Thứ Hai, 1 tháng 7, 2024

Kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam

 

Kiên định chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là chủ trương đúng đắn, tầm nhìn chiến lược, hành động nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đó là kế sách “sâu rễ, bền gốc” để “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch đã và đang ra sức xuyên tạc, chống phá bằng nhiều chiêu trò tinh vi, xảo quyệt, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trong tiến trình hàng nghìn năm lịch sử, dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành truyền thống quý báu; là quy luật trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Kế thừa kinh nghiệm quý mà tổ tiên để lại, Đảng ta luôn chủ động chăm lo củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; trong đó, kiên định chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quan điểm nhất quán, góp phần “giữ yên bờ cõi”, giữ cho “trong ấm, ngoài êm”, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đây là kế sách “sâu rễ, bền gốc”, thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và nghệ thuật quân sự độc đáo của tổ tiên ta; đồng thời, mang tính thời đại sâu sắc.

Là quốc gia chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu rõ giá trị của “hòa bình”, yêu chuộng hòa bình luôn là khát vọng, truyền thống của dân tộc; hòa bình được coi là một “giá trị thiêng liêng” của đất nước. Thực hiện chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, Việt Nam chủ trương: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, cũng như tạo nền tảng vững chắc giải quyết những thách thức an ninh chung, Việt Nam chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước; quan tâm duy trì và phát triển những mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ phù hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực phức tạp hiện nay, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, chủ trương xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là nhằm nâng cao khả năng “tự vệ”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, chứ không phải là chạy đua vũ trang và càng không hề có dụng ý đe dọa vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế như các thế lực thù địch từng rêu rao, xuyên tạc.

Âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch

Chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; kiên quyết, kiên trì ngăn chặn, đẩy lùi và hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột “từ sớm, từ xa”, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đưa đất nước phát triển. Đây cũng là thông điệp hòa bình mà Việt Nam nhắn gửi tới cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, với bản chất thù địch chưa bao giờ thay đổi, các thế lực chống phá Việt Nam luôn tìm mọi cách chống phá chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, tung ra luận điệu xuyên tạc, công kích chính sách đúng đắn đó của Đảng và Nhà nước ta. Chúng suy diễn, cho rằng chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là “đối sách nhu nhược”, là “hành động tự trói”, là sự “cam chịu và khuất phục” trước các nước lớn. Nham hiểm hơn, lợi dụng việc nước ta bỏ phiếu tại Liên hợp quốc về cuộc xung đột Nga - Ukraine, chúng tuyên truyền, kích động: chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính “chung chung”, rất “mơ hồ”, “không rõ ràng”, “phi thực tế”, mang nặng tư tưởng “hòa bình chủ nghĩa”. Không những thế, chúng phớt lờ, phủ nhận những đóng góp quan trọng của Việt Nam trước đây và hiện nay đối với cộng đồng quốc tế, nhất là việc tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Chúng “quên” điều đó cũng là dễ hiểu, bởi nếu nhắc lại thì đối với chúng “lợi bất cập hại”, trước mắt sẽ gây bất lợi cho các hoạt động xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam. Tráo trở và thâm độc hơn, chúng tỏ vẻ “quan tâm sâu sắc” đến sự an nguy của đất nước và “quan ngại, lo lắng” trước thực tế các nước đang hợp tác đầu tư mạnh cho quốc phòng; chúng rêu rao: khả năng và sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh quân sự của Việt Nam hiện tại “quá yếu”, việc hiện đại hóa Quân đội chủ yếu chỉ nằm trên “nghị quyết”, thực tế thì “lạc hậu” và “không đủ sức tự vệ”, không có khả năng giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Từ đó, chúng ra sức cổ súy, “vẽ đường”, “dẫn lối”, “đề xuất” Việt Nam nên “chọn phe”, “chọn bên” để không bị cô lập trong hoạt động quốc phòng, để luôn nhận được sự “giúp đỡ hiệu quả, chí nghĩa, chí tình” của các nước lớn, nhằm “mang lại một tương lai tươi sáng hơn”. Vì thế, chúng “gợi ý” Việt Nam nên xúc tiến “liên minh quân sự”, nhất là đối với các nước có tiềm lực quân sự hàng đầu thế giới là việc làm “duy nhất đúng” lúc này, góp phần “tự cứu”, “tự vệ” và như vậy mới đủ khả năng “bảo vệ Tổ quốc vững chắc từ xa”.

Những luận điệu trên của các thế lực thù địch được che đậy, ngụy biện khá kín kẽ nên thoạt nghe có vẻ hợp lý, nhưng khi đã thấu suốt bản chất, dã tâm của chúng, sẽ không khó nhận thấy đó chỉ là sự xuyên tạc, cực kỳ nham hiểm, thâm độc. Một mặt chúng “phủ nhận sạch trơn” những giá trị nhân văn của chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; mặt khác, chúng trắng trợn bóp méo sự thật, cho rằng Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng, tăng cường sức mạnh quốc phòng “không hẳn nhằm mục đích tự vệ”, mà là chạy đua vũ trang, điều đó rất dễ châm ngòi cho chiến tranh, xung đột quân sự trong khu vực. Đây là những luận điệu hết sức lố bịch, xuyên tạc trơ trẽn, nếu chúng ta không kịp thời nhận diện, vạch trần, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa thì sẽ dẫn đến những hệ lụy xấu, gây hoài nghi cho nhiều người, nhiều quốc gia về chính sách quốc phòng của Việt Nam, ảnh hưởng không tốt đến uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Cơ sở lý luận, thực tiễn khẳng định tính đúng đắn của chính sách quốc phòng “Hòa bình và tự vệ”

Hòa bình và tự vệ là những vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Là một đất nước đã trải qua những cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt, đối với Việt Nam vấn đề này lại càng quan trọng, bởi nó luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong đó, hòa bình là tiền đề cho “tự vệ tích cực” và tự vệ là cơ sở đảm bảo cho hòa bình thực sự, bền vững. Hòa bình phải luôn gắn chặt với tự vệ, một khi tách rời nhau thì sớm muộn gì hòa bình sẽ mất, tự vệ cũng chẳng còn. Vì thế, hòa bình và tự vệ luôn gắn bó hữu cơ với nhau và là quan điểm nhất quán của dân tộc Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại.

Trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam (năm 2019), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ”1. Kiên định, nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa những tư tưởng, kinh nghiệm quý của tổ tiên ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Đó là tư tưởng nhân văn cao cả “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, góp phần làm nên những chiến công vang dội, viết nên những trang sử chói lọi của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất. Với quan điểm “Thái bình tu trí lực/Vạn cổ thử giang san” (Thái bình nên gắng sức/Non nước ấy ngàn thu) - giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, nên nhà Trần hết sức chú trọng và nỗ lực giữ gìn nền hòa bình, giữ yên bờ cõi, mang lại nền “thái bình, thịnh trị” cho muôn dân.

Khi đề cập tầm quan trọng của bảo vệ - tự vệ, Đảng ta đã kế thừa, phát triển lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin, nhất là chú trọng củng cố quốc phòng, góp phần nâng cao khả năng phòng thủ, “tự vệ” chính đáng của đất nước. V.I.Lênin khẳng định: “Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”; đồng thời, chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”2, “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Có thể nói, lý luận về xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin là cơ sở quan trọng để Đảng ta xác định một trong hai chiến lược quan trọng bậc nhất của quốc gia - Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; chủ động chuẩn bị tâm thế để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Không thể “khoanh tay đứng nhìn”, “ngồi im chờ đợi” sự giúp đỡ “chí nghĩa, chí tình” từ các nước lớn “đầy thiện chí”, để giữ vững hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như “gợi ý” của các thế lực thù địch.

Đặc biệt, chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” còn được Đảng ta kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3. Lời kêu gọi của Người thể hiện khát vọng mãnh liệt về một nền hòa bình bền vững, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân để giành và giữ độc lập dân tộc bằng “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”. Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”4; “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”5. Như vậy, từ rất sớm chúng ta đã chủ trương xây dựng Quân đội chính quy và hiện đại để thực hiện khả năng “tự vệ chính đáng”. Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hoàn toàn không phải là một đội quân xâm lược. Như vậy, luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ hội chính trị cho rằng Việt Nam hiện đại hóa Quân đội là “châm ngòi” cho cuộc chạy đua vũ trang mới ở khu vực thực sự rất lố bịch, trơ trẽn, thiếu khách quan, phản khoa học.

Nền tảng pháp lý vững chắc để Việt Nam nhất quán với chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, các hiệp định, hiệp ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và là một thành viên tích cực, tin cậy, có trách nhiệm cao. Theo đó, trong quan hệ quốc tế, Việt nam cam kết thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; đồng thời, vì sự ổn định và hòa bình của khu vực và thế giới, chúng ta nêu rõ quan điểm không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp, bất đồng với các nước; đề cao chủ trương giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các tiến trình pháp lý và ngoại giao. Như vậy, chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với mục đích cao cả mà Hiến chương Liên hợp quốc hướng đến, điều này cũng đập tan luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng chính sách quốc phòng của Việt Nam là “ích kỷ”, “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”.

Có thể thấy, để giữ vững được hòa bình, độc lập dân tộc, không thể thiếu hoạt động bảo vệ - tự vệ; hơn thế còn cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và tổng thể các biện pháp hoạt động đủ mạnh mới đạt được mục tiêu xác định. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng, gia tăng tiềm lực quốc phòng không gì ngoài mục đích tự vệ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời, bằng những hoạt động tích cực, hiệu quả Việt Nam ngày càng có những đóng góp quan trọng nhằm giữ vững hòa bình, ổn định; thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, chủ động nâng cao khả năng “tự vệ” của đất nước, sẵn sàng đánh bại quân xâm lược, kiến tạo hòa bình là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của các triều đại phong kiến Việt Nam. Thực tiễn kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống cho thấy, trước thế giặc rất mạnh, nhà Lý đã tích cực chuẩn bị kháng chiến, tăng cường khả năng phòng bị, xây dựng lực lượng quân đội tinh nhuệ, nhiều thứ quân, bố trí thế trận chống giặc “hiểm, sắc, chắc, có chiều sâu” trên những địa bàn chiến lược. Theo đó, Lý Thường Kiệt chủ động cho xây dựng phòng tuyến vững chắc trên sông Như Nguyệt, kịp thời chặn đứng cuộc tiến công của địch, lập thế, tạo thời cơ có lợi, phản công đánh bại quân xâm lược, giữ vững nền độc lập. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, với mục tiêu bất biến là “Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh”, “mở nền thái bình muôn thủa” và với tư duy nhạy bén, chiến lược, Nguyễn Trãi chỉ rõ: “Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước/Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh/Sửa hòa hiếu cho hai nước/Tắt muôn đời chiến tranh”6, chúng ta đã thể hiện rõ thiện chí và khát vọng hòa bình, chủ trương giữ hòa hiếu với các nước láng giềng, nhằm mang lại nền độc lập bền vững, “tránh họa binh đao”, có điều kiện để khắc phục hậu quả chiến tranh, dựng xây đất nước. Chính sách đó thể hiện rõ tinh thần cao thượng của tư tưởng nhân văn quân sự Việt Nam, nghệ thuật ngoại giao hết sức mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, xây dựng và kiến tạo nền hòa bình bền vững, giữ yên biên thùy.

Giương cao “ngọn đuốc hòa bình”, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, từ rất sớm Việt Nam đã chủ động xây dựng tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của 03 nước Đông Dương; giúp nhân dân Campuchia tiêu diệt “chế độ diệt chủng”, góp phần bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi dân tộc. Mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, truyền thống đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia trải qua bao thăng trầm của lịch sử đã phát triển lên một tầm cao mới. Điều đó phù hợp với nguyện vọng chính đáng của chính phủ và nhân dân mỗi nước, đồng thời góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Là quốc gia có trách nhiệm cao đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ của một quốc gia thành viên, luôn chủ động, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhằm giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống vì hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển. Theo đó, từ tháng 6/2014, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi (MINUSCA), Phái bộ UNISFA (khu vực Abyei), trên các lĩnh vực: tham mưu, y tế, công binh, v.v. Tháng 02/2023, hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc đề nghị các nước và tổ chức quốc tế hỗ trợ ứng cứu, khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử 76 cán bộ, chiến sĩ tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả động đất, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng nhân dân nước sở tại về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đầy trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, v.v. 

Giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch

Chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam là sự kế thừa quan điểm, tư tưởng mang tính quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” và thực tiễn phong phú trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây chính là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một chính sách mang đậm tính nhân văn và thể hiện sâu sắc bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam - một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn khát khao, nỗ lực đấu tranh giành và giữ vững nền hòa bình, độc lập ấy. Điều đó cũng trả lời cho câu hỏi vì sao Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn kiên định, nhất quán với chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; đồng thời cũng lý giải cho việc tại sao các thế lực thù địch lại ra sức xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam, nội dung quan trọng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chúng đã và đang thực hiện nhằm chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, đối với chúng ta, để đấu tranh làm thất bại những luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch cần phải được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh làm thất bại các hoạt động chống phá trên rất nhiều lĩnh vực khác; trong đó, tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau.

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách quốc phòng “Hòa bình và tự vệ”.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong quá trình đấu tranh vạch trần bộ mặt thật và âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam. Công tác tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên cả trong nước và ngoài nước (thông tin đối ngoại) để nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu đúng bản chất, nội dung chính sách quốc phòng, nhất là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, vạch trần sự xuyên tạc, ngụy biện của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; chỉ rõ cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, nội dung cơ bản khẳng định chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chính nghĩa “hòa bình và tự vệ”, để mọi người chủ động, tự giác đấu tranh trực diện, hiệu quả. Cùng với công tác tuyên truyền giáo dục phải thường xuyên nắm chắc tình hình, nhất là những động thái mới, thủ đoạn mới, chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch, để kịp thời có biện pháp đấu tranh thích ứng, phù hợp, đạt hiệu quả thiết thực. Quá trình tuyên truyền, giáo dục cần chú trọng giáo dục lòng yêu nước, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, không ngừng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhận thức rõ mục tiêu, tính chất ngụy biện của chiến lược “diễn biến hòa bình” nói chung, luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam nói riêng của các thế lực thù địch đang tiến hành, cũng như tầm quan trọng cuộc đấu tranh của chúng ta với “cuộc chiến không tiếng súng” này.

Trước sự biến động nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cả nội dung, hình thức, phương pháp theo hướng kết hợp giáo dục theo chương trình cơ bản với tổ chức tọa đàm, hội thảo, diễn đàn thanh niên, giáo dục chuyên đề, v.v. Thông qua đó, tiếp tục củng cố vững chắc lòng tin của các quốc gia về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình; tích cực, chủ động cung cấp thông tin chính thống, định hướng dư luận, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, tạo sức đề kháng “tự miễn dịch” trước những thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch.

Hai là, tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, nâng cao năng lực “tự bảo vệ”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Để có được nền hòa bình, độc lập, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như hiện nay, nhân dân ta đã phải trả một cái giá không hề rẻ bằng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam. Đó là tài sản quý nhất, lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, mà chúng ta phải gìn giữ bằng mọi giá, mọi cách trong khả năng của mình. Chúng ta không “ảo tưởng về hòa bình”, càng không thể trông chờ vào “một nền hòa bình viển vông” do một ai đó “vẽ ra” hoặc “ban phát”; hòa bình chỉ có thể được đảm bảo bền vững khi có nền quốc phòng đủ mạnh, đủ sức răn đe những cái “đầu nóng” luôn toan tính “nhòm ngó” thôn tính chúng ta. Thực tế hiện nay cho thấy, không trân trọng “hòa bình”, không nâng cao khả năng “tự vệ”, cả tin theo những “bánh vẽ” mà người khác “ban tặng”, thì hậu quả là đất nước rối loạn, nhân dân ly tán và hậu quả là nhãn tiền. Cho nên, tăng cường sức mạnh quốc phòng là kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Đảng, Nhà nước ta.

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam cho thấy, trong bất kỳ giai đoạn cam go nào, trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng là công việc trọng yếu của quốc gia - dân tộc ngay cả trong thời bình, nhất là trong những thời điểm nền độc lập dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng, đất nước lâm nguy. Thấu triệt điều đó, Đảng, Nhà nước tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong xây dựng tiềm lực vững mạnh, lực lượng rộng khắp, thế trận quốc phòng vững chắc, từ đó nâng cao khả năng huy động quốc phòng, nhằm ứng phó hiệu quả với mọi tình huống, luôn giữ vững sự chủ động, không để bất ngờ về chiến lược. Chú trọng xây dựng khu vực phòng thủ các cấp vững chắc, nhất là các địa bàn chiến lược, trọng yếu và trên cả nước, tạo thế trận “liên hoàn, hiểm hóc, vững chắc, có chiều sâu”. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nghiên cứu, nâng cao năng lực tác chiến trên không gian mạng, chiến tranh thông tin và các hình thái chiến tranh mới, nhằm đảm bảo sự chủ động và giành thắng lợi khi đất nước xảy ra chiến tranh xâm lược. Đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và ngày càng hiện đại; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Ba làphát huy sức mạnh tổng hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng.

Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch không từ âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào để chống phá ta trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng và chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”. Thậm chí chúng còn liên tục thay đổi cách thức, biện pháp chống phá, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng và sâu rộng cả về nội dung và hình thức. Vì thế, chúng ta cần phải bám sát thực tiễn, nhận diện đúng đối tượng, nội dung xuyên tạc, thời điểm tập trung chống phá của chúng để trên cơ sở đó sử dụng tổng thể các biện pháp, phương thức, lực lượng phòng, chống đạt hiệu quả thiết thực.

Về lực lượng đấu tranh, cần phát huy cả lực lượng trong và ngoài nước, lực lượng chuyên trách và lực lượng rộng rãi, trong đó vai trò của cơ quan Ban Chỉ đạo 35, Lực lượng 47, đội ngũ chuyên gia các cấp, các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản,… là rất quan trọng. Về phương thức đấu tranh, cần phải linh hoạt, sáng tạo kết hợp chặt chẽ cả hình thức tuyên truyền miệng, tuyên truyền trong các sự kiện chính trị - xã hội, lễ hội truyền thống, tuyên truyền thông tin đối ngoại, tuyên truyền trên các trang mạng xã hội, trên internet, v.v. Cần phải chủ động đấu tranh, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, chiếm lĩnh trận địa thông tin và tích cực đổi mới sao cho linh hoạt, sáng tạo, với phương thức đa dạng, hiệu quả; đồng thời, chuẩn bị tốt cả về lực lượng, phương tiện và cách thức tiến hành, chú trọng đấu tranh trên môi trường không gian mạng. Cùng với đó, phải coi trọng phân tích, đánh giá, phản biện, chỉ ra những mặt hạn chế, tồn tại, kịp thời đúc rút những bài học hay, kinh nghiệm quý để nhân rộng trong toàn xã hội, v.v.

Bốn là, đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, nhằm kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối ngoại và đối ngoại quốc phòng, coi đây là kế sách “sâu rễ, bền gốc” giữ nước “từ khi nước chưa nguy” bằng biện pháp hòa bình, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Kết hợp chặt chẽ các lực lượng, biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin đối ngoại, giúp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Đảng và Nhà nước ta. Trong quan hệ quốc tế, cần kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc gắn với bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là bất biến, nhưng phải căn cứ vào tình hình cụ thể, xử lí khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, xác định rõ đối tác, đối tượng để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc ở vào thế buộc phải “chọn bên”, “chọn phe”; không để nước ta trở thành chiến trường, địa bàn xung đột lợi ích chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Tăng cường và ngày càng thắt chặt quan hệ hữu nghị, tốt đẹp, xây dựng “biên cương xanh”, nâng cao chất lượng hiệu quả, đi vào chiều sâu, thực chất hoạt động giao lưu hữu nghị quốc phòng với các nước láng giềng. Tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đa dạng hóa đối tác hợp tác quân sự quốc phòng; đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng bằng nhiều hình thức: tham gia các diễn đàn của khu vực và quốc tế, trao đổi đoàn, hợp tác huấn luyện, đào tạo, tuần tra chung, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin, v.v. Tăng cường hợp tác trong ứng phó và giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống; tham gia tích cực, hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh,... góp phần không ngừng tăng cường uy tín, tiềm lực, sức mạnh quốc gia trên trường quốc tế, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

 

Cội nguồn lịch sử và văn hóa của kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ

 

Kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ có cội nguồn sâu xa trong lịch sử đấu tranh, trong truyền thống văn hóa lâu đời và độc đáo của dân tộc ta. Đó là biểu tượng và đỉnh cao của hình ảnh người lính cầm vũ khí chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc Việt Nam, vì hạnh phúc của nhân dân trong thời đại mới.

Xuất xứ và ý nghĩa tên gọi Bộ đội Cụ Hồ

Trong một hồi ức của mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã kể về xuất xứ của tên gọi Bộ đội Cụ Hồ như sau: “Tôi nhớ rằng từ trong khu giải phóng Việt Bắc, đồng bào các dân tộc đã trìu mến gọi các đơn vị vũ trang ta là “Bộ đội Ông Ké” hay “Bộ đội Ông Cụ” một cách thân thương, chân thành như tấm lòng của đồng bào đối với lãnh tụ của mình mà nhiều người lúc đó chưa biết tên Bác. Có lẽ, về sau, khi biết tên Người, đó là Bác Hồ, là Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam mới, mọi người đã gọi “Bộ đội Ông Ké” là Bộ đội Cụ Hồ. Và cũng từ chiến khu Việt Bắc, tên gọi yêu dấu ấy xuất hiện từ khời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp”.

Từ đó đến nay, qua 80 năm chiến đấu và trưởng thành, Bộ đội Cụ Hồ trở thành một danh hiệu cao quý của cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam.

Hình ảnh và tên gọi Bộ đội Cụ Hồ là một hiện tượng rất độc đáo trong lịch sử đấu tranh vũ trang của dân tộc Việt Nam nói chung và văn hóa Việt Nam nói riêng. Ít thấy có dân tộc nào trên thế giới mà chính nhân dân lấy tên lãnh tụ tối cao của mình đặt cho Quân đội. Danh hiệu đó thể hiện sâu sắc mối quan hệ khăng khít giữa người chiến sĩ với Bác Hồ và giữa Bác Hồ với người chiến sĩ.

Trước hết, đó là tình cảm, tình yêu và niềm tin sâu xa của quần chúng dành cho LLVT cách mạng. Hiếm có một dân tộc nào mà hình ảnh người lính lại được toàn dân coi đó là một hình mẫu của con người trong thời đại mới, để hết lòng tin yêu, quý trọng, động viên mọi thế hệ con cháu kế tiếp và noi theo gương sáng của Bộ đội Cụ Hồ như dân tộc Việt Nam ta. Đó là một cách gọi rất Việt Nam, vô cùng gần gũi, trìu mến và có lẽ chỉ có ở Việt Nam .

Nhân dân gọi bộ đội là Bộ đội Cụ Hồ chính vì bản thân các thế hệ chiến sĩ Quân đội trải qua 80 năm chiến đấu đã luôn luôn xứng đáng với niềm tin của Người và từ đó hình ảnh người chiến sĩ đã trở thành một mẫu hình cao đẹp, bình dị về con người mới với lý tưởng, đạo đức cao thượng, trong sáng, thực hiện trọn vẹn xuất sắc chỉ thị, niềm tin và những lời căn dặn đầy yêu thương của Bác Hồ.

Ý nghĩa sâu xa hơn, nhân dân ta gọi Bộ đội Cụ Hồ vì Cụ Hồ-tên gọi trìu mến, ấm áp của nhân dân dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, là người tiêu biểu cho ý chí đấu tranh bất khuất của nhân dân, là hiện thân của niềm tin và sức mạnh, là người tổ chức và dẫn dắt nhân dân ta đứng lên tự giải phóng, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Nhân dân ta gọi Bộ đội Cụ Hồ vì cảm nhận sâu sắc quan hệ đặc biệt hiếm có giữa Bác và Quân đội, Bác và chiến sĩ. Bác là người cha thân yêu của các LLVT nhân dân Việt Nam, là người khai sinh ra Quân đội ta. Bác chăm lo từng bước trưởng thành của Quân đội, giáo dục chiến sĩ, khuyên bảo cán bộ... Nét đẹp hiếm có và có lẽ chỉ có ở Bác, trong tình cảm, đạo đức của Người là sự vô cùng gần gũi, yêu thương bộ đội, tin tưởng ở tinh thần dũng cảm và sáng tạo của bộ đội, thấu hiểu, cảm thông và xúc động trước sức chịu đựng gian khổ, khó khăn, hy sinh của người chiến sĩ... Bác Hồ đã để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn thể bộ đội trước lúc đi xa.

Chỉ có 4 từ “Bộ đội Cụ Hồ”, song đã chứa đựng trong đó một giá trị văn hóa đặc sắc của lịch sử hiện đại Việt Nam, khi mà lý tưởng cách mạng, tấm gương sáng ngời của Bác Hồ hòa quyện và thống nhất tuyệt đối với khát vọng giải phóng, độc lập, tự do của nhân dân, của Quân đội cách mạng do Đảng và Bác sáng lập.

Kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ có cội nguồn văn hóa quân sự của dân tộc Việt Nam

Bộ đội Cụ Hồ là sản phẩm của lịch sử hiện đại Việt Nam, song nếu xét từ góc độ truyền thống dân tộc và truyền thống văn hóa nước ta từ hàng nghìn năm trước, thì kiểu mẫu Bộ đội Cụ Hồ còn có nguồn gốc sâu xa hơn, bởi vì, nó không chỉ là sản phẩm của 80 năm qua, mà còn bắt nguồn, nối tiếp và phát triển của kiểu mẫu những người cầm vũ khí, của nghĩa sĩ, nghĩa binh, nghĩa quân đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc cả nghìn năm lịch sử.

Họ đã tự nguyện sung vào Quân đội chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp trong suốt nghìn năm dựng nước, giữ nước, trong một nghìn năm Bắc thuộc, trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm thời phong kiến và trong gần một thế kỷ đô hộ của thực dân Pháp. Họ là những người con ưu tú của dân tộc Việt Nam. Có lẽ giống trong truyền thuyết, Thánh Gióng là người lính đầu tiên trong lịch sử nước nhà cầm vũ khí chiến đấu bảo vệ và giải phóng quê hương! Gióng đánh quân xâm lược một mình? Không phải! Ai nuôi Gióng từ một cậu bé bỗng lớn lên thành Phù Đổng? Dân làng. Ai rèn đúc vũ khí (ngựa sắt, gươm sắt) cho Gióng? Cơm gạo của dân làng. Gậy sắt bị gãy, vũ khí thay thế cho Gióng là các cụm tre làng. Gióng đã thắng, đuổi quân xâm lược khỏi bờ cõi đất nước, song, đó chính là sức mạnh nhân dân trong Gióng đã làm nên chiến thắng. Hình như có một sự tương đồng kỳ diệu giữa huyền thoại người anh hùng làng Gióng với Quân đội nhân dân của chúng ta hàng nghìn năm sau.

Nói về những nghĩa binh, nghĩa quân của cả nghìn năm lịch sử không thể không kể tới hình ảnh của các nữ binh thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, những nữ binh cưỡi voi xung trận với tinh thần “đền nợ nước, trả thù nhà”, với khí thế “muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển khơi”, đánh đuổi giặc, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, làm nên truyền thống Việt Nam “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Phải chăng, đó là cội nguồn tạo tiền đề đầu tiên cho sự ra đời của các “đội quân tóc dài”, của nữ thanh niên xung phong và nữ chiến sĩ cách mạng sau này?

Nói về những nghĩa binh, nghĩa quân thời xa xưa ấy không thể không nhắc tới những người “cờ lau tập trận” trong đội quân Đinh Bộ Lĩnh thời phục thù dẹp 12 sứ quân năm 967, những người áo vải cờ đào trong khởi nghĩa Tây Sơn (năm 1786) nhằm lập lại nền thống nhất đất nước, chấm dứt cuộc xung đột Nam-Bắc và cuộc Trịnh-Nguyễn phân tranh. Nói về những nghĩa sĩ, nghĩa binh trong lịch sử giữ nước, cần phải nói nhiều hơn đến hình ảnh những người lính đã làm nên chiến công lẫy lừng trên sông Bạch Đằng, sông Cầu, ở bến Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, Xương Giang, Tốt Động, Chúc Động, Rạch Gầm, Xoài Mút, Ngọc Hồi, Đống Đa... Đó là thế hệ những người lính nối tiếp nhau của những thời điểm lịch sử oai hùng với những chiến công lẫm liệt. Đó là hình ảnh của những tráng sĩ mài gươm, những “Hội nghị Diên Hồng”, những cuộc dấy binh “Lam Sơn tụ nghĩa”, là tiếng hô “Sát Thát”, là tiếng thơ sang sảng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”, là lời “Hịch tướng sĩ” đầy sức động viên, vẫy gọi khí thế chiến đấu. Họ bất tử trong lịch sử và đi vào những tác phẩm văn hóa bất hủ: Sông núi nước Nam (thơ thời Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình ngô đại cáo (Nguyễn Trãi), Bạch Đằng giang phú (Trương Hán Siêu), Phú núi Chí Linh (Nguyễn Mộng Tuân), Hoàng Lê nhất thống chí (Ngô gia văn phái), Ai Tư Vãn (Lê Ngọc Hân) và thơ của Phạm Ngũ Lão, Đặng Dung...

Di sản tinh thần quý giá trên để lại cho các thế hệ sau, đặc biệt từ khi có Đảng và Bác Hồ, một truyền thống bền vững, đó là lòng yêu nước, ý chí bất khuất, quật cường, đồng thời đó còn là phẩm giá đạo đức tuyệt vời của người lính “Phụ tử chi binh” của thời Trần, “Huynh đệ chí binh” của thời Lê, thời Tây Sơn. Các giá trị truyền thống trên là cơ sở, là cội nguồn lịch sử để sau này chúng ta xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì Tổ quốc sẵn sàng hy sinh.

Ở đây, trong cảm nhận về vẻ đẹp độc đáo của người lính Việt Nam, từ nghĩa binh, nghĩa quân đến Bộ đội Cụ Hồ là một dòng chảy lịch sử không đứt đoạn. Ví như, tinh thần quân và dân như cá với nước, nghĩa tình đồng đội, đồng chí thương yêu nhau như ruột thịt phải chăng đã bắt nguồn từ thời “Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào” có từ thời khởi nghĩa Lam Sơn!

Từ sự phân tích, cảm nhận trên cho phép chúng ta khẳng định rằng, kiểu mẫu nhân cách Bộ đội Cụ Hồ có cội nguồn sâu xa trong lịch sử đấu tranh, trong truyền thống văn hóa lâu đời và độc đáo của dân tộc ta. Đó là biểu tượng và đỉnh cao của hình ảnh người lính cầm vũ khí chiến đấu vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc Việt Nam, vì hạnh phúc của nhân dân trong thời đại mới.

 

Quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang

 Nghị định này quy định mức lương cơ sở áp dụng quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. Theo đó, từ ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng thay cho mức 1,8 triệu đồng/tháng như hiện tại.

Chính phủ ban hành Nghị định 73/2024/NĐ-CP ngày 30/6/2024 quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang. 

Theo đó, từ ngày 1/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng thay cho mức 1,8 triệu đồng/tháng như hiện tại.

Nghị định này quy định mức lương cơ sở áp dụng đối với người hưởng lương, phụ cấp và chế độ tiền thưởng áp dụng đối với người hưởng lương làm việc trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động (sau đây gọi chung là cơ quan, đơn vị) ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (cấp huyện), ở xã, phường, thị trấn (cấp xã), ở đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt và lực lượng vũ trang.

Nghị định nêu rõ, người hưởng lương, phụ cấp áp dụng mức lương cơ sở quy định tại Nghị định này, bao gồm:

1- Cán bộ, công chức từ trung ương đến cấp huyện quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019).

2- Cán bộ, công chức cấp xã quy định tại khoản 3 Điều 4 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019).

3- Viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định tại Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019).

4- Người làm các công việc theo chế độ hợp đồng lao động quy định tại Nghị định số 111/2022/NĐ-CP ngày 30/12/2022 của Chính phủ về hợp đồng đối với một số loại công việc trong cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập thuộc trường hợp được áp dụng hoặc có thỏa thuận trong hợp đồng lao động áp dụng xếp lương theo Nghị định số 204/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang.

5- Người làm việc trong chỉ tiêu biên chế tại các hội được ngân sách nhà nước hỗ trợ kinh phí hoạt động theo quy định tại Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội (sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 của Chính phủ).

6- Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng và lao động hợp đồng thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam.

7- Sĩ quan, hạ sĩ quan hưởng lương, công nhân công an và lao động hợp đồng thuộc Công an nhân dân.

8- Người làm việc trong tổ chức cơ yếu.

9- Hạ sĩ quan và binh sĩ thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; hạ sĩ quan và chiến sĩ nghĩa vụ thuộc Công an nhân dân;

10- Người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn và tổ dân phố.

Từ ngày 01/7/2024, mức lương cơ sở là 2,34 triệu đồng/tháng

Nghị định nêu rõ, mức lương cơ sở dùng làm căn cứ tính mức lương trong các bảng lương, mức phụ cấp và thực hiện các chế độ khác theo quy định của pháp luật đối với các đối tượng quy định trên; tính mức hoạt động phí, sinh hoạt phí theo quy định của pháp luật; tính các khoản trích và các chế độ được hưởng theo mức lương cơ sở.

Đối với các cơ quan, đơn vị đang được áp dụng các cơ chế tài chính, thu nhập đặc thù ở trung ương: Thực hiện bảo lưu phần chênh lệch giữa tiền lương và thu nhập tăng thêm tháng 6 năm 2024 của cán bộ, công chức, viên chức với tiền lương từ ngày 01/7/2024 sau khi sửa đổi hoặc bãi bỏ cơ chế tài chính và thu nhập đặc thù. Trong thời gian chưa sửa đổi hoặc bãi bỏ các cơ chế này thì thực hiện mức tiền lương và thu nhập tăng thêm hằng tháng tính theo mức lương cơ sở 2.340.000 đồng/tháng theo cơ chế đặc thù từ ngày 01/7/2024 bảo đảm không vượt quá mức tiền lương và thu nhập tăng thêm được hưởng tháng 6 năm 2024 (không bao gồm phần tiền lương và thu nhập tăng thêm do điều chỉnh hệ số tiền lương ngạch, bậc khi nâng ngạch, nâng bậc). Trường hợp tính theo nguyên tắc trên, nếu mức tiền lương và thu nhập tăng thêm từ ngày 01/7/2024 theo cơ chế đặc thù thấp hơn mức tiền lương theo quy định chung thì thực hiện chế độ tiền lương theo quy định chung.

Chính phủ điều chỉnh mức lương cơ sở sau khi báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định phù hợp khả năng ngân sách nhà nước, chỉ số giá tiêu dùng và tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước.

Kinh phí thực hiện

Nghị định nêu rõ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương:

1- Sử dụng 10% tiết kiệm chi thường xuyên (trừ các khoản tiền lương, phụ cấp theo lương, khoản có tính chất lương và các khoản chi cho con người theo chế độ) dự toán năm 2024 tăng thêm so với dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.

2- Sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2024 sau khi trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí.

Riêng đối với số thu từ việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, y tế dự phòng và dịch vụ y tế khác của cơ sở y tế công lập sử dụng tối thiểu 35% sau khi trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí.

3- Sử dụng nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm 2023 chưa sử dụng hết chuyển sang (nếu có).

Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương:

1- Sử dụng 10% tiết kiệm chi thường xuyên (trừ các khoản tiền lương, phụ cấp theo lương, khoản có tính chất lương và các khoản chi cho con người theo chế độ) dự toán năm 2024 tăng thêm so với dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.

2- Sử dụng 10% tiết kiệm chi thường xuyên (trừ các khoản tiền lương, phụ cấp theo lương, khoản có tính chất lương và các khoản chi cho con người theo chế độ) dự toán năm 2023 đã được cấp có thẩm quyền giao.

3- Sử dụng 50% tăng thu ngân sách địa phương dự toán năm 2024 so với dự toán năm 2023 được Thủ tướng Chính phủ giao (không kể: thu tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu cổ phần hóa và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý; tiền thuê đất một lần được nhà đầu tư ứng trước để bồi thường, giải phóng mặt bằng và thu từ xử lý tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị được cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng để chi đầu tư theo quy định; thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; phí tham quan các khu di tích, di sản thế giới; phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu; phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; thu từ quỹ đất công ích, thu hoa lợi, công sản tại xã và thu tiền cho thuê, cho thuê mua, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước).

4- Sử dụng 70% tăng thu ngân sách địa phương năm 2023 thực hiện so với dự toán được Thủ tướng Chính phủ giao (không kể: thu tiền sử dụng đất; xổ số kiến thiết; thu cổ phần hóa và thoái vốn doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý; tiền thuê đất một lần được nhà đầu tư ứng trước để bồi thường, giải phóng mặt bằng và thu từ xử lý tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị được cơ quan có thẩm quyền quyết định sử dụng để chi đầu tư theo quy định; thu tiền bảo vệ và phát triển đất trồng lúa; phí tham quan các khu di tích, di sản thế giới; phí sử dụng công trình kết cấu hạ tầng, công trình dịch vụ, tiện ích công cộng trong khu vực cửa khẩu; phí bảo vệ môi trường đối với khai thác khoáng sản; phí bảo vệ môi trường đối với nước thải; thu từ quỹ đất công ích, thu hoa lợi, công sản tại xã và thu tiền cho thuê, cho thuê mua, bán nhà thuộc sở hữu nhà nước).

5- Sử dụng nguồn thực hiện cải cách tiền lương năm 2023 chưa sử dụng hết chuyển sang (nếu có).

6- Sử dụng tối thiểu 40% số thu được để lại theo chế độ năm 2024 sau khi trừ các chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động cung cấp dịch vụ, thu phí.Riêng đối với số thu từ việc cung cấp các dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, y tế dự phòng và dịch vụ y tế khác của cơ sở y tế công lập sử dụng tối thiểu 35%.

Nghị định nêu rõ, ngân sách trung ương bổ sung nguồn kinh phí còn thiếu do điều chỉnh mức lương cơ sở và thực hiện chế độ tiền thưởng năm 2024 cho các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương và các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau khi đã thực hiện các quy định nêu trên.

Kinh phí thực hiện cải cách tiền lương, thực hiện chế độ tiền thưởng của viên chức, người lao động trong các đơn vị sự nghiệp công lập nhóm 1, nhóm 2 do đơn vị tự đảm bảo theo quy định tại Nghị định số 60/2021/NĐ-CP ngày 21/6/2021 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập và các văn bản sửa đổi, bổ sung, thay thế Nghị định số 60/2021/NĐ-CP (nếu có).

Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2024.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY 02/7

“Yêu nước thì việc gì có lợi cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức làm cho kỳ được. Điều gì có hại cho nhân dân, dù khó mấy cũng phải ra sức trừ cho kỳ hết”.
       Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài: “Vệ sinh yêu nước” (Phong trào diệt ruồi, muỗi), đăng trên Báo Nhân dân, số 1572, ngày 02 tháng 7 năm 1958. Đây là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo và bước đầu phát triển kinh tế, văn hóa sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, miền Bắc bắt đầu bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội.
         Theo Hồ Chí Minh, yêu nước không thể tách rời thương yêu nhân dân, yêu nước không phải là cái gì chung chung, trừu tượng, mà nó được bắt đầu từ những việc nhỏ nhất và thể hiện ở việc làm cụ thể của mỗi người trong đời sống hằng ngày. Người có tinh thần yêu nước sẽ luôn đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước lợi ích cá nhân và dù khó khăn, gian khổ thế nào cũng ra sức làm cho kỳ được, còn việc gì có hại cho nhân dân phải ra sức trừ cho kỳ hết. Người cho rằng, ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cấp bóc lột. Nó gây ra nhiều tật bệnh, làm cho nhân dân ta ốm đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và văn hóa bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác bảo vệ sức khỏe, tính mạng và tài sản của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân mẫu mực của một người chiến sĩ cách mạng đã hiến dâng trọn vẹn cả cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng vẻ vang và cuộc sống hòa bình, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.
         Quán triệt và thực hiện lời dạy trên của Người, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam đã luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chấp hành nghiêm 12 điều kỷ luật khi quan hệ với nhân dân, được nhân dân tin yêu, ghi nhận và trao tặng danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”. Tích cực làm công tác dân vận, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn; thực hiện công tác dân tộc, tôn giáo trên các địa bàn, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,.... Các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng đã gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng - an ninh, giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, bao tiêu sản phẩm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn đóng quân. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh; củng cố, phát huy tinh thần đoàn kết các dân tộc anh em, xây dựng quê hương giàu mạnh, văn minh.

KIÊN QUYẾT QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN

Thực tiễn khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sự trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Để đủ sức lãnh đạo đất nước và xã hội, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã đặc biệt nhấn mạnh công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân (CNCN) nói riêng.
Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”. Đảng ta xác định đấu tranh chống CNCN vừa là một nội dung trọng tâm, vừa là một giải pháp rất quan trọng trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, trước bất cứ nhiệm vụ gì, Đảng ta đều đặc biệt coi trọng và gắn chặt với cuộc đấu tranh chống CNCN. Nhằm giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng, trong đó có nội dung liên quan đến CNCN, từ năm 1939, Đảng ta đã tổ chức đợt sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng. Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ cụ thể 15 căn bệnh nguy hiểm trong Đảng bắt nguồn từ CNCN. Đảng ta nhận thức rõ nguồn gốc của những “căn bệnh” làm hư hỏng đội ngũ đảng viên, làm tha hóa Đảng ta không gì khác là CNCN. Từ chỗ coi CNCN là “kẻ thù của cách mạng”, Đảng xác định phải kiên quyết tuyên chiến với loại “giặc nội xâm” này. Vụ án Đại tá Trần Dụ Châu, Giám đốc Nha Quân nhu, vì CNCN mà phạm tội tham nhũng phải lĩnh án tử hình là ví dụ điển hình chứng minh cho tinh thần kiên quyết đấu tranh với CNCN trong Đảng.
Qua các nhiệm kỳ đại hội, Đảng ta đều có các văn kiện chuyên đề về đấu tranh chống CNCN. Đặc biệt, từ Đại hội VI đến nay, tinh thần kiên quyết đấu tranh chống CNCN của Đảng ta được thể hiện rất rõ nét. Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII với trọng tâm là ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm minh với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những hành vi tham nhũng, tiêu cực và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định tinh thần “kiên quyết đấu tranh quét sạch CNCN trong toàn Đảng”. Tại Điều 3 của Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm, Đảng ta cũng nêu rõ đảng viên không được vướng vào “… CNCN, cơ hội, vụ lợi…”.
Nhờ thường xuyên coi trọng công tác xây dựng Đảng nói chung và đấu tranh chống CNCN nói riêng mà năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ta ngày càng được nâng lên. Đại đa số cán bộ, đảng viên của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn kiên định mục tiêu lý tưởng và con đường XHCN; phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu thực sự làm nòng cốt đi đầu trong công cuộc đổi mới và lãnh đạo quần chúng thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu của cách mạng. Nhiều tấm gương điển hình, tiên tiến được nhân rộng, lan tỏa trong đời sống xã hội. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Đảng ta vẫn vững vàng chèo lái đưa con thuyền cách mạng vượt lên đ

 

Không để thế lực thù địch lợi dụng trẻ em

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam, các thế lực thù địch đã sử dụng mọi thủ đoạn, lôi kéo mọi lực lượng nhằm kích động, tạo sóng ngầm, gây mất ổn định chính trị. Trẻ em - những thế hệ măng non của đất nước cũng được chúng sử dụng để thực hiện mưu đồ chính trị này. Trong khi nhiều trẻ em được sinh sống, học tập, vui chơi lành mạnh, được ôm ấp, chở che trong vòng tay yêu thương của gia đình, thì cũng đã có những trẻ em vô tình bị lợi dụng để phục vụ cho ý đồ chính trị của các thế lực phản động. Trẻ em đã và đang bị kẻ xấu lợi dụng như thế nào? Vì sao chúng lại lợi dụng trẻ em để chống phá đất nước? Chúng ta hãy cùng tìm câu trả lời trong bài viết dưới đây.

Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo quyền được chăm sóc, vui chơi, học hành của trẻ em. 

“Trẻ em như búp trên cành/ Biết ăn, ngủ, biết học hành là ngoan”. Lời dạy và nhắn nhủ của Bác Hồ với các em nhỏ là điều mà mỗi bậc làm cha, làm mẹ ai cũng mong muốn và luôn dành tất cả những điều tốt đẹp để con em mình trở thành những mầm non tươi xanh của đất nước. Thế nhưng, đi ngược lại với luân thường, đạo lý, nhiều đối tượng đã dùng trẻ em như một công cụ, thủ đoạn để kích động chống phá đất nước. Trẻ em với tâm hồn ngây thơ, trong sáng, muốn được đến trường để vui chơi, học tập. Thế nhưng, ước mơ trong sáng, hồn nhiên, tươi vui của các em đã bị một số thành phần có tư tưởng thù địch, chống đối chế độ lấy đi vì những mục đích chính trị đen tối. Để thực hiện âm mưu chống phá Việt Nam, chúng đã kích động, xúi giục các gia đình bắt con em mình bỏ trường, bỏ lớp, thậm chí xuống đường cầm theo băng rôn, biểu ngữ biểu tình, gây rối.

Trong vấn đề này, ngoài sự xúi giục của các thế lực thù địch, kích động giật dây, điều hành từ nước ngoài, chúng ta cũng thấy có trách nhiệm rất lớn của gia đình, nhà trường và xã hội. Người lớn đã vô tình biến con em mình thành công cụ cho các đối tượng chống phá đất nước. Sự trong sáng của trẻ em bị họ lấy đi một cách vô tình mà cha mẹ không biết, hoặc biết mà vẫn cố tình nghe theo vì một lợi ích mơ hồ, viển vông, không thực tế. Câu hỏi đặt ra là, ai sẽ được lợi trong việc này? Chắc chắn không phải là trẻ em, chắc chắn cũng không phải là gia đình và cũng không phải là xã hội. Hậu quả thì đã rõ, trẻ em không đến trường, việc học tập bị gián đoạn, gia đình thì rơi vào chia rẽ, địa phương mất ổn định, chính trị, xã hội, an ninh trật tự không được bảo đảm. Và đất nước sẽ mất thêm nhiều thời gian, công sức để giải quyết hậu quả. Vậy thì người được lợi chắc chắn không ai khác, đó là các thế lực thù địch, phản động. Trong khi những gương mặt non nớt của trẻ thơ còn bơ phờ, lạc lõng bám theo đoàn người gây rối thì những đối tượng xấu, những kẻ chủ mưu của sự lợi dụng ấy lại đang mỉm cười, hả hê phía sau bàn phím.

Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và là nước thứ 2 trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội của chúng ta đã và đang có rất nhiều chủ trương, hành động để chăm sóc, bảo vệ trẻ em, vun đắp cho trẻ em có được tương lai tươi sáng. Chính phủ cũng đã có chỉ thị về việc tăng cường các giải pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em. Chỉ thị yêu cầu, cần xử lý nghiêm các hành vi xâm hại trẻ em; cần lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của trẻ em; ưu tiên xây dựng các điểm vui chơi cho trẻ em vùng khó khăn.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ Quân đội nói chung vào BĐBP nói riêng đã và đang có nhiều việc làm ý nghĩa để giúp đỡ những trẻ em nghèo khó. Đó là Dự án “Cán bộ, chiến sĩ nâng bước em tới trường”, chương trình "Nâng bước em tới trường - Con nuôi đồn Biên phòng" đỡ đầu các em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn, dạy học miễn phí cho trẻ em, đóng góp từng đồng lương, phụ cấp ít ỏi của mình để nấu những bát cơm, nồi cháo cho các em nhỏ trên các địa bàn biên giới. Ngay trong đại dịch Covid-19 vừa qua, nhiều em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn đã được các đơn vị quân đội đỡ đầu, trợ cấp và nuôi dạy. Chương trình “Mẹ đỡ đầu” đã được triển khai ở nhiều cấp hội phụ nữ trong toàn quân. Chương trình đã giúp cho các em nhỏ mồ côi có thêm niềm tin và nghị lực sống, vượt qua những tháng ngày khó khăn.

Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai. Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước. Nhưng thế giới ngày mai, đất nước ngày mai sẽ như thế nào nếu trẻ em của chúng ta hôm nay cứ mãi bị cuốn vào những hành vi kích động như đã từng xảy ra ở một số địa phương thời gian qua? Những ai còn tin theo kẻ xấu, bắt con em mình bỏ học để tham gia biểu tình, tụ tập đông người chống đối chính quyền, thì hãy nhìn sang các quốc gia ở Trung Đông, Tây Á và châu Mỹ. Những đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn, tuổi học hành được các đối tượng khủng bố huấn luyện để trở thành vật thế thân trong các cuộc chiến tranh, xung đột. Những đứa bé không có tương lai, không có gia đình, không nơi nương tựa. Cuộc sống của các em chìm trong khói súng và bạo lực. Nhiều trẻ em đã bỏ mạng chỉ vì sự ngông cuồng, ích kỷ trong sự mưu toan lợi ích của các phe nhóm, đảng phái chính trị.

Hành vi lợi dụng trẻ em để trục lợi đã vi phạm Công ước của Liên hợp quốc về quyền bảo vệ trẻ em, vi phạm quyền con người và xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của trẻ em. Đó cũng là dấu hiệu cấu thành tội phạm tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước. Theo luật pháp Việt Nam, hành vi tuyên truyền chống phá nhà nước là loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Và cũng theo Luật Bảo vệ trẻ em, những ai lợi dụng trẻ em để trục lợi có thể bị xử phạt tới 30 triệu đồng, trường hợp đặc biệt sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hãy dành thời gian, công sức chăm lo, vun trồng cho trẻ em những điều tốt đẹp. Mỗi chúng ta hãy vào cuộc để đấu tranh với bất kỳ hành động nào cố tình lợi dụng trẻ em để trục lợi. Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai và ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay. Nhân “Tháng hành động vì trẻ em” năm 2024, chúng ta hãy cùng chung tay bảo vệ, chăm sóc trẻ em, đem đến cho các em những điều tốt đẹp nhất, vì một thế hệ tương lai tươi sáng của đất nước.

CĐ, VS (st)

 

Núp bóng môi trường chống phá đất nước

Môi trường và ô nhiễm môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu. Tất cả các quốc gia, không phân biệt trình độ phát triển kinh tế, chế độ chính trị, xã hội đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, với cách nhìn thiếu thiện chí và chống phá đất nước, các thế lực thù địch đã đưa ra những quan điểm, thủ đoạn xuyên tạc cho rằng, chỉ có ở Việt Nam mới có tình trạng ô nhiễm môi trường. Đồng thời, các thế lực thù địch còn vu cáo Việt Nam bắt bớ, bỏ tù những nhà hoạt động môi trường.


Nhà nước Việt Nam đã và đang nỗ lực triển khai nhiều giải pháp để giữ gìn môi trường sống xanh, sạch, đẹp. 

Ngày 28/9/2023, bà Hoàng Thị Minh Hồng, sinh năm 1972, bị Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt 3 năm tù về tội trốn thuế. Tại tòa, bị cáo Hoàng Thị Minh Hồng đã thừa nhận hành vi phạm tội và rất ăn năn, hối hận về hành vi phạm tội của mình. Có điều đáng ngạc nhiên là, sau khi bà Hoàng Thị Minh Hồng bị bắt, trên các trang mạng như RFA, VOA tiếng Việt... liên tục đăng tải các bài viết vu cáo xuyên tạc cho rằng, Việt Nam đàn áp các nhà hoạt động môi trường. Phi lý hơn, chúng còn kêu gọi các tổ chức và quốc gia nước ngoài can thiệp, yêu cầu Việt Nam phải trả tự do cho Hoàng Thị Minh Hồng.

Liên quan đến vụ việc này, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Phạm Thu Hằng đã khẳng định: “Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ những thông tin sai sự thật với dụng ý xấu về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm của Việt Nam cũng như về quan hệ đối ngoại. Đây đều là những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam và đã bị điều tra, khởi tố và xét xử theo đúng các quy định của pháp luật Việt Nam”.

Môi trường là vấn đề toàn cầu, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang có nhiều nỗ lực, cố gắng cao nhất để giảm thiểu các hoạt động gây ô nhiễm môi trường. Nhưng các thế lực có ý đồ xấu chống phá Việt Nam luôn tìm cách để đào bới, khoét sâu những hạn chế, khuyết điểm. Chỉ một vụ việc nhỏ liên quan đến xả thải ra môi trường, hay xây dựng các công trình làm ô nhiễm nguồn nước... là ngay lập tức các đối tượng quy kết, quy chụp thành bản chất của chế độ chính trị.

Nhiều đối tượng còn hô hào lập nhóm, tổ chức diễn đàn trao đổi, thảo luận về vấn đề môi trường ở Việt Nam, nhưng thực chất là để kích động, chống phá Việt Nam. Thiếu tướng Trần Kim Tuyến, nguyên Cục trưởng Cục Phòng chống phản động, Bộ Công an cho biết: “Nói về những diễn đàn bảo vệ môi trường thì theo tôi, cái mục đích của họ không phải là bảo vệ môi trường, mà là lợi dụng vấn đề danh nghĩa bảo vệ môi trường để tiến hành những hoạt động phá rối an ninh trật tự”.

Mạng xã hội đã và đang trở thành một công cụ hữu hiệu để các đối tượng chống phá Việt Nam sử dụng để thổi phồng các vấn đề liên quan đến môi trường ở Việt Nam, tạo thành những điểm nóng thu hút sự quan tâm của dư luận. Đặc biệt, dưới sự điều hành của tổ chức phản động Việt Tân, các đối tượng liên tục tung tin, hình ảnh về các hoạt động gây ô nhiễm môi trường ở Việt Nam. Chúng tạo dựng, cắt ghép, nhào nặn thông tin nhằm làm cho người đọc mơ hồ, hoang mang, hoài nghi, mất niềm tin vào chế độ.

Nhớ lại sự việc ô nhiễm môi trường diễn ra tại Khu kinh tế Vũng Áng do Công ty Formosa gây ra vào năm 2016, các thế lực thù địch sử dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, môi trường đã kích động người dân tập trung đông người tuần hành trái phép, chống người thi hành công vụ, phá hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng. Đặc biệt, đối tượng Hoàng Đức Bình đã nhiều lần sử dụng facebook phát trực tiếp với những hình ảnh, lời lẽ vu khống lực lượng chức năng, mang tính kích động, xuyên tạc sự thật. Theo điều tra của lực lượng chức năng, Hoàng Đức Bình đã từng tham gia nhiều hội nhóm phản động, quan hệ, móc nối với các đối tượng phản động, chống đối trên địa bàn, thường xuyên đăng tải, chia sẻ trên facebook cá nhân những thông tin, tài liệu tuyên truyền nói xấu chế độ.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Cảnh Thìn, Phó Viện trưởng Viện An ninh phi truyền thống cho rằng, đằng sau những chiêu trò của các thế lực thù địch, không đơn thuần là vấn đề môi trường mà đó là nuôi dưỡng tiến hành một cuộc cách mạng màu ở Việt Nam, nhằm lật đổ chế độ chính trị của Việt Nam. “Chúng ta biết rằng, các thế lực thù địch, phản động không ưa gì chế độ chúng ta. Dù chúng ta có đạt thành tựu đến đâu chăng nữa và có tiến bộ xã hội đến đâu chăng nữa, thì các đối tượng không bao giờ thừa nhận. Cái thứ hai là, chúng lợi dụng tất cả các sự kiện thổi phồng, cắt ghép, bóp méo xuyên tạc kích động, trong đó có vấn đề về môi trường, bé biến thành to, nhỏ biến thành lớn, nhằm gây bất ổn ở Việt Nam” - Phó Giáo sư, Tiến sĩ Đỗ Cảnh Thìn cho biết.

Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng, tác động rất lớn từ biến đổi khí hậu và môi trường. Việt Nam cũng đã chung tay cùng cộng đồng quốc tế để làm cho trái đất xanh hơn. Rất nhiều chương trình được triển khai như trồng 1 tỷ cây xanh, giảm thiểu đun đốt xả thải khí CO2. Tại Hội nghị Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu lần thứ 26 diễn ra vào tháng 12/2021, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cam kết đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 và cam kết giảm phát thải khí methane toàn cầu vào năm 2030, tham gia tuyên bố về chuyển đổi điện than sang năng lượng sạch.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng khẳng định: “Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”. Như vậy, Việt Nam luôn tích cực, nỗ lực cố gắng để bảo đảm môi trường sống trở nên trong sạch và thân thiện hơn. Đồng thời, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho các tập thể, cá nhân tham gia các hoạt động bảo vệ môi trường. Những cá nhân, tổ chức nào vi phạm về môi trường sẽ bị xử lý công bằng, nghiêm minh, đúng người, đúng tội.

CĐ, VS (st)

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI!

BÀI 3: GÓC NHÌN QUỐC TẾ VỀ NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VIỆT NAM!
(Tiếp theo và hết)
     Con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân Việt Nam đã lựa chọn ngày càng tỏ rõ tính ưu việt và chứng minh sức sống, sức phát triển mạnh mẽ. Điều này đã được nhiều học giả, chính khách quốc tế và nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận!

Đường lối đối ngoại rộng mở góp phần khẳng định vị thế Việt Nam
Với đường lối đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì thế, có rất nhiều nước, trong đó có các cường quốc hàng đầu trên thế giới, muốn thiết lập quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện và đối tác đặc biệt với Việt Nam.

Tính đến tháng 9-2023, ngoài 3 quốc gia thiết lập quan hệ đặc biệt với Việt Nam là Lào, Campuchia và Cuba, có 12 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác toàn diện với Việt Nam, gồm: Nam Phi, Chile, Brazil, Venezuela, Argentina, Ukraine, Đan Mạch, Myanmar, Canada, Hungary, Brunei và Hà Lan.

Ở mức đối tác cao hơn, có 13 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, gồm: Nhật Bản, Tây Ban Nha, Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland, Đức, Italy, Thái Lan, Indonesia, Singapore, Pháp, Malaysia, Philippines, Australia, New Zealand. Ở mức độ đối tác cao nhất có 5 quốc gia thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là Trung Quốc, Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc và Hoa Kỳ.

Việc Hoa Kỳ từng là quốc gia cựu thù với Việt Nam trong cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài 30 năm, cũng là nước đứng đầu thế giới tư bản công nhận thể chế chính trị của nước ta, ủng hộ một nước Việt Nam mạnh, độc lập, thịnh vượng và tự cường để thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác, phát triển bền vững là một sự kiện có ý nghĩa lịch sử rất quan trọng. Quan hệ đối tác chiến lược toàn diện là hợp tác lâu dài, tin cậy lẫn nhau và sâu rộng trong tất cả các lĩnh vực, cùng mang lại lợi ích chiến lược cho cả hai bên.

Kể từ khi đổi mới, Việt Nam không chỉ chủ động hội nhập quốc tế mà còn đóng góp nhiều sáng kiến để hóa giải các vấn đề toàn cầu. Là thành viên tích cực và chủ động, Việt Nam đã đưa ra những cam kết mạnh mẽ trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc và được quốc tế đánh giá cao. Ông Kamal Malhotra, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam trong giai đoạn 2018-2022, nhận định: "Nếu chúng ta nói về những kết quả trong 10 năm trở lại đây, Việt Nam có thể tự hào khi đứng trong hàng ngũ các nước đi đầu thực hiện các mục tiêu của Liên hợp quốc. Việt Nam cam kết mạnh mẽ để không ai bị bỏ lại phía sau". Tổng thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đánh giá: Việt Nam luôn là đối tác mạnh nhất của Liên hợp quốc kể từ khi gia nhập năm 1977; vai trò đầu tàu trong việc đạt được các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là nền tảng vững chắc giúp Việt Nam triển khai Chương trình phát triển bền vững 2030. Việt Nam đã và đang có những đóng góp quan trọng trong việc ủng hộ hòa bình bền vững.

Nhận được sự tín nhiệm cao của cộng đồng quốc tế, năm 2013, Việt Nam lần đầu tiên trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016 với số phiếu ủng hộ cao nhất trong số 14 nước thành viên mới (184/192). Tiếp đến, ngày 11-10-2022, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025. Ngày 7-6-2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021. Với 15 thành viên, trong đó có 10 thành viên không thường trực, Hội đồng Bảo an là một trong 6 cơ quan chính của Liên hợp quốc được trao trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế. Tiếp theo nhiệm kỳ đầu tiên của Việt Nam trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc 2008-2009, năm 2019 là lần thứ hai Việt Nam được bầu làm thành viên của cơ quan quyền lực cao nhất này của Liên hợp quốc.

Thành tựu của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận
Uy tín Việt Nam có được là nhờ những thành tựu của Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Các chuyên gia thuộc Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) nhận định: Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và có nhiều tác động khó lường, ảnh hưởng lớn đến kinh tế-xã hội, khoa học-công nghệ và đổi mới sáng tạo trên toàn cầu, việc Việt Nam vẫn duy trì được vị trí trong nhóm 50 quốc gia dẫn đầu thế giới là một nỗ lực rất lớn, đồng thời là tấm gương cho các nước đang phát triển khác. Theo Báo cáo về xếp hạng chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) năm 2021, Việt Nam được xếp thứ 44/132 quốc gia, nền kinh tế. Việt Nam là tấm gương cho các nước đang phát triển khác trong việc coi đổi mới sáng tạo là một ưu tiên quốc gia.

Nhiều hãng truyền thông quốc tế như AP, Reuters, Bloomberg, Global Times... khi đưa tin về Đại hội XIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã ca ngợi thành công về kinh tế và khả năng của Việt Nam ứng phó với đại dịch Covid-19, trở thành hình mẫu của thế giới về phòng, chống đại dịch và là điểm sáng của phát triển kinh tế khu vực châu Á với GDP năm 2020 đạt mức tăng trưởng 2,91% trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới lâm vào suy thoái. Báo Times Kuwait nhận định: “Việt Nam được biết đến là một quốc gia an toàn và chỉ số về an ninh con người đang được cải thiện. Với sự ổn định về chính trị, người dân Việt Nam tin tưởng vào hệ thống chính trị và các cấp lãnh đạo của Đảng, do đó các quyết sách quan trọng của Đảng thường được người dân Việt Nam hoàn toàn ủng hộ”.

Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá: “Với nền kinh tế ngày càng mở, đa dạng và đầu tư lớn vào nghiên cứu và phát triển, bao gồm cả lĩnh vực kinh tế số, Việt Nam là đối tác quan trọng trên mọi lĩnh vực, là nền kinh tế năng động, có môi trường đầu tư thân thiện, hệ thống chính trị ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác đối ngoại và là nhân tố quan trọng trong hợp tác kinh tế quốc tế”. Trang tin focus1.kr (Hàn Quốc) cho rằng: “Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam là dấu mốc lớn trong quá trình phát triển của Việt Nam, có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng tương lai phát triển của đất nước”.

Giáo sư Alexander Sokolovsky tại Khoa Châu Á-Thái Bình Dương, thuộc Viện Phương Đông của Đại học Viễn Đông (Nga) nhận định: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là Đảng của nhân dân, vì nhân dân, luôn biết lắng nghe mọi tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Đảng đã kịp thời đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa kể từ Đại hội lần thứ VI đến nay. Trong thế giới toàn cầu hiện đại, Việt Nam đã vươn tầm khỏi biên giới khu vực Đông Nam Á và tự tin bước trên con đường hợp tác quốc tế với tất cả các nước trên thế giới. 

Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), đến năm 2025, Việt Nam sẽ vượt qua Philippines và Singapore vươn lên đứng thứ ba Đông Nam Á với GDP hơn 571 tỷ USD. Trong vòng hai thập kỷ, Việt Nam đã thực sự đổi mới thành công, trở thành công xưởng sản xuất đang lên của thế giới. Ngân hàng HSBC nhận định, với xuất phát điểm chỉ là một nước xuất khẩu hàng may mặc và da giày có giá trị gia tăng thấp, đến nay Việt Nam đã trở thành một trung tâm sản xuất quan trọng trong lĩnh vực công nghệ. Tờ The Diplomat nhận định: “Việt Nam đã phát triển từ một trong những nền kinh tế "nhỏ nhất" trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất. Năm 1986, khi bắt đầu đổi mới, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam lên tới 378% và Việt Nam là một trong những quốc gia nghèo nhất trong khu vực với tỷ lệ người nghèo hơn 70%. Đến năm 2020, lạm phát xuống mức 4%, tỷ lệ người nghèo còn 5%. Nhờ đạt được nhiều thắng lợi trên mặt trận kinh tế, GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng 10 lần, từ dưới 300USD vào thập niên 1980 lên 2.800USD vào năm 2020.

Nhìn lại toàn bộ sự phát triển theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta có thể hoàn toàn tự tin khẳng định: Đường lối cách mạng của Đảng nhằm đưa Việt Nam phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở trung thành, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, vừa phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại trong kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Đây cũng là đóng góp thực tiễn và lý luận có ý nghĩa rất quan trọng của Đảng ta vào hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học trên thế giới./.
Yêu nước ST.

ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM LÀ PHÙ HỢP VỚI XU THẾ TẤT YẾU CỦA THỜI ĐẠI!

BÀI 2:  CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN Ở VIỆT NAM LÀ ĐÚNG ĐẮN, HỢP THỜI!
     Mặc dù chủ nghĩa xã hội (CNXH) tạm thời lâm vào thoái trào sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn trung thành, kiên định với Chủ nghĩa Mác-Lênin, vận dụng sáng tạo vào điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam để đưa đất nước tiếp tục phát triển đi lên CNXH và đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng!

Con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam
Trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Ngay khi mới ra đời và trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn khẳng định: CNXH là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản và nhân dân Việt Nam; đi lên CNXH là yêu cầu khách quan, là con đường tất yếu của cách mạng Việt Nam”.

Con đường phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tìm ra cách đây hơn một thế kỷ khi Người tiếp cận Luận cương của Lênin về các dân tộc thuộc địa. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô-nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và trực tiếp lĩnh hội tư tưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917.

Người nhận định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức bóc lột trên trái đất đứng lên tự giải phóng. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”(1).

Trên cơ sở vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng xã hội chủ nghĩa của Cách mạng Tháng Mười Nga vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, năm 1927, Nguyễn Ái Quốc cho ra đời tác phẩm “Đường Kách mệnh”-giáo trình lý luận để huấn luyện các chiến sĩ cộng sản đầu tiên, tạo tiền đề để tổ chức Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930. Hội nghị thông qua Cương lĩnh, Chính cương và Điều lệ vắn tắt của Đảng.

Đây là những văn kiện đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng xác định đường lối chiến lược, sách lược cơ bản của cách mạng Việt Nam và tôn chỉ, mục đích, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Cương lĩnh của Đảng được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (năm 1951) xác định nhiệm vụ hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ phong kiến, phát triển chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên CNXH. 

Thực hiện Cương lĩnh của Đảng, sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc là yếu tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng quyết định thắng lợi của nước ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước vào năm 1975. 

Sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử
Trong thập niên 1980, tình hình thế giới trải qua những chuyển biến kinh tế và chính trị sâu sắc. Trong đó, Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành công cuộc cải tổ. Trên cơ sở nhận định nhạy bén và sáng suốt rằng công cuộc cải tổ ở Liên Xô đi ngược lại những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin về CNXH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) thông qua nghị quyết có ý nghĩa lịch sử về thời kỳ quá độ phát triển theo con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam.

Đường lối đổi mới của Đảng ta đề ra tại Đại hội VI là sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam mà cụ thể là chính sách kinh tế mới của Lênin. Theo đó, Đảng ta thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; kế thừa và áp dụng thành tựu về quản lý kinh tế theo cơ chế kinh tế thị trường; chấp nhận sự tồn tại đan xen của các loại hình sở hữu nhà nước, tập thể và tư nhân; chăm lo đến lợi ích thiết thân của người lao động.

Đồng thời, Đảng ta quyết định thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, với chủ trương Việt Nam là bạn với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Cương lĩnh xác định: “Phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp phần phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống được những nguy cơ lớn: Sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên”. Cương lĩnh chính trị không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với sự nghiệp đổi mới của nước ta mà còn đối với phong trào cách mạng thế giới.

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (năm 2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển), một lần nữa khẳng định: "Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử".

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới và đưa ra nhận định: “Đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nước ta, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, mang tầm vóc và ý nghĩa cách mạng, là quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện, triệt để, là sự nghiệp to lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) nhận định: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”; đồng thời khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”.

Thành tựu đổi mới đất nước là minh chứng sinh động
Thành tựu của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới đã được khẳng định bằng các số liệu “biết nói”. Trước đổi mới, Việt Nam là một nước nghèo, bị chiến tranh tàn phá nặng nề, khủng hoảng kinh tế-xã hội diễn ra gay gắt, đời sống nhân dân hết sức khó khăn. Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, quy mô Tổng sản phẩm nội địa (GDP) năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, đưa nước ta trở thành nền kinh tế lớn thứ 4 trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, đạt mức 3.512USD.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, hiện nay Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới. Việt Nam coi việc phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa-xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình hằng năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn dưới 3% năm 2020(2).

Với đường lối đối ngoại đúng đắn dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Nước ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với khoảng 190 quốc gia thành viên Liên hợp quốc. Đảng Cộng sản Việt Nam thiết lập quan hệ đối ngoại Đảng với 254 chính đảng ở 114 quốc gia.

Đến nay, đã có hơn 70 quốc gia công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường, trong đó có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam đã ký kết 15 Hiệp định tự do thương mại (FTA) khu vực và song phương. Các FTA Việt Nam tham gia bao phủ khoảng 60 nền kinh tế có tổng GDP chiếm gần 90% GDP thế giới, trong đó có 15 nước thành viên G20 và 9/10 đối tác kinh tế-thương mại lớn nhất của Việt Nam thuộc 3 trung tâm kinh tế lớn nhất thế giới là Bắc Mỹ, Tây Âu và Đông Á. 

Cách đây hơn 30 năm, năm 1992, đồng chí Nguyễn Phú Trọng trên cương vị Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản công bố bài viết “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” từng đưa ra nhận định, thất bại của CNXH ở Liên Xô chỉ là tạm thời, còn quy luật khách quan không ai cưỡng lại được vẫn là CNXH sẽ phủ định và thay thế chủ nghĩa tư bản (CNTB). 

Gần 30 năm sau, năm 2021, trong bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu vấn đề: “Trước đây, khi còn Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế giới thì vấn đề đi lên CNXH ở Việt Nam dường như không có gì phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào thì vấn đề đi lên CNXH lại được đặt ra và trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để xuyên tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của CNXH, quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai lầm của Chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng CNXH. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác. Có người còn phụ họa với các luận điệu thù địch, công kích, bài bác CNXH, ca ngợi một chiều CNTB. Thậm chí có người còn sám hối về một thời đã tin theo Chủ nghĩa Mác-Lênin và con đường xã hội chủ nghĩa! Thực tế có phải như vậy không? Thực tế có phải hiện nay CNTB, kể cả những nước tư bản chủ nghĩa già đời vẫn đang phát triển tốt đẹp không? Có phải Việt Nam chúng ta đã chọn con đường đi sai không?”. 

Bằng những lập luận khoa học, sắc bén, có sức thuyết phục cao, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định rằng, ngay từ khi thành lập, Đảng ta luôn trung thành, kiên định và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đưa đất nước ta tiếp tục phát triển đi lên CNXH phù hợp xu thế tất yếu của thời đại./.
-----------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 1980, tập 12, tr.461
(2) “Những thành tựu to lớn sau gần 40 năm đổi mới đất nước”; https://tuyengiao.vn/thoi-su/nhung-thanh-tuu-to-lon-sau-gan-40-nam-doi-moi-dat-nuoc-146363, 13-9-2023.
(còn nữa)
Yêu nước ST.