, “Covid 19 khởi đầu cuộc tái cấu trúc vĩ đại”; https://www.fondsk.ru/news/2020/12/19/covid-19-nachalo-velikoj-perestrojki-52510.html, 19-12-2020
(2) Klaus Schwab và Thierry Malleret,“Cuộc tái cấu trúc vĩ đại”; http://digital-economy.ru/mneniya/the-great-reset-klausa-shvaba-i-terri-mallereta-kak-novyj-manifest-ultraglobalistov, 23-3-2021
(3) Mikhail Overchenko, “Diễn đàn Davos công bố tuyên ngôn cho giới doanh nghiệp”; https://www.vedomosti.ru/economics/articles/2020/01/14/820569-davosskii-forum-manifest-biznesa, 14-1-2020
(4) Klaus Shhwab, “Chúng ta muốn phát triển loại chủ nghĩa tư bản nào?”; https://www.project-syndicate.org/commentary/stakeholder-capitalism-new-metrics-by-klaus-schwab-2019-11, 2-12-2019
(5) “Phân tích của Lênin về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước”; https://laws.studio/istoriya-ekonomiki-knigi/leninskiy-analiz gosudarstvenno-45648.html.
(Còn nữa).
Yêu nước ST.

KHÔNG ĐỂ CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC LÀM ẢNH HƯỞNG ĐẾN CÔNG CUỘC BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN, ĐẢO VIỆT NAM!

     Thời gian qua, lợi dụng những diễn biến phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thông qua nhiều âm mưu nham hiểm nhằm xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam!

Sự nham hiểm của những luận điệu xuyên tạc
Biển là không gian chiến lược mở, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đường lối, chiến lược và tương lai phát triển của đất nước. Biển Đông là “bản lề” nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, là nơi hội tụ lợi ích chiến lược và thu hút sự quan tâm đặc biệt của nhiều quốc gia trong và ngoài khu vực, nhất là các nước lớn. Về mặt tiềm năng phát triển, Biển Đông có nhiều lợi thế. Nơi đây đã và đang trở thành tâm điểm của sự cạnh tranh lợi ích, quyền lực và tầm ảnh hưởng của các nước lớn, được các chuyên gia quân sự ví như vùng “chảo lửa” trên bàn cờ chính trị của khu vực với nhiều diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Lợi dụng tình hình phức tạp trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị khai thác triệt để, biến tấu thành nhiều bài viết, hình ảnh, video nhằm bịa đặt tình hình, bóp méo sự thật, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta trong công tác quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo; lợi dụng các trang mạng xã hội để lan truyền, tán phát thông tin, gây tâm lý hoang mang, bất ổn, chia rẽ đoàn kết trong nước và quốc tế.

Với những nội dung xuyên tạc xảo trá, họ thường lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng: “Cộng sản Việt Nam làm ngơ về vấn đề chủ quyền trên Biển Đông”; Đảng, Nhà nước Việt Nam im lặng vì đã thỏa hiệp với nước lớn, không cung cấp đầy đủ thông tin về tình hình Biển Đông, không có giải pháp đủ mạnh để bảo vệ chủ quyền biển, đảo... Những thông tin xuyên tạc này ít nhiều đã tác động tiêu cực tới nhận thức, tư tưởng, tình cảm, niềm tin của một bộ phận nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta.

Chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bao gồm đất liền, vùng trời, vùng biển và các hải đảo. Quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta là kiên quyết, kiên trì đấu tranh quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không trên các vùng biển, đảo quốc gia. Sinh thời, khi đến thăm cán bộ, chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng, ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”.

Những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng nhiệm vụ phát triển mạnh kinh tế-xã hội, bảo vệ và làm chủ vùng biển của Tổ quốc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 9-2-2007 “Về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”, trong đó xác định: “Phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo”. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 “Về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” đã xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”. Tại Đại hội XIII (năm 2021), Đảng ta một lần nữa khẳng định: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”.

Như vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, tầm quan trọng đặc biệt của biển, đảo là một bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng không thể tách rời, bất khả xâm phạm của Tổ quốc. Bảo vệ Tổ quốc nói chung, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền, bảo đảm an ninh, an toàn và lợi ích quốc gia-dân tộc trên các vùng biển, đảo nói riêng là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quá trình hoạch định và triển khai thực hiện đường lối bảo vệ chủ quyền biển, đảo luôn giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với sức mạnh thời đại và tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để phát triển kinh tế biển gắn với quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia.

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo quốc gia bằng biện pháp hòa bình
Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia-dân tộc. Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và hoàn toàn có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn.

Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Trên thực tế, trong những thời điểm mà quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình trên các diễn đàn quốc tế, khu vực thông qua các cuộc gặp gỡ, trao đổi đoàn các cấp trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao; chủ động kiềm chế, không có các hành động khiêu khích, không làm phức tạp tình hình; thực hiện đầy đủ, hiệu quả Tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và thể hiện thiện chí để sớm đạt được Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC). Xây dựng hệ thống các biện pháp hòa bình để giải quyết bất đồng, tranh chấp với các bên, các nước có liên quan, như biện pháp ngoại giao (đàm phán hòa bình; thương lượng; điều tra; trung gian hòa giải; sử dụng các tổ chức quốc tế, khu vực; ký kết các hiệp định song phương, đa phương...).

Trên tinh thần đó, Việt Nam luôn nỗ lực cao nhất để xử lý các vấn đề tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn trên biển; duy trì quan hệ hữu nghị với các bên, các nước. Kiên trì mục tiêu không để nước ngoài lấn chiếm nhưng cũng không để xảy ra xung đột; kiên trì tìm kiếm giải pháp lâu dài và yêu cầu các bên liên quan không có những hành động quá khích, cực đoan, làm phức tạp thêm tình hình, tuân thủ các cam kết đã ký kết, giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở thượng tôn luật pháp quốc tế, UNCLOS 1982 và nguyên tắc chung sống hòa bình. Coi trọng thúc đẩy xây dựng lòng tin chiến lược với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác đa phương trên các lĩnh vực bảo đảm an ninh, nghiên cứu khoa học-công nghệ, phòng, chống tội phạm trên biển... để Biển Đông thực sự là vùng biển hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Một mặt, Việt Nam không tạo phe, không kết nhóm, không chọn bên, không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam nhằm tấn công các nước khác, không đi theo nước này để chống lại nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mặt khác, chúng ta cũng không mơ hồ, mất cảnh giác, né tránh, nhân nhượng vô nguyên tắc, không thụ động, không dựa dẫm, không trông chờ ỷ lại; không mắc mưu lôi kéo, kích động, khiêu khích của bất cứ thế lực nào; chỉ chọn theo chân lý, đứng về lẽ phải, dựa trên luật pháp quốc tế vì mục tiêu hòa bình, hợp tác và phát triển.

Nhằm quán triệt và thực hiện đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo Việt Nam trong tình hình mới, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, thực hiện phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh” trên tinh thần “thêm bạn, bớt thù”, tranh thủ tối đa sự đồng thuận, ủng hộ của các bên liên quan cùng các nước trong khu vực và trên thế giới để hạn chế những bất đồng, khắc phục sự khác biệt, triệt để khai thác các nhân tố có lợi từ bên ngoài tạo thành sức mạnh tổng hợp.

Tập trung giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục; xây dựng lực lượng bảo vệ chủ quyền, thực thi pháp luật trên biển (hải quân, cảnh sát biển, bộ đội biên phòng, kiểm ngư, dân quân tự vệ biển) vững mạnh; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng chính trị-tinh thần vững chắc.

Tích cực xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia về biển, tạo khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động khai thác, quản lý, bảo vệ biển, đảo phù hợp với luật pháp quốc tế. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp đấu tranh chính trị, pháp lý, ngoại giao, kinh tế, quốc phòng, an ninh; tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại quốc phòng về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.

Những quan điểm nêu trên là đường lối chính trị, căn cứ pháp lý để xây dựng sự đoàn kết, đồng thuận xã hội, củng cố niềm tin trong nước, quốc tế, tạo thành nền tảng và sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời là cơ sở để đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; để dư luận quốc tế hiểu rõ về lập trường, quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia trong tình hình hiện nay./.
Yêu nước ST.

BÁC BỎ LUẬN ĐIỆU PHỦ NHẬN LÝ LUẬN GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN!

     Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực phản động, thù địch và cơ hội chính trị đưa ra nhiều luận thuyết, quan điểm khác nhau nhưng đều hòa chung một “dàn hợp xướng” tiến công Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Vì vậy, việc nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ, giữ vững bản chất khoa học, cách mạng lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong tình hình hiện nay có ý nghĩa cấp thiết!

Một “mũi nhọn” chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin
Ngay sau khi ra đời, Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp đã vấp phải sự xuyên tạc, chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động. Hiện nay, lợi dụng những biến động, phức tạp của tình hình thế giới, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động lại càng ra sức chống phá lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin quyết liệt hơn.

Trong “dàn hợp xướng” đó, một số học giả tư sản do không hiểu đúng hoặc cố tình không hiểu bản chất lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nên họ cho rằng: Ngay từ khi lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin ra đời đã là sai lầm và hiện nay càng lỗi thời, không phù hợp; việc khẳng định đấu tranh giai cấp là một trong những động lực trực tiếp của sự phát triển lịch sử, là tuyệt đối hóa vai trò của đấu tranh giai cấp, của bạo lực cách mạng là “chia rẽ, cực đoan”, kích động chiến tranh, cổ vũ cho bạo lực trong xã hội (!).

Lợi dụng sự khủng hoảng, sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thập kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội xét lại càng được dịp tung hô: Đây là một tất yếu lịch sử vì nó bắt nguồn từ sự lạc hậu, lỗi thời của bản thân Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp (!). Lợi dụng sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và sự điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản, họ rêu rao rằng: Ngày nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi về chất, đã trở thành “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, nhà nước tư bản đã là “nhà nước phúc lợi chung”, không còn dựa trên sự bóc lột lao động làm thuê; công nhân ở các nước tư bản không còn bị bóc lột và địa vị của người công nhân đã có sự thay đổi căn bản, ở nhiều nhà máy, công ty, công nhân đã có cổ phần, cổ phiếu, họ không còn là giai cấp vô sản nữa. Do đó, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản cũng không còn mang tính chất đối kháng như trước đây (!).

Còn ở Việt Nam, họ cho rằng: Trong xã hội Việt Nam kết cấu giai cấp có tính đặc thù nên khác với các quốc gia, dân tộc khác, vì vậy việc vận dụng quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam là không phù hợp; giai cấp công nhân Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc; ngày nay, trong điều kiện hòa bình, hội nhập, thời kỳ của các cuộc cách mạng khoa học công nghệ, của kinh tế tri thức, của “văn minh trí tuệ”, nên chỉ có những nhà khoa học, trí thức mới làm chủ được xã hội, lực lượng tiền phong, có vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam đưa đất nước phát triển văn minh, hiện đại (!). 

Nhận thức đúng về lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin
Thực ra, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ là sự tiếp nối lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại. Thời cổ đại, trong các học thuyết về chính trị xã hội của các nhà tư tưởng như: Heraclitus, ‎Democritos, Sokrates, Platon đều thừa nhận trong xã hội có sự phân chia giai cấp, tầng lớp đối lập nhau và thường xuyên đấu tranh với nhau. Điển hình trong quan niệm về nhà nước lý tưởng của Platon gồm có các tầng lớp người như: Các nhà thông thái, nhà triết học ở địa vị cao nhất; các chiến binh ở địa vị thấp hơn, thứ nữa là những người nông dân và thợ thủ công có nhiệm vụ lao động sản xuất... Sau Platon là Aristoteles, trong tác phẩm “Chính trị và chính thể Aten”, ông cũng đã thừa nhận trong xã hội có người thống trị và người bị trị.

Khi chủ nghĩa tư bản hình thành, cuộc đấu tranh giữa các giai cấp trong xã hội diễn ra gay gắt, đó là cuộc đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc phong kiến, vì vậy quan niệm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trở nên rõ ràng hơn. Phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp thời kỳ này thuộc về các học giả: G.Phrangxoa Ghido (1778-1874), Oguytxtanh Chiery (1785-1856) và Phrangxoa Minhe (1796-1884). Các ông cho rằng, những thay đổi quan hệ sở hữu về tài sản, chủ yếu là quan hệ sở hữu về ruộng đất đã đưa tới sự thay đổi về quan hệ giai cấp và sự thay đổi chế độ chính trị.

Kế thừa những tư tưởng giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, C.Mác, Ph.Ăngghen đã đưa ra lý luận khoa học và cách mạng về giai cấp và đấu tranh giai cấp. Tiếp đó, V.I.Lênin đã kế thừa, bổ sung, phát triển toàn diện lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của C.Mác đáp ứng với sự đòi hỏi khách quan của lịch sử. Như vậy, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là sự tư biện, chủ quan của các nhà kinh điển mác-xít, mà chỉ là sự tiếp nối tư tưởng giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử tư tưởng triết học của nhân loại.

Lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin thể hiện đầy đủ bản chất khoa học, cách mạng của mình, không chỉ ở sự kế thừa những tinh hoa của các nhà tư tưởng triết học trong lịch sử khi bàn về giai cấp và đấu tranh giai cấp, mà còn được thể hiện ở phương pháp tiếp cận và những nội dung hoàn bị về lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp. Ở phương pháp tiếp cận, các nhà kinh điển đã chỉ ra phương pháp luận khoa học đúng đắn, làm cơ sở cho xem xét giai cấp và đấu tranh giai cấp, đó là gắn giai cấp và đấu tranh giai cấp với phương thức sản xuất nhất định trong lịch sử. Điều đó khác hẳn với phương pháp tiếp cận duy tâm, siêu hình về giai cấp và đấu tranh giai cấp của các nhà tư tưởng triết học trong lịch sử.

Lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin từ khi ra đời đến nay luôn là cơ sở khoa học cho việc phân tích sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người trong xã hội có giai cấp. Đó là cơ sở khoa học để các chính đảng cộng sản vạch ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn của mình, đáp ứng yêu cầu phát triển của từng quốc gia, dân tộc trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cho thấy, chính đảng cộng sản nào trung thành, kiên định và vận dụng đúng đắn, sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung, lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng thì cách mạng thành công, phát triển. Mặt khác, thực tiễn cũng cho thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, chính đảng cộng sản nào nhận thức và vận dụng không đúng lý luận về giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì đều gây thiệt hại cho sự nghiệp cách mạng, thậm chí bị đổ vỡ mất chế độ xã hội.

Trung thành, vận dụng sáng tạo quan điểm mác-xít về lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp
Việc đấu tranh, bảo vệ, giữ vững bản chất khoa học, cách mạng lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin hiện nay là một trong những vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu là chúng ta cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò, tầm quan trọng về những vấn đề giá trị cốt lõi lý luận giai cấp, đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Tạo ra sự đồng thuận, thống nhất trong toàn Đảng và toàn xã hội về những vấn đề có tính nguyên tắc, đó là: Kiên định, trung thành, vận dụng sáng tạo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp, đấu tranh giai cấp.

Cần hiểu rằng, trung thành không có nghĩa là khư khư nắm giữ những câu chữ của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin về giai cấp, đấu tranh giai cấp mà phải nắm vững bản chất khoa học, cách mạng của nó, phải vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh của từng quốc gia, dân tộc. Trong việc bảo vệ và phát triển đòi hỏi người cộng sản phải nỗ lực vượt qua bằng bản lĩnh chính trị, bằng năng lực tư duy lý luận sáng tạo, bằng việc tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, bảo thủ cũng như chủ nghĩa cơ hội, xét lại lẫn phương pháp tư duy siêu hình, cực đoan. Qua đó khẳng định rõ những luận điểm nào về giai cấp và đấu tranh giai cấp có giá trị bền vững; những luận điểm nào trước kia đúng nhưng do điều kiện lịch sử đã thay đổi nên không còn phù hợp và cần bổ sung, phát triển cho phù hợp với tình hình mới; những luận điểm nào mà chúng ta hiểu sai do không nghiên cứu đến nơi đến chốn thì hiện nay cần nghiên cứu để hiểu cho đúng; đồng thời phát triển những luận điểm mới về giai cấp và đấu tranh giai cấp mà các nhà kinh điển trước đây chưa đề cập đến.

Đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói chung, lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và của cả hệ thống chính trị, trong đó cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang là lực lượng quan trọng. Vì vậy, mỗi cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang cần có nhận thức đúng về chức trách, nhiệm vụ của mình; đề cao tinh thần trách nhiệm, tích cực học tập, nghiên cứu lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc biệt, các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu trong Quân đội cần tiếp tục nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin gắn với lý luận quân sự, quốc phòng, an ninh nhân dân; biên soạn tài liệu định hướng đấu tranh phản bác quan điểm thù địch, phản động và cơ hội chính trị, góp phần hoạch định đường lối bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong tình hình mới.

Lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin là một trong những nội dung lý luận trọng yếu, rường cột của Đảng. Vì vậy, các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị không từ bỏ mọi thủ đoạn tấn công, chống phá, xuyên tạc, phủ nhận lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Do đó, kiên quyết đấu tranh, bảo vệ, giữ vững lý luận giai cấp và đấu tranh giai cấp của Chủ nghĩa Mác-Lênin là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay./.
Yêu nước ST.

SỰ THẬT CÁI GỌI LÀ “VIỆT NAM VI PHẠM NHÂN QUYỀN”!

     Những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với động cơ thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra những báo cáo phiến diện nhằm xuyên tạc tình hình, phủ nhận các thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam!

Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế
Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22-4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22-4-2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

Không thể phủ nhận nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11-10-2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Đến đây, chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ cái gọi là “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... được đề cập trong Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ là những nhận định thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam./.
Yêu nước ST.

Đấu tranh đẩy lùi thái độ bàng quan, dao động về tư tưởng xã hội chủ nghĩa

 


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta khẳng định: “Đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”.

Soi xem mình được mấy “dám”?

 


Chú trọng bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ Quân đội theo tinh thần "7 dám" là quan điểm chỉ đạo được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương nhấn mạnh tại Hội nghị Quân ủy Trung ương 6 tháng đầu năm 2023. Quán triệt, thực hiện tinh thần “7 dám” vừa là giải pháp rất quan trọng xây dựng đội ngũ cán bộ Quân đội, vừa góp phần tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...

Phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, chống quan điểm sai trái để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới

 


Trong cuộc đấu tranh để bảo vệ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh-hệ thống tư tưởng mang ý nghĩa và giá trị thời đại, thì việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là một trong những giải pháp quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Vấn đề này luôn là cốt yếu nhằm thống nhất những nhận thức chưa đúng, đồng thời phản bác sự xuyên tạc nhằm hạ thấp, phủ nhận những giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỪ NGÀY 1-7-2025, NGƯỜÌ KHÔNG CÓ LƯƠNG HƯU SẼ ĐƯỢC HƯỞNG TRỢ CẤP THẾ NÀO?

     Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên mà không có lương hưu, hoặc người từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo sẽ được hưởng trợ cấp hưu trí từ ngày 1-7-2025...
Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) vừa chính thức được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV.

Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2025; có những điểm mới quan trọng liên quan đến người lao động, cũng như việc thụ hưởng chính sách an sinh xã hội. Trong đó, đáng chú ý, Điều 21 của luật quy định về đối tượng và điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.

Từ ngày 1-7-2025, người không có lương hưu sẽ được hưởng trợ cấp thế nào?

Theo đó, Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) quy định: Công dân Việt Nam từ đủ 75 tuổi trở lên mà không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng (trừ trường hợp khác theo quy định của Chính phủ), hoặc người từ đủ 70 tuổi đến dưới 75 tuổi thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo và đáp ứng đủ điều kiện quy định, thì được hưởng trợ cấp hưu trí xã hội, do ngân sách Nhà nước bảo đảm.

Đồng thời, luật cũng quy định, trên cơ sở đề nghị của Chính phủ phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, và khả năng của ngân sách Nhà nước từng thời kỳ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh giảm dần độ tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.

Mức trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng do Chính phủ quy định, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và khả năng của ngân sách Nhà nước từng thời kỳ. Định kỳ 3 năm, Chính phủ thực hiện rà soát, xem xét việc điều chỉnh mức trợ cấp hưu trí xã hội.

Tùy theo điều kiện kinh tế - xã hội, khả năng cân đối ngân sách, huy động các nguồn lực xã hội, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết định hỗ trợ thêm cho người hưởng trợ cấp hưu trí xã hội.

Ngoài ra, đáng chú ý, người đang hưởng trợ cấp hưu trí xã hội hằng tháng cũng được ngân sách Nhà nước đóng bảo hiểm y tế, theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế. Khi chết thì tổ chức, cá nhân lo mai táng được nhận hỗ trợ chi phí mai táng, theo quy định của pháp luật về người cao tuổi.

* Trước đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đề xuất mức trợ cấp hưu trí xã hội 500.000 đồng/người/tháng. 

Theo tính toán, khi giảm tuổi hưởng trợ cấp hưu trí xã hội từ 80 xuống 75 tuổi, có khoảng 800.000 - 1 triệu người cao tuổi được thụ hưởng.

Theo Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, việc bổ sung trợ cấp hưu trí xã hội là để hình thành hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng theo định hướng tại Nghị quyết số 28 về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội.

Thống kê đến cuối năm 2022, Việt Nam có khoảng 14,4 triệu người sau độ tuổi nghỉ hưu (từ 55 tuổi trở lên đối với nữ; từ 60 tuổi trở lên đối với nam). Tổng số người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, trợ cấp hưu trí xã hội là hơn 5,1 triệu người, chiếm khoảng 35% tổng số người sau độ tuổi nghỉ hưu./.
Yêu nước ST.

ỐN DANH TƯỚNG VĨ ĐẠI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM


Xuyên suốt dòng chảy hào hùng của lịch sử dân tộc, đã xuất hiện nhiều anh hùng, hào kiệt tiêu biểu cho nguyên khí quốc gia. Trong số đó có 4 danh tướng, mà công lao, sự nghiệp như trời đất bao la, kết tinh những tinh hoa tốt đẹp của dân tộc; mãi mãi trường tồn cùng non sông gấm vóc Việt Nam, trong mỗi con tim của con Hồng cháu Lạc.

1✅.Người anh hùng dân tộc, danh tướng Lý thường Kiệt 

Sinh ra ở Thăng Long (Hà Nội ngày nay), ông là danh tướng kiệt xuất thời nhà Lý, đã để lại cho đời những mốc son chói lọi về sự nghiệp quân sự cũng như những cải cách tiến bộ.

Trong sự nghiệp đánh giặc giữ nước, ông để lại những trận đánh để đời, làm cho giặc xâm lăng bạt hồn kinh vía. Trận đánh cuối năm 1075, đầu năm 1076, trên đất nhà Tống là trận đánh rất độc đáo. Ông chủ động đánh phủ đầu làm tiêu hao sinh lực quân thù, tiêu hao hậu cần, san phẳng thành lũy…dập tắt ý đồ xâm lược nước ta của nhà Tống, làm nhụt nhuệ khí của bọn cầm quyền phương Bắc. Có được chiến thắng đó nhờ sự sáng suốt của ông là thông qua sự kết hợp giữa quân sự và dân vận làm cho nhân dân hai nước trên biên giới hiểu rõ chính nghĩa của ta là đánh giặc để giữ nước. Nhưng làm nên tên tuổi lẫy lừng  của người anh hùng dân tộc vĩ đại chính là chiến thắng giặc Tống trên sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) đầu năm 1077. Đây là một trong những trận đánh hay nhất trong nghệ thuật quân sự hào hùng chống ngoại xâm của cha ông ta. Cái hay ở chỗ ông vừa dụ vừa đánh. Trong đêm ông sai người vào đền thờ Trương Hống, Trương Hát đọc bài thơ “Sông núi nước Nam”, với hồn thơ đanh thép khẳng định chủ quyền quốc gia thiêng liêng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư/ Tiệt nhiên định phận tại thiên thư/ Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm/ Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”. (Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời/ Cớ chi giặc sang xâm phạm/ Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời). Giặc nghe bài thơ trên hồn vía thất lạc giảm nhụt ý chí, và tự động buông vũ khí đầu hàng. Chúng ta chiến thắng mà không bị đổ máu của tướng sĩ, hao tiền của của dân. Bài thơ bất hủ này được xem là bản Tuyên ngôn Độc lập đầu tiên của nước Việt Nam.Tên tuổi và sự nghiệp của danh tướng Lý Thường Kiệt chói sáng mãi trong lịch sử vinh quang của dân tộc. Để ghi nhớ công lao to lớn của ông nhân dân ta đã lập đền thờ ông ở nhiều nơi, với tấm lòng thành kính bậc tiên hiền  đã có công lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước.

2 ✅. Danh tướng kiệt xuất Trần Hưng Đạo

Trần Hưng Đạo quê ở Nam Định, là danh tướng vĩ đại của nhà Trần.

Đế chế Nguyên Mông nổi tiếng hưng thịnh và hùng mạnh nhất thế giới, vó ngựa của chúng tung hoành khắp nơi, chinh phạt trời Á sang Âu. Không có nước nào địch nổi đội quân hùng mạnh, thiện chiến của Hốt Tất Liệt. Nhưng cả ba lần (1258, 1285 và 1287), chúng sang xâm lược nước ta là cả ba lần phải nhận đại bại nhục nhã dưới tài chỉ huy của các danh tướng nhà Trần, mà tiêu biểu là Trần Hưng Đạo lừng danh. Chiến thắng giặc Nguyên Mông là đỉnh cao về nghệ thuật quân sự ở nước ta mà chiến lược gia không ai khác đó chính là thiên tài quân sự Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn. Ông dùng kế sách “ vườn không nhà trống”, không để  cho giặc lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, kéo dài chiến tranh không có lợi cho ta; xóa bỏ mọi hiềm khích, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, khích lệ tướng sĩ bằng hùng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đây là bản Tuyên ngôn thứ hai thể hiện hào khí chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tướng sĩ nghe lời hịch nấc lòng, thích vào tay hai chữ “Thát sát”  (giết giặc Mông Nguyên). Ông xây dựng khối đại đoàn kết trên dưới một lòng, giết giặc giữ nước, trọng dụng nhân tài như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản… để làm nên chiến thắng.

Lần đầu tiên trong chế độ phong kiến đã diễn ra “Hội nghị Diên Hồng” nổi tiếng. Ông đã khéo dựa vào sức dân để phát động nghệ thuật chiến tranh nhân dân hợp lực lại để  đánh bại chế độ hùng mạnh nhất bấy giờ. Tố chất xuất chúng của ông là biết chọn lựa thời cơ để đánh giặc. Minh chứng hùng hồn là trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1287, ông đã dựa vào quy luật thiên nhiên để đánh thắng giặc, bằng cọc gỗ vát nhọn cắm xuống sông che lấp bằng thủy triều và nhử chúng vào sâu, vào thế trận của ta giăng sẵn rồi nhấn chìm tất cả kẻ thù xuống sông khi thủy triều xuống.

Bằng nghệ thuật quân sự độc đáo này ông đã ba lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược nước ta – Cáo chung một chế độ khét tiếng, làm sụp đổ một triều đại Hốt Tất Liệt hùng mạnh, mở ra  nền độc lập cường thịnh cho dân tộc Việt Nam. Tấm gương của ông là tài sản vô giá, là nguồn cổ vũ động viên to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đời này sang đời khác. Nhân dân ta lập đền thờ ông ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn và suy tôn ông là Đức Thánh Trần. Ngày nay ông trở thành vị Thánh thiêng liêng được thờ phụng trên mọi miền đất nước.

3 ✅. Người anh hùng áo vải, danh tướng kiệt xuất Nguyễn Huệ

Ông là một danh tướng vĩ đại – một vị vua anh minh của triều đại Tây Sơn. Nguyễn Huệ là bậc kỳ tài trong thiên hạ, tài năng phát lộ rất sớm, mới ngoài hai mươi tuổi ông đã có công lớn trong việc dẹp hai thế lực hùng mạnh trong nước, Chúa Trịnh Đàng Ngoài và Chúa Nguyễn Đàng Trong đã gây ra nội chiến triền miên, làm cho nước ta thời bấy giờ suy kiệt. Ông đã thực hiện sứ mệnh thống nhất đất nước mở ra triều đại Tây Sơn.

Ông là nhà quân sự thiên tài sử dụng chiến thuật nước xa cứu lửa gần, bằng những cuộc hành quân thần tốc, đánh đòn chớp nhoáng làm cho quân thù trở tay không kịp. Thiên tài quân sự chói sáng với trận thủy chiến lừng danh Rạch Gầm – Xoài Mút (Tiền Giang) tháng 1/ 1785, chôn vùi 5 vạn quân Xiêm dưới sông sâu. Chiến thắng Kỷ Dậu (đầu năm 1789), đập tan 20 vạn quân Thanh. Đây là chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của vị tướng và cũng là vị vua Hoàng đế 37 tuổi.

Nguyễn Huệ là một trong những vị vua vĩ đại nhất trong các triều đại vua chúa phong kiến ở nước ta. Trên ngôi vị Hoàng đế ông đã thống nhất sơn hà mà còn mở mang bờ cõi, phát triểnkinh tế, lưu hành tiền mới, chăm lo cuộc sống cho nhân dân… Trọng dụng nhân tài, bang giao với các nước. Nguyễn Huệ đột ngột băng hà khi còn quá trẻ, khi tài năng tiếp tục tỏa sáng. Cũng như sứ mệnh lịch sử nước nhà lúc đó đang cần ông. Một mất mát vô cùng to lớn! Người anh hùng áo vải cờ đào Nguyễn Huệ là lãnh tụ nông dân kiệt xuất, là nhà quân sự, chính trị thiên tài, là anh hùng dân tộc vĩ đại trong thế kỷ XVIII. Ông có công lớn trong thống nhất đất nước sau 20 năm bị chia cắt.

Nhân ta đã dựng tượng đài và đền thờ ông khắp nơi trong cả nước. Tại huyện Tây Sơn (Bình Định) đã xây tượng đài và nhà thờ Hoàng đế Quang Trung có quy mô cấp Nhà nước.

4 ✅. Danh tướng kiệt xuất Võ Nguyên Giáp

Ông quê ở Quảng Bình, là một nhà chính trị lỗi lạc, nhà quân sự thiên tài, là danh tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, là nhà văn hóa lớn của thời đại Hồ Chí Minh.

Võ Nguyên Giáp là Tư lệnh chiến trường đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, chấn động địa cầu, kết thúc gần 100 năm đô hộ của thực dân Pháp ở Đông Dương. Chiến thắng lẫy lừng Điện Biên Phủ trên không 1972, buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Paris, rút quân về nước vô điều kiện. Đại thắng mùa xuân 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Cờ chiến thắng trên nóc hầm Đờ Cát ở Điện Biên Phủ.

Ông không những là danh tướng vĩ đại nhất của thế kỷ XX, mà còn vĩ đại nhất của mọi thời đại. Tài thao lược và tác chiến của ông toàn diện trên mọi bình diện địa hình đất liền, rừng núi, trên sông, trên không, biển đảo, trên đất bạn (Lào, Campuchia) đều thắng lợi rực rỡ. Ông là một vị tướng làm theo lời dạy của Bác hồ “Kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

Đất nước ta luôn ghi nhớ công ơn của ông và nhân dân ta đã suy tôn ông là vị tướng của nhân dân. Hàng ngày từng đoàn người nối dài, với lòng thành kính viếng ông ở nơi an nghỉ, những di tích và địa danh lịch sử gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của ông.

Quang vinh thay những anh hùng dân tộc vĩ đại, những danh tướng kiệt xuất, tên tuổi của các ông mãi mãi trường tồn cùng non sông đất nước. Trong tương lai gần Nhà nước ta sẽ đề nghị UNESCO vinh danh những danh tướng vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam anh hùng./.

ST

Phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài theo tư tưởng của Bác

 PHÁT HIỆN, THU HÚT, TRỌNG DỤNG NHÂN TÀI THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Truyền thống trọng dụng nhân tài của cha ông ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng lên tầm cao mới. Trong điều kiện hiện nay, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng người tài cả trong và ngoài Đảng là nhiệm vụ rất quan trọng và phải trở thành “quốc sách”, thành chủ trương, chính sách nhất quán, có hiệu quả cao để tăng cường sức mạnh của đất nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và nâng tầm việc trọng dụng nhân tài của ông cha ta


Ông cha ta luôn có ý thức tìm kiếm người tài năng phục vụ cho nước nhà. Chiếu cầu hiền năm 1429 của Lê Lợi có ghi: “muốn thịnh trị tất phải được người hiền, được người hiền phải do ở tiến cử. Cho nên, người làm vua phải lấy việc ấy làm đầu”.


Triều vua Lê Thánh Tông cũng lưu truyền lịch sử về ý thức trọng dụng nhân tài, với lời văn bia tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội do Thân Nhân Trung soạn (năm 1484): “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”.


Truyền thống “chăm lo việc gây dựng nhân tài”, “tiến cử người hiền tài”, quý trọng và trọng dụng nhân tài lâu đời của dân tộc ta đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện vô cùng khó khăn của đất nước sau gần một trăm năm dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Ngay từ trước khi chuẩn bị thành lập Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở Quảng Châu (Trung Quốc), với đối tượng là những thanh niên ưu tú, rồi sau đó đưa về nước hoạt động tuyên truyền, tổ chức quần chúng, làm hạt nhân cho phong trào cách mạng. Trong quá trình lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền, làm nên Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiếp đó là vừa tiến hành hai cuộc kháng chiến vô cùng gian khổ suốt 30 năm, vừa xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc phát hiện, thu hút, tập hợp và trọng dụng nhiều nhân tài, cả trong Đảng và ngoài Đảng.


Ngay sau khi nước nhà vừa giành được độc lập, ngày 14-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”. Đặc biệt, Người đã chỉ thị cho các địa phương trong cả nước phải kịp thời báo cáo cho Chính phủ về người tài ở địa phương mình. Một năm sau, ngày 20-11-1946, Người lại viết: “Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân... muốn sửa đổi điều đó, và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết... Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”. Đó là việc làm rất cần kíp và thiết thực khi nước nhà vừa mới giành lại được độc lập đang rất thiếu cán bộ, thiếu nhân tài hầu như ở tất cả các lĩnh vực hoạt động của xã hội.


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhắc nhở rằng, trong mọi công việc của đất nước “phải trọng nhân tài”. Điều đặc biệt hơn cả là, Người phải rất tin tưởng nên mới khẳng định rằng, trong dân chúng có “rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gụi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về trọng dụng người tài; và Người đã rất thành công trong việc này. Bên cạnh nhiều bậc trí thức, học giả nổi tiếng, chức sắc tôn giáo đã nhiệt tình tham gia cách mạng; thì ngay cả như quan lại bậc cao của chế độ cũ (các ông Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn...) cũng đã được Bác Hồ cảm hóa và vận động tham gia chính quyền cách mạng. Người đã cảm hóa, lôi cuốn, thuyết phục một số trí thức nổi tiếng cả về tài và đức, học vị cao, lúc bấy giờ đang có mức thu nhập được nhiều người mơ ước, điều kiện làm việc rất tốt, gia đình sống sung túc ở nước ngoài nhưng vẫn tình nguyện trở về nước “đồng cam cộng khổ” với nhân dân tham gia chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc và kiến thiết đất nước với tất cả khả năng chuyên môn của họ. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, “những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”.


Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhiều trí thức nổi tiếng trên mọi lĩnh vực, như Phạm Quang Lễ (tức Trần Ðại Nghĩa), Lê Văn Thiêm, Lương Định Của, Phạm Huy Thông, Trần Hữu Tước, Nguyễn Khắc Viện, Tạ Quang Bửu, Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Phan Anh, Hoàng Minh Giám, Vũ Ðình Tụng, Nguyễn Văn Huyên, Nghiêm Xuân Yêm, Nguyễn Xiển, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát, Phạm Ngọc Thạch, Võ Quý Huân, Vũ Trọng Khánh, Ðặng Văn Ngữ, Trịnh Ðình Thảo, Trần Đức Thảo, Ngụy Như Kon Tum... đã mang hết tài năng phục vụ đất nước. Trong số các vị đáng kính ấy, nhiều người không phải là đảng viên nhưng đã có những đóng góp vô cùng to lớn cho công cuộc kháng chiến cứu nước và kiến thiết đất nước; không ít người phấn đấu về sau trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Công lao của họ đã được Tổ quốc, được Đảng, nhân dân trân trọng và đời đời ghi nhận. Ngày nay, ở nhiều nơi trên khắp cả nước đã có những đường phố, trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu khoa học,... mang tên của các trí thức nổi tiếng ấy.


Tiêu chí đánh giá và biện pháp sử dụng nhân tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh


Trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân tài là người vừa có tài lại vừa có đức, là người biết đem cái tài ấy ra làm những việc ích nước, lợi dân, chứ không phải là để thu vén lợi ích cho bản thân hay cho gia đình. Vì vậy, đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu người có tài mà không có đức thì là người vô dụng, cho nên đức phải là cái gốc. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Dù nhấn mạnh mặt đức nhưng Người cũng khẳng định, nếu có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Điều đó có nghĩa rằng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tài và đức phải gắn bó chặt chẽ với nhau ở người được gọi là nhân tài.


Trong thực tế, trừ một số ngoại lệ rất ít ỏi là những người bẩm sinh đã có một số kỹ năng đặc biệt nào đó, nhưng kỹ năng đó có ích gì cho xã hội thì vẫn còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố; còn phần lớn nhân tài có được là nhờ sự phát hiện, đầu tư, chăm sóc của xã hội, lại phải trải qua một quá trình kiên trì rèn luyện và học tập lâu dài của bản thân thì mới thành nhân tài. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Năng lực của người không phải hoàn toàn do tự nhiên mà có mà một phần lớn do công tác, do tập luyện mà có”. Bởi vậy, người dù có tài thì tài năng ấy vẫn có thể bị mai một nếu không được bồi dưỡng, nâng niu, chăm sóc, sử dụng đúng cách; cũng như không kích thích được khả năng sáng tạo của họ. Nhân loại đã đúc kết rất đúng rằng, nhân tài là người “biết đứng trên vai của các thế hệ trước” hoặc là người biết “đứng trên vai của những người khổng lồ”. Nói cách khác, nhân tài là người biết tiếp thu, chọn lọc, kế thừa, biết làm giàu trí tuệ của mình bằng trí tuệ, tài năng của những người khác.


Tuy có những cách hiểu và cách định nghĩa khác nhau về nhân tài, nhưng tựu trung lại thì những giá trị cốt lõi về nhân tài là không thay đổi. Chắc chắn rằng, nhân tài phải là người có trí tuệ uyên thâm, uyên bác và tài năng hơn hẳn mọi người ở một lĩnh vực nào đó. Đó phải là người có tầm nhìn xa, trông rộng, bao quát; có khả năng nắm bắt được các mối quan hệ, hiểu được xu thế của thời đại và các quy luật vận động của xã hội; phân tích, nhận định nhạy bén và đánh giá đúng tình thế để có những quyết định chính xác và kịp thời nhất trong các hoạt động và trong đời sống xã hội; tham gia giải quyết tốt, có hiệu quả những vấn đề quan trọng được đặt ra, mà đến thời điểm đó chưa có ai giải quyết được.


Nhân tài có nhiều mức độ khác nhau và thuộc nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau. Có nhân tài là vĩ nhân, là lãnh tụ kiệt xuất trong lĩnh vực chính trị, có vai trò mở đường cho sự phát triển của một chế độ xã hội, một đất nước, một thời đại lịch sử. Có nhân tài là người uyên bác, là người phát minh khoa học ở tầm quốc gia hay ở trình độ quốc tế. Cũng có người là nhân tài trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật hoặc lĩnh vực an ninh, quân sự. Có những nhân tài có khả năng giải quyết các vấn đề cấp thiết do đời sống xã hội đặt ra ở những thời điểm cực kỳ khó khăn, giúp thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Nói tóm lại, nhân tài có thể xuất hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội thuộc về các lĩnh vực sản xuất vật chất hoặc lĩnh vực sáng tạo các sản phẩm tinh thần,... Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, khi đã phát hiện được người tài rồi thì phải dùng người đúng chỗ, đúng việc; “phải xem người ấy xứng với việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc”; cho nên đừng bao giờ “bảo thợ rèn đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao”.


Đặc biệt, khi dùng người tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa rất chú trọng đến tài năng trong công việc, vừa lấy thước đo tinh thần vì dân, vì nước của họ để đánh giá và giao việc cho họ. Bởi vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không hẹp hòi, không câu nệ ai đó được trọng dụng đã là đảng viên hay chưa là đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cảnh báo những người có trách nhiệm lãnh đạo, muốn “tránh khỏi sự hao phí nhân tài, chúng ta cần phải sửa chữa cách lãnh đạo... bắt buộc cán bộ trong mỗi ngành phải thiết thực báo cáo và cất nhắc nhân tài”.


Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài trong điều kiện hiện nay


Cần luôn ghi nhớ sự đánh giá của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rằng trong dân chúng có “rất nhiều nhân tài ngoài Đảng”. Xin đừng nghĩ rằng, đánh giá đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đúng ở giai đoạn đất nước vừa mới giành được độc lập, lúc Đảng và Nhà nước ta còn rất thiếu cán bộ. Dường như đã có một thời gian dài, chúng ta lãng quên hoặc coi nhẹ sự đánh giá và cũng là lời căn dặn đó của Bác, nên chưa thật sự quan tâm đến việc phát hiện, thu hút nhân tài, nhất là việc trọng dụng nhân tài ngoài Đảng.


Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót trong vấn đề lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài của chúng ta thời gian qua. Cũng phải thừa nhận rằng, cho đến nay việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài, cả trong Đảng và ngoài Đảng, chưa thành quốc sách hay thành chiến lược quốc gia. Đúng như Đại hội XIII của Đảng nhận định, chúng ta vẫn còn “Thiếu cơ chế, chính sách tuyển chọn và trọng dụng người tài”; “Cơ chế và chính sách cán bộ trong hoạt động khoa học và công nghệ còn nặng về hành chính hóa, chưa tạo được môi trường thuận lợi để phát huy sức sáng tạo, thu hút nhân tài”; “Thiếu cơ chế, chính sách khuyến khích và bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm cả ở khu vực nhà nước và khu vực tư nhân”(13). Những đánh giá đó cũng đúng với việc thu hút và trọng dụng nhân tài cả trong Đảng và ngoài Đảng, khu vực nhà nước và ngoài khu vực nhà nước. Vì vậy, Đại hội XIII của Đảng yêu cầu phải “đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo”.


Đối với nhân tài là người ngoài Đảng thì các chính sách, cơ chế tuyển chọn và trọng dụng họ lại càng thiếu sót nhiều hơn nữa. Vì vậy, đây thực sự là một sự lãng phí rất lớn. Lịch sử nước nhà từ xưa đến nay cho thấy rõ, và được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, để không lãng phí người tài thì xã hội cần phải kiên quyết phê phán, phải loại trừ cho bằng được một loại tư tưởng, là bệnh hẹp hòi, bởi cũng “vì bệnh hẹp hòi [ấy] mà không biết dùng nhân tài”. Để có thể trọng dụng nhân tài, cùng với việc phải khắc phục bệnh hẹp hòi, còn phải khắc phục bệnh định kiến, đố kỵ với người tài làm thui chột các tài năng. Hơn lúc nào hết, hiện nay, trong xã hội ta, cần thực hành dân chủ một cách thực chất để người tài được thể hiện, xuất hiện, khẳng định mình. Muốn phát hiện, tuyển chọn được người có biểu hiện tài năng, hoặc người đã thể hiện tài năng thật sự, thì phải dân chủ, công khai, công minh, tránh vị nể, tránh nhầm lẫn người tài với những người cơ hội, xu nịnh, ngoan ngoãn, dễ bảo nhưng bất tài. Khác với loại người này, những người tài thường là những người thẳng thắn, trung thực, mạnh dạn bày tỏ ý kiến riêng của mình mà không sợ uy quyền. Cho nên, muốn cho người tài hoặc nhân tài mang hết tài năng ra phụng sự dân tộc, phục vụ Tổ quốc và nhân dân thì rất cần xác định rõ những tiêu chí về tài năng, đức độ một cách thật cụ thể; phải lượng hóa được những tiêu chí đó để có căn cứ, có cơ sở rõ ràng trong việc tiến cử, giới thiệu, chọn lựa và trọng dụng người tài, nhất là người tài ngoài Đảng.


Về mặt này cần nghiên cứu, học tập cha ông ta trong việc định ra chế độ tiến cử người tài, khen thưởng xứng đáng người có công tiến cử đúng người tài; có chính sách khen thưởng những cá nhân, tổ chức đã có công phát hiện, bồi dưỡng, đào tạo tốt và sử dụng đúng nhân tài mang lại hiệu quả cao. Mặt khác, cần xử phạt nghiêm khắc những người lợi dụng việc tiến cử người tài để “cài cắm”, sắp xếp, bố trí, thu nạp người thân hoặc lợi dụng mọi cơ hội để ăn đút lót, thu lợi cá nhân. Phải khắc phục cho bằng được “thói “một người làm quan cả họ được nhờ”, đem bà con, bạn hữu đặt vào chức này việc kia, làm được hay không, mặc kệ. Hỏng việc đoàn thể chịu, cốt cho bà con, bạn hữu có địa vị là được”. Muốn phát hiện, thu hút và trọng dụng người tài, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bên cạnh việc khắc phục bệnh hẹp hòi, còn phải khắc phục bệnh địa phương chủ nghĩa và óc bè phái. Óc bè phái là loại bệnh “ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không thân với mình thì dù họ có tài cũng tìm cách dìm họ xuống, họ nói phải mấy cũng không nghe”.


Mọi cá nhân và tổ chức, nhất là các tổ chức đảng và các cấp chính quyền đều có quyền, và đặc biệt là có nghĩa vụ, trách nhiệm phát hiện, giới thiệu một cách trung thực người có tài, có đức để hỗ trợ cán bộ tổ chức và ban tổ chức cấp ủy các cấp, kể cả Ban Tổ chức Trung ương và Bộ Nội vụ. Thiết nghĩ, chỉ riêng các cơ quan chuyên trách làm công tác tổ chức - cán bộ thì khó nắm bắt được hết người tài của cả nước, “E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không thể xuất thân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói. Cho nên, người tài phải được phát hiện, được giới thiệu từ cơ sở, đơn vị, địa phương, từ các ngành, nghề và từ các bộ, ban, ngành trung ương. Dựa vào sự giới thiệu đó, các cơ quan chuyên trách làm công tác tổ chức - cán bộ phải có cách riêng để xác minh, đánh giá, kiểm định một cách trung thực và chính xác theo bộ tiêu chí đã được ban hành, nhằm tránh những sai sót đáng tiếc, tránh bỏ sót người tài và tránh để lọt vào bộ máy những kẻ bất tài nhưng giỏi luồn lách. Những người có trách nhiệm trong việc lựa chọn nhân tài phải tránh “Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực”.


Sau khi phát hiện được nhân tài, xác định được người có tài cả trong Đảng và ngoài Đảng thuộc các lĩnh vực khác nhau, thì các bộ phận có trách nhiệm liên quan phải tạo điều kiện và môi trường thuận lợi nhất để nuôi dưỡng, chăm sóc, bồi đắp, phát triển và hoàn thiện các năng lực và phẩm chất của nhân tài. Chỉ có những người lãnh đạo thật sự tài năng, công tâm, trung thực, trân trọng tài năng mới sử dụng được người tài, kể cả người tài trong Đảng hay người tài ngoài Đảng. Cũng chỉ như vậy, người tài mới yên tâm hiến dâng tất cả trí tuệ, tài năng của mình cho sự nghiệp mà họ đeo đuổi, hết lòng phụng sự cho đất nước, phục vụ nhân dân.


Thời gian qua, việc thực hiện các nguyên tắc và quy chế của công tác cán bộ là do trách nhiệm tập thể, nhưng phải thẳng thắn mà nói rằng, không hiếm hiện tượng có các cá nhân đã lợi dụng quy trình công tác cán bộ và vai trò tập thể một cách rất tinh vi để “cài cắm”, sắp xếp, bố trí người quen, người thân, người nhà vào những chỗ quan trọng để tạo nên “nhóm lợi ích”. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Đảng và Nhà nước ta phải có những quy định, chế tài nghiêm ngặt để ngăn chặn, xử lý những sai phạm, kiên quyết không để lọt vào bộ máy Đảng, Nhà nước những người bất tài, kém đức, suy thoái. Cần có chế độ đãi ngộ đặc biệt để nhân tài phát huy hết năng lực bản thân và cống hiến tài năng cho công cuộc phát triển đất nước; đồng thời, xử lý thật nghiêm những hành vi lạm dụng quyền lực để gây cản trở, trù dập nhân tài.


Đặc biệt, chúng ta cũng cần ủng hộ, động viên, khuyến khích những người Việt Nam có tài năng thật sự trong một lĩnh vực nào đó, cả ở trong nước lẫn ở nước ngoài, tự giới thiệu mình cho tổ chức, để tổ chức xem xét, đánh giá, tuyển chọn, bố trí công việc thích hợp. Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, song chúng ta chưa làm tốt việc thu hút các nhân tài ngoài Đảng đang làm việc và sinh sống ở nước ngoài. Có rất nhiều nhân tài nổi tiếng ngoài Đảng thuộc nhiều ngành khoa học, công nghệ cao và nhiều lĩnh vực quan trọng khác nhau, hiện đang làm việc ở các nước phát triển. Điều đáng nói nhất là, nhiều người trong số họ được cử đi đào tạo ở nước ngoài, nhưng khi thành tài lại không về nước làm việc. Chúng ta cần nghiêm túc đánh giá lại chính sách, cơ chế trong việc tuyển chọn, sử dụng, tạo môi trường, điều kiện làm việc cho người ngoài Đảng cũng như số lưu học sinh được cử đi học bằng ngân sách nói trên. Chắc chắn là, nếu có chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cùng với cách tuyển dụng dân chủ, minh bạch, thật sự trân trọng tài năng, có môi trường xã hội thuận lợi, có chế độ đãi ngộ xứng đáng thì sẽ thu hút được những người tài năng ngoài Đảng, nhờ đó mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho đất nước trong kỷ nguyên công nghệ số và trí tuệ nhân tạo mà chúng ta mới bắt đầu bước vào và đang rất cần những tài năng.


Muôn phát hiện được người tài, muốn có đội ngũ trí thức tinh hoa giỏi, muốn người tài phát huy hết khả năng phục vụ Tổ quốc thì điều cốt lõi là phải có chính sách phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài thật tốt. Chính sách ở đây không chỉ là chính sách đãi ngộ vật chất hay tiền lương, mặc dù không thể thiếu chúng. Đặc biệt là khi hệ thống bậc lương hiện nay rất không khuyến khích những người làm việc tốt, chưa nói gì đến người tài hay nhân tài. Vấn đề quan trọng hơn là, Đảng và Nhà nước ta cần phải tạo điều kiện, môi trường làm việc thật tốt, phương pháp quản trị tiên tiến để phát huy tối đa thế mạnh của mỗi người.


Trong điều kiện cạnh tranh nhân tài diễn ra rất gay gắt giữa các nước, hiện nay, việc phát hiện, thu hút và trọng dụng nhân tài là nhiệm vụ rất quan trọng và phải trở thành “quốc sách”, thành chủ trương, chính sách nhất quán, có hiệu quả cao để tăng cường sức mạnh của đất nước, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chính vì vậy, chủ trương phải “trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ khoa học và công nghệ đặc biệt quan trọng” do Đại hội XIII của Đảng đề ra là hết sức đúng đắn và kịp thời. Khi chủ trương này được thực hiện nghiêm chỉnh và hiệu quả, nhất định sẽ góp phần thiết thực để đưa nước ta đạt được mục tiêu: “Đến năm 2045: trở thành nước phát triển, thu nhập cao”./.

Tư tưởng của Bác về bảo về chính trị nội bộ

 VẬN DỤNG SÁNG TẠO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ


Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh.


Trong tình hình hiện nay, để bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng, chống mọi quan điểm, tư tưởng thù địch và những biểu hiện cơ hội, sai trái đạt hiệu quả, góp phần thực hiện tốt chủ trương xây dựng chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, thì việc thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ là một việc làm có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết thể hiện những nội dung chính sau:


Thứ nhất, bảo vệ Đảng về chính trị. Trước hết là phải bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng. Theo Hồ Chí Minh Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng đắn là một vấn đề “gốc”, nền tảng, cốt lõi, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong sự tồn tại và phát triển của Đảng. Vì vậy, muốn thực hiện được điều đó, theo Hồ Chí Minh, Đảng phải nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin trong cán bộ, đảng viên. Trong bài Diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I Trường Nguyễn Ái Quốc ngày 07/9/1957, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận vạch cho Đảng con đường đúng đắn tiến lên chủ nghĩa cộng sản”. Để bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng, Người lưu ý: cán bộ, đảng viên phải rèn luyện “tính đảng”. “Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có tính đảng mới làm được việc. Kém tính đảng, thì việc gì cũng không làm nên.


Tính đảng là gì? Một là: Phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết; Hai là: Việc gì cũng phải điều tra rõ ràng, cẩn thận và phải làm đến nơi đến chốn; Phải hiểu rằng: Đảng có hiểu rõ tình hình thì đặt chính sách mới đúng... Ba là: Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”. Hồ Chí Minh nhắc nhở cán bộ, đảng viên trong bảo vệ Đảng về chính trị phải tránh bệnh kém “tính đảng”, biểu hiện như: “Bệnh ba hoa, bệnh địa phương, bệnh ham địa vị, bệnh thiếu kỷ luật, bệnh cẩu thả (gặp sao hay vậy), bệnh xa quần chúng, bệnh chủ quan, bệnh hình thức, bệnh ích kỷ, bệnh hủ hóa, bệnh thiếu ngăn nắp, bệnh lười biếng. Mắc phải một bệnh trong mười hai bệnh đó tức là hỏng việc”. Theo Người, bảo vệ Đảng về chính trị cần phải kết hợp chặt chẽ với kinh nghiệm hoạt động thực tiễn hết sức phong phú, sâu sắc thì mới có đủ cơ sở, điều kiện để đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch nhằm bảo vệ Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng.


Thứ hai, bảo vệ Đảng về tư tưởng. Trước hết phải đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Bảo vệ Đảng về tư tưởng cũng đặt ra yêu cầu đấu tranh, phê phán và gột rửa những biểu hiện của tư tưởng “phi vô sản” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; giáo dục đạo đức cách mạng, đấu tranh với sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Để bảo vệ Đảng, phải giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu đối với Đảng. Đó là, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”, luôn trung thành và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ... Người đã vạch trần những thủ đoạn, lời nói mị dân, xuyên tạc hình ảnh người cộng sản, hòng bôi nhọ Đảng. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam, Hồ Chí Minh luôn lưu tâm đến hoạt động phá hoại tư tưởng của đế quốc Mỹ và bọn tay sai bán nước, kêu gọi toàn Đảng, toàn dân phải luôn cảnh giác, chống lại những hoạt động phá hoại của chúng. Người chỉ rõ: “Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì bọn Mỹ - Diệm không muốn cho chúng ta thành công. Chúng âm mưu phá hoại ta bằng nhiều cách. Chúng còn bịa đặt tin đồn nhảm, phá hoại tinh thần nhân dân ta”.


Thứ ba, bảo vệ Đảng về tổ chức. Đó là chống lại bọn phản động cài cắm người của chúng vào nội bộ Đảng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến việc tích cực, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù, xử lý kịp thời và nghiêm minh những trường hợp đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng. Người lưu ý, bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng cần phải giữ vững các nguyên tắc tổ chức, duy trì kỷ luật nghiêm minh là một biện pháp rất quan trọng để bảo vệ Đảng. Người yêu cầu đảng viên phải tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của Đảng, nếu kỷ luật Đảng lỏng lẻo thì những phần tử phản động sẽ có cơ hội chui vào Đảng để phá hoại. Đối với những kẻ xấu phá hoại Đảng đã bị phát hiện phải xử lý nghiêm minh, phải xác định rõ từng đối tượng để xử lý đúng người, đúng tội. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng phải giữ bí mật, đồng thời phê phán nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên để lộ bí mật của Nhà nước. Trước âm mưu, thủ đoạn phá hoại Đảng, phá hoại cách mạng rất thâm độc, xảo quyệt của đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng, Người luôn luôn chú trọng đến việc phòng gian, bảo mật: “Phải có tinh thần cảnh giác, phòng gian, bảo mật... Bệnh ba hoa còn nhiều; còn làm mất tài liệu bí mật…”. Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý việc phải dựa vào nhân dân, tổ chức và động viên nhân dân tích cực tham gia bảo vệ Đảng. Người cho rằng: “Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng mấy chục triệu tai mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân, thì việc gì cũng xong”.


Trong bối cảnh hiện nay và những năm tiếp theo, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến rất nhanh, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên; việc điều chỉnh chiến lược và sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn khiến các nước nhỏ luôn phải ứng phó với những biến động khó lường... Các vấn đề an ninh phi truyền thống, như: an ninh tài chính, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, an ninh mạng, dịch bệnh… ảnh hưởng lớn đến sự phát triển bền vững đất nước.


Ở trong nước, sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức: Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; đã và đang xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng tới sự nghiệp đổi mới. Các thế lực thù địch tăng cường chống phá về chính trị, tư tưởng, văn hóa, dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động, thực hiện “diễn biến hòa bình”. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng ngày càng nghiêm trọng hơn. Tình trạng vi phạm pháp luật, tội phạm có xu hướng gia tăng và xuất hiện nhiều loại tội phạm mới, đặc biệt là loại tội phạm có tổ chức, tội phạm sử dụng công nghệ cao. Trật tự, an toàn xã hội vẫn còn nhiều diễn biến phức tạp… Tình hình nêu trên sẽ tác động mạnh, nhiều chiều đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ ra phương hướng trong công tác xây dựng Đảng: “Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ…”. Nhằm tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng, cần có những giải pháp đồng bộ, nắm vững, vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới.


Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng lý tưởng, nhân sinh quan cách mạng trong toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. Đặc biệt, tiếp tục “Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo Chỉ thị số 05-CT/W của Bộ Chính trị khóa XII, ngày 15/5/2016 một cách thiết thực, hiệu quả. Cơ quan lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước phải thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; quản lý chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng. Chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc hại trên in-tơ-nét, mạng xã hội…Có những biện pháp kịp thời, thiết thực, hiệu quả để ngăn chặn những diễn biến xấu về chính trị, tư tưởng, phòng chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái, nói không đi đôi với làm trong nội bộ Đảng và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.


Hai là, lực lượng tiến hành bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng là toàn dân tộc. Trong đó lực lượng nòng cốt là các cấp ủy đảng, các tổ chức đảng, hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên phối hợp triển khai thực hiện. Đây là những lực lượng rất quan trọng, giữ vai trò chủ đạo, xung kích. Để bảo vệ chính trị nội bộ trong Đảng có hiệu quả, đòi hỏi người làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ của Đảng phải có chuyên môn cao, am tường, hiểu sâu, nắm chắc những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin… những vấn đề của thực tiễn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng của thế giới đương đại và trong nước thì mới có khả năng tác chiến, bảo vệ hiệu quả, thành công. Qua đó củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biễn”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng; làm thất bài mọi âm mưu, thủ đoạn và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động trong tình hình mới.


Ba là, Thực hiện tốt mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Vì dân là “gốc” của nước lực lượng to lớn của Đảng. Trí tuệ, năng lực sáng tạo của Đảng đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân. Người chỉ rõ: “Dễ mười lần không dân cũng chịu/Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Dân “liệu” ở đây không chỉ có nghĩa là dân chỉ góp công sức, của cải vào cuộc cách mạng, mà quan trọng hơn Dân còn bày mưu, hiến kế cùng với Đảng để vạch ra Cương lĩnh, đường lối đúng đắn cho cách mạng. Mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với dân không chỉ thể hiện ở mục đích hoạt động của Đảng, nó còn được biểu hiện sinh động trong phương pháp, cách thức hoạt động của Đảng trong quan hệ với dân, nhất là hoạt động của các cơ sở đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự trong sạch “cần, kiệm, liêm, chính” để cho dân tin, dân phục, dân yêu.


Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới, các cấp ủy đảng từ Trung ương đến cơ sở, mỗi cán bộ, đảng viên, nhân dân cần thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ chính trị nội bộ trong xây dựng Đảng nhằm xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh./.


Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam

Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đến với đất nước của Lênin

Vào ngày này (30/6) cách đây 101 năm, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã lần đầu tiên đặt chân đến nước Nga, trực tiếp nghiên cứu lý luận và thực tiễn chủ nghĩa xã hội hiện thực theo hình mẫu nước Nga Xô viết, đặt nền tảng cho mối quan hệ lịch sử đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Nga.


Cách đây hơn 107 năm, vào năm 1917, Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Nguyễn Ái Quốc như nắm bắt được hơi thở thời đại, đã chăm chú dõi theo, vui mừng nhìn thấy ở cách mạng này một lối thoát cho dân tộc Việt Nam. Chính vì thế, Liên Xô (trước đây) là điểm dừng chân đặc biệt để Nguyễn Ái Quốc hoàn thiện và củng cố vững chắc hơn những luận điểm cơ bản trong con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Quảng thời gian sống, làm việc tại Liên Xô đã góp phần giúp Nguyễn Ái Quốc đưa sự nghiệp cách mạng của Nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn.


Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người Việt Nam đầu tiên đã tiếp cận, tiếp thu và vận dụng sáng tạo rất thành công những tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười vào sự nghiệp cách mạng nước ta. Năm 1920, khi đọc bản Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lê-nin, Người đã rất cảm động, phấn khởi, vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong phòng mà Người nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đầy đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta".


Tiếp đó, Người đã vượt qua mọi gian nguy để đến với đất nước Xô-viết, tham gia hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, đồng thời trực tiếp tìm hiểu kinh nghiệm cách mạng của Liên Xô để lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay trong thời kỳ đó, Người đã cử nhiều thanh niên cách mạng Việt Nam ở trong nước sang học tập tại Liên Xô, trong đó có các đồng chí sau này trở thành Tổng Bí thư của Đảng ta, cùng nhiều nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối khác.


Nước Nga những năm 20 của thế kỷ XX được tiếp cận ở nhiều góc độ. Đối với giai cấp phong kiến, tư sản cho nước Nga là một địa ngục. Còn những người theo khuynh hướng cộng sản thấy ở nước Nga là một thiên đường. Đối với Nguyễn Ái Quốc, nước Nga lúc bấy giờ nhất định không phải là một địa ngục nhưng lúc bấy giờ chưa hẳn đã phải là một thiên đường.


Những điều được chứng kiến đầu tiên khi Nguyễn Ái Quốc đến nước Nga đó là hình ảnh một đất nước đang trong quá trình khắc phục những hậu quả của chiến tranh, vừa chống thù trong vừa chống giặc ngoài, một nước Nga đang trong quá trình xây dựng, kiến thiết lại mang trong mình cả những ưu điểm và tất nhiên cũng chưa kịp sửa chữa hết những khuyết điểm. Song những khó khăn không làm lu mờ hình ảnh một đất nước cách mạng đã làm một việc vĩ đại, lần đầu tiên đưa vị thế của giai cấp công nhân và nông dân lên làm chủ chính quyền, tạo niềm tin, hy vọng cho các dân tộc bị áp bức trong đó có nhân dân Đông Dương.


Người nhớ về quê hương của mình, “quốc mẫu” lúc nào cũng rao giảng tự do, bình đẳng, bác ái nhưng chúng chỉ tìm cách khai thác, bóc lột Nhân dân. Nguyễn Ái Quốc đã đi, đã đến và chứng kiến đời sống hiện thực ở nhiều nước, cả thuộc địa lẫn tự do, cả đất nước bị áp bức lẫn đi áp bức nhưng bước chân của Nguyễn Ái Quốc chỉ tới được đích khi Người đặt chân đến nước Nga Xô viết, từ thực tiễn những gì được chứng kiến, nhận thấy đây là một hình mẫu lý tưởng mà Người muốn xây dựng trên chính quê hương mình.


Chưa trực tiếp gặp Lênin, nhưng chính những tư tưởng giải phóng của Lênin, cuộc đời và đạo đức cao đẹp của Lênin đã là một tấm gương sáng mà Nguyễn Ái Quốc ngưỡng mộ suốt đời. Ngay từ khi được đọc bản sơ thảo của Lênin tháng 7 năm 1920, đường lối hợp tác các dân tộc vì một mục đích chung của Lênin đã có sức hấp dẫn đặc biệt đối với Nguyễn Ái Quốc. Lênin, ngoài tài năng, tinh thần cách mạng, còn là những phẩm chất rất phương Đông, đó chính là tấm gương sống tiêu biểu. Mặc dù bị cấm truyền bá, lưu hành nhưng chủ nghĩa thực dân không sao ngăn cản được ánh sáng chói lọi của Người tỏa sáng đến các dân tộc bị áp bức trong đó có Đông Dương.


Khi nói về Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã chia sẻ: “Không phải chỉ thiên tài của Người mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao đến các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”.


Ngay khi vừa đặt chân lên nước Nga, Nguyễn Ái Quốc đã rất muốn gặp người lãnh tụ vĩ đại của giai cấp vô sản nhưng khi đó Lênin đang ốm nặng, và cơ hội để Người được trực tiếp gặp Lênin đã không thể thực hiện được khi ngày 21/1/1924, trái tim lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã ngừng đập. Lênin qua đời là một mất mát to lớn không chỉ của nhân dân Liên Xô mà cả cho nhân dân thế giới.


Những năm tháng ở trên quê hương Lênin chính là thời gian thể hiện xuất sắc hình ảnh người học trò Lênin của Nguyễn Ái Quốc. Người đã tham gia sôi nổi các hoạt động quốc tế, đấu tranh bảo vệ và phát triển những lý luận của Lênin về cách mạng vô sản và mối quan hệ giữa giai cấp vô sản với nhân dân các nước thuộc địa. Lần đầu tiên được tham dự Đại hội của Quốc tế Cộng sản với vai trò là đại biểu tư vấn nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng đã rất mạnh mẽ và thẳng thắng phê phán Quốc tế Cộng sản vẫn còn chưa chú trọng đến các vấn đề của các nước thuộc địa, điều đó hoàn toàn đi ngược lại với mong muốn lúc sinh thời của Lênin.


Thời gian được học tập, nghiên cứu, lao động, tham gia sôi nổi vào các hoạt động trên quê hương Cách mạng Tháng Mười đã mang lại cho Nguyễn Ái Quốc những nhận thức mới mẻ, đồng thời cũng là những cơ sở lý luận và thực tiễn bổ sung vào học thuyết cách mạng mà Người đang xây dựng và hoàn chỉnh cho Việt Nam.


Những thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và kiến thiết nước nhà về sau này của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, không thể không khẳng định tầm ảnh hưởng to lớn từ những thành quả của Cách mạng Tháng Mười, từ những tư tưởng vĩ đại của Lênin./.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NÂNG CAO HIỆU QUẢ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG TRUYỀN THÔNG VỀ QUYỀN CON NGƯỜI!

     Sáng 1/7, tại Đà Nẵng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp Cục Báo chí (Bộ Thông tin và Truyền thông) khai mạc Hội nghị tập huấn bồi dưỡng kiến thức về quyền con người cho phóng viên, biên tập viên các cơ quan, thông tấn báo chí khu vực miền trung!

Thực hiện Chỉ thị số 34/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện Đề án đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, lớp tập huấn được tổ chức nhằm mục đích cập nhật kiến thức, thông tin về quyền con người và giáo dục quyền con người, từ đó nâng cao năng lực cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên trong thực hiện nhiệm vụ chính trị quan trọng của mình.

Tham gia lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức về quyền con người có các giảng viên, chuyên gia của Viện Quyền con người (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) và Bộ Thông tin và Truyền thông, cùng hơn 30 phóng viên, biên tập viên các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương khu vực miền trung.

Phát biểu tại buổi tập huấn, Giáo sư, Tiến sĩ Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Trưởng Ban điều hành Đề án Giáo dục quyền con người cho biết, giáo dục quyền con người có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm nâng cao nhận thức xã hội, ngăn ngừa, hạn chế vi phạm quyền; cung cấp tri thức, trang bị kỹ năng giúp mỗi người nhận thức đúng đắn ý nghĩa, giá trị của các quyền, qua đó biết tự mình bảo vệ các quyền, tuân thủ pháp luật và tôn trọng phẩm giá, các quyền và tự do của người khác.

Thiết chế truyền thông, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người thông qua các phương thức như: truyền thông và định hướng dư luận về quyền con người; là diễn đàn tự do ngôn luận của người dân; cung cấp và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin; phát hiện, lên án các hành vi vi phạm quyền con người; nêu gương các điển hình trong đấu tranh bảo vệ quyền con người; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực quyền con người;…

Do vậy, các phóng viên, biên tập viên của các cơ quan, thông tấn báo chí phải nắm vững những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về quyền con người, nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ.

Diễn ra trong 2 ngày rưỡi, lớp tập huấn cung cấp cho các phóng viên, biên tập viên các kiến thức như: quyền con người; pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về quyền con người và tự do báo chí; kỹ năng, nghiệp vụ báo chí nhằm thúc đẩy, bảo vệ quyền con người và ngăn ngừa vi phạm quyền con người ở Việt Nam;…/.
Yêu nước ST.

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: CHỮ QUAN LIÊU VIẾT NHƯ THẾ NÀO!

     Chuyện kể vào ngày 11/5/1952, Bác Hồ đến thăm và nói chuyện với học viên lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, anh em quây quần xung quanh Bác, nghe Bác kể chuyện dặn dò. Cuối buổi Bác cầm một cái que nói:
– Các chú học đã giỏi, bây giờ Bác đố chữ này xem các chú có biết không nhé.

Anh em hưởng ứng: “Vâng ạ!”. Người nào biết tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung thì nhẩm lại kiến thức của mình. Người chỉ biết tiếng Việt thì băn khoăn: Có chữ gì khó mà không đọc được nhỉ?

Bác vẽ một vạch ngang trên mặt đất, rồi hỏi:
– Chữ gì nào?

Cả lớp hò lên:
– Thưa Bác chữ “nhất ạ”

Bác khen:
– Giỏi đấy.

Rồi Bác lại gạch một gạch nữa dưới chữ nhất. Chưa kịp hỏi anh em đã “ồn” lên:
– Chữ “nhị” ạ.

Bác động viên:
– Giỏi lắm.

Người gạch thêm một gạch nữa dưới hai gạch cũ.
– Chữ “tam” ạ.

Bác cười:
– Khá lắm.

Rồi người vạch thêm một gạch nữa dưới chữ tam.
– Chữ gì nào?

Các vị đớ người ra. Vạch đầu tiên Bác viết vừa phải, vạch thứ hai dài hơn đã có hơi lệch một chút, vạch thứ ba dài hơn tí nữa cũng không được song song cho lắm, vạch thứ tư dài nhất có vẻ đã cong lắm rồi.

Bác giục:
– Thế nào? Các nhà “mác-xít”?

Bác lại cầm que vạch thêm một vạch, rồi 2 vạch dọc từ trên xuống, ban đầu thì thắng đứng, xuống đến vạch ngang thứ hai đã queo, vạch thứ ba thì quẹo, vạch bốn như một con giun, loằng ngoằng như cái đuôi chuột nhắt.

Bác đứng dậy:
– Chịu hết à? Có thế mà các chú không đoán ra… các chú biết cả đấy.

Rồi để que xuống đất Người giải thích:
– Chủ trương chính sách của Đảng đúng đắn…Đến tỉnh đã hơi cong, đến huyện đã tả hữu, đến xã đã sai lệch. Vì sao? Vì cán bộ không làm đúng, không nắm chắc chủ trương, đường lối, không gần gũi dân, không chịu làm đầy tớ nhân dân, mà chỉ muốn làm “quan cách mạng”. Cho nên chữ ấy là chữ “quan liêu”. Các chú không học nhưng biết mà vẫn làm. Còn cái các chú học thì các chú lại ít làm.

Học viên cả lớp đứng im và không ai bảo ai, đều suy nghĩ về những lời căn dặn của Bác./.
Yêu nước ST.