Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

       Trong mọi giai đoạn của cách mạng Việt Nam, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định giá trị trường tồn, là một bộ phận quan trọng cấu thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng, là ngọn cờ dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Do đó, việc bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

1- Giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định qua các cơ sở lý luận và thực tiễn sau:

Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi đến thắng lợi.

Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; phát triển kinh tế, văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ trung thành của nhân dân”… Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Người không chỉ luôn phấn đấu thực hiện, mà còn giáo dục, dìu dắt các thế hệ cách mạng và người dân Việt Nam về tư tưởng đó. Chính vì vậy, Người là hiện thân của chủ nghĩa nhân văn cao cả, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Người là biểu tượng sáng ngời của tình đoàn kết quốc tế, một chiến sĩ quả cảm không ngừng đấu tranh cho hòa bình và tiến bộ xã hội... Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành giá trị văn hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ trên thế giới; là tài sản tinh thần vô cùng quý báu của dân tộc ta trên con đường hội nhập và phát triển. Dù thế giới biến đổi không ngừng và có nhiều thay đổi phức tạp, khó lường, nhưng giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh luôn trường tồn cùng với sự phát triển tiến bộ của nhân loại và dân tộc Việt Nam.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần phát triển, làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong điều kiện cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh học tập, tiếp thu và vận dụng lý luận Mác - Lê-nin một cách sáng tạo trên nền của một nhân cách vĩ đại, với trí tuệ uyên bác và luôn lấy thực tiễn Việt Nam làm điểm xuất phát. Những vấn đề lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam đã được Người luận giải trên cơ sở gắn lý luận với thực tiễn, xuất phát từ đòi hỏi của dân tộc với sự phát triển của thời đại. Người luôn nắm vững cái cốt lõi, “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “phương pháp làm việc biện chứng”. Trên tinh thần và cách tiếp cận đó, hệ thống các quan điểm của Người về dân tộc, cách mạng giải phóng dân tộc, về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) của dân, do dân, vì dân, xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam), xây dựng văn hóa, đạo đức, con người mới, về quân sự, ngoại giao… đều phản ánh sự kế thừa, phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lê-nin gắn với điều kiện lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.

Ngoài ra, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam còn là tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, và “quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân”. Điều đó cho thấy giá trị tư tưởng của Người thông qua các luận điểm về quyền sống tự do, độc lập - một trong những giá trị vĩnh hằng trong quyền tự nhiên của con người và cũng là quyền căn bản của mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Bên cạnh đó, các luận điểm mang dấu ấn sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự lực cánh sinh, về phát huy sức mạnh toàn dân tộc, về xây dựng nền văn hóa mới, giáo dục mới, con người mới, gắn với thể chế chính trị mới; xây dựng quân đội nhân dân và nền ngoại giao nhân dân dựa trên nội lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại… cũng là sự bổ sung, phát triển và làm phong phú lý luận Mác - Lê-nin gắn với thực tiễn Việt Nam.

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng quan trọng để Đảng ta hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách thực hiện các mục tiêu của cách mạng.

Quá trình cách mạng Việt Nam 94 năm qua đã chứng minh, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã trở thành ngọn cờ soi đường cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Mặc dù đến Đại hội VII của Đảng, lần đầu tiên, Đảng ta trang trọng ghi vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, song trên thực tế, cùng với học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành “nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam” cho Đảng ta ngay từ khi Đảng mới ra đời vào mùa Xuân năm 1930, với những văn kiện đầu tiên của Đảng mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh. Và trong suốt quá trình xây dựng, trưởng thành, phát triển của Đảng, hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với lý luận Mác - Lê-nin đã trở thành kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.

Với vai trò, uy tín và tầm ảnh hưởng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành lãnh tụ tiêu biểu cho khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập, tự do của toàn dân tộc. Tư tưởng của Người về các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam không chỉ chứa đựng giá trị nhân văn cao đẹp, mà còn hàm chứa tư duy lý luận khoa học. Cùng với lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng cốt lõi của Đảng ta để xác định đường lối chiến lược, sách lược trong chỉ đạo cách mạng, nhằm đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách mạng, quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội trên tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.

Trong tình hình mới, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới đất nước, nhằm thực hiện thành công tầm nhìn chiến lược của Đảng được xác định tại Đại hội XIII: “Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1).

Thực tế cho thấy, hệ thống quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mục tiêu, con đường, phương pháp đấu tranh trong cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới ở Việt Nam là cơ sở cho đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 94 năm qua. Đồng thời, những thành tựu đã đạt được về mọi mặt ở Việt Nam là không thể phủ nhận, điều đó không chỉ phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản, mà còn phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp và giải phóng con người.

Khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là linh hồn, ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong suốt hơn nửa thế kỷ qua. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta, nhân dân ta. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội của toàn dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam"(2).

Thứ tư, tư tưởng Hồ Chí Minh được hiện thực hóa đã cổ vũ, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, làm nên những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam.

Một trong những đóng góp nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với dân tộc, là đã tìm ra con đường duy nhất đúng cho cách mạng Việt Nam - con đường “cách mạng vô sản”. Tiếp theo đó là phương pháp để thức tỉnh nhân dân Việt Nam - những người bị áp bức tàn bạo dưới chế độ thực dân. Ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự chuyển biến của thời đại, gắn cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa với cách mạng vô sản. Thông qua các quan điểm và hoạt động thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam.

Nhờ sự hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh vào phong trào cách mạng Việt Nam, nhân dân ta đã được thức tỉnh, nâng cao ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Văn kiện Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”(3). Đại hội XI của Đảng tiếp tục khẳng định giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh “là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi”(4).

Trong 38 năm đổi mới đất nước dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, cơ bản xóa được đói, giảm được nghèo theo định hướng phát triển bền vững. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường. Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa được giữ vững, an ninh chính trị, trật tự, an toàn và an sinh xã hội được bảo đảm. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của đất nước đã tăng lên rất nhiều, tạo tiền đề để nước ta tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn theo con đường lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Nhìn lại 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(5).

2- Để bảo vệ các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay, cần triển khai đồng bộ, hiệu quả các giải pháp làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng thấm sâu vào đời sống xã hội. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, cũng như của mọi chủ thể trong hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó, cần tập trung quán triệt và thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp chủ yếu sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của toàn dân về giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đây là định hướng quan trọng, là tiền đề tạo ra sự chuyển biến từ nhận thức đến hành động của các chủ thể. Bởi vì, nhận thức hướng dẫn hành động, nhận thức đúng thì hành động đúng và nhận thức đúng sẽ không vấp phải những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí thất bại trong hoạt động thực tiễn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng căn dặn: “Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng được”(6). Theo đó, cần tăng cường giáo dục, tuyên truyền, làm cho cấp ủy các cấp, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân nhận thức sâu sắc, toàn diện về các nội dung khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong tiến trình cách mạng Việt Nam, như Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhấn mạnh: “Thế giới đã và sẽ còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn sống mãi trong kho tàng văn hóa của nhân loại(7).

Ngoài ra, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn bộ hệ thống chính trị, bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập lý luận Mác - Lê-nin, học tập đường lối, chính sách của Đảng; đồng thời phải học tập văn hóa, kỹ thuật và nghiệp vụ”(8). Để nâng cao hiệu quả của công tác giáo dục chính trị, các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, nhất là các nhà trường giảng dạy về lý luận chính trị cần thực hiện nghiêm Kết luận số 94-KL/TW, ngày 28-3-2014, của Ban Bí thư, “Về việc tiếp tục đổi mới việc học tập lý luận chính trị trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới”; các quan điểm trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận.

Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018, của Ban Bí thư chỉ rõ: Đổi mới mạnh mẽ về nội dung, phương pháp học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh theo hướng phù hợp với từng đối tượng, phát huy tính tự giác, tinh thần trách nhiệm, thường xuyên tự học tập, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ, bản lĩnh chính trị và phương pháp công tác của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là thế hệ trẻ. Tiếp tục đổi mới nội dung giáo trình theo hướng giảng dạy, truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những học thuyết đương đại, vận dụng sáng tạo, tăng cường liên hệ thực tiễn. Đổi mới phương pháp giảng dạy lý luận chính trị, ứng dụng các phương pháp hiện đại, hấp dẫn người học, tạo hứng thú tìm tòi, nghiên cứu. Đổi mới hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá thực chất kết quả học tập lý luận chính trị theo hướng thực chất. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị.

Tiếp tục nghiên cứu xây dựng Chương trình học tập theo hướng phân biệt rõ cấp học và đối tượng học; đồng thời tăng cường, bảo đảm tính liên thông trong đào tạo các trình độ lý luận chính trị, phân cấp rõ ràng, hạn chế tối đa sự chồng chéo, trùng lặp trong hệ thống các cơ sở đào tạo lý luận chính trị để nâng cao hiệu quả việc học tập, đào tạo, bồi dưỡng và tránh lãng phí về thời gian, kinh phí. Tiếp tục đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị phù hợp với nhu cầu quy hoạch, đào tạo, sử dụng cán bộ.

Theo đó, cần đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ nội dung, chương trình, giáo trình, tài liệu và phương pháp giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống các học viện, nhà trường; tập trung truyền thụ đầy đủ những nội dung cơ bản, cốt lõi, cũng như giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật những nội dung, giá trị mới, phù hợp với sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, làm cơ sở định hướng cho việc vận dụng trong thực tiễn. Đặc biệt, cần chú trọng việc giáo dục lý luận chính trị cho thế hệ trẻ trong các nhà trường, đổi mới, nâng cao tính hấp dẫn của việc dạy và học các bộ môn khoa học Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho người học nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu sắc về bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn và các giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Hai là, tích cực, chủ động, nhạy bén trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch hòng phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để thực hiện tốt nội dung này, cần quán triệt, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 34-CT/TW, ngày 17-4-2009, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Bộ Chính trị, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; quan điểm của Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đó, các cấp, các ngành, nhất là cơ quan báo chí, tuyên truyền, học viện, nhà trường, viện nghiên cứu cần chủ động, tích cực đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần thủ đoạn xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập giữa chủ nghĩa Mác - Lê-nin với tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc chủ nghĩa Mác - Lê-nin; thổi phồng những sơ hở, yếu kém trong công tác lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, nhằm kích động tâm lý bất mãn, chống đối, chia rẽ nội bộ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Các cấp, các ngành phải tích cực, chủ động thực hiện các biện pháp xử lý kịp thời những bức xúc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, sự nhất trí trong nội bộ, củng cố và nâng cao niềm tin vào giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, đi đôi với tăng cường quản lý chặt chẽ báo chí, xuất bản, internet, mạng xã hội theo đúng quy định của pháp luật; tăng cường thông tin đối ngoại và thông tin nội bộ, nhằm nâng cao tính thuyết phục, tính chiến đấu của công tác tư tưởng, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.

Trong quá trình tìm đến chân lý cách mạng, ngay từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh: “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”(9). Do vậy, để tiếp tục khẳng định giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, phải tích cực nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển và tìm ra các giá trị mới của tư tưởng Hồ Chí Minh cả về lý luận và thực tiễn. Vì thế, trước hết phải nghiên cứu, vận dụng và phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng tinh thần mác-xít nhằm cải tạo thực tiễn; tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển quan điểm, luận điểm toàn diện và sâu sắc của Người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của đất nước.

Để thực hiện tốt các nội dung trên, đòi hỏi phải phát huy dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị trên cơ sở quán triệt và thực hiện tốt Quy định số 285-QĐ/TW, của Bộ Chính trị khóa XI, về dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị ở trong các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu. Thông qua đó, bảo đảm nâng cao chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học, nhằm góp phần bổ sung, phát triển sáng tạo, nâng tầm lý luận Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với yêu cầu thực tiễn của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay.

Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của lực lượng chuyên trách trong đấu tranh bảo vệ giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chất lượng và hiệu quả của công tác lý luận, của việc bảo vệ, vận dụng, phát huy giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ cán bộ lý luận và lực lượng chuyên trách. Hơn ai hết, đội ngũ này phải là lực lượng thật sự kiên định về lập trường tư tưởng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, am hiểu sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng. Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ lý luận, lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Theo đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng trong các học viện, nhà trường về nội dung, giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh cần được chú trọng, đổi mới; đồng thời, làm tốt việc lựa chọn, bồi dưỡng, sử dụng những người có tâm huyết, có trình độ cao, năng lực, phong cách công tác tốt để làm công tác giảng dạy, nghiên cứu lý luận.

Ngoài ra, cần thường xuyên kiện toàn tổ chức lực lượng chuyên trách, nhất là cán bộ tuyên giáo và lực lượng đấu tranh trên không gian mạng, phát huy vai trò của ban chỉ đạo 35 các cấp, lực lượng chuyên sâu, lực lượng 47 trong quân đội... để nâng cao hiệu quả đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái trên internet và các phương tiện truyền thông xã hội. Thường xuyên quan tâm, động viên và phát huy hiệu quả các trang website, blog cá nhân, nhóm của lực lượng nòng cốt và ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa. Thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật để kịp thời ngăn chặn, lọc thông tin, không để các thế lực thù địch lợi dụng internet, các phương tiện truyền thông xã hội để xuyên tạc, phủ nhận giá trị trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như nền tảng tư tưởng của Đảng ta./.

----------------------

(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 112
(2) Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên): Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 99
(3) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 633
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 88
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 103 - 104
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 360
(7) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trong cuốn sách Thế giới còn đổi thay, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008, tr. 912
(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 113
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. 509

KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH VỚI ÂM MƯU “PHI CHÍNH TRỊ HÓA” QUÂN ĐỘI

 


Trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới”, Tổng Bí thư cũng phân tích rõ bối cảnh quốc tế, trong nước tác động đến tính hình chính trị, tư tưởng trong Quân đội và đặt ra yêu cầu cần phải tiếp tục tăng cường đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó dự báo: các thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; tình hình biển Đông ngày càng tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường; cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động sâu sắc đến nhiều quốc gia trên nhiều phương diện khác nhau…

Ở trong nước, mặc dù sau 35 năm đổi mới, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao, chưa vững chắc; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ, sĩ quan Quân đội vẫn còn nan giải… Lợi dụng tình hình đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức thực hiện các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội. Do đó, cần phải kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá đó để tiếp tục bảo vệ Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Quan điểm chỉ đạo về đấu tranh với âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội được Tổng Bí thư nhắc đến nhiều lần trong các bài viết như “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi và sự trưởng thành, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam”, “75 năm Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng vững bước dưới lá cờ vinh quang của Đảng”, “Nắm vững thời cơ, vượt qua thách thức, tiếp tục thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”… Trong các bài viết, Tổng Bí thư cũng đưa ra các giải pháp để kiên quyết đấu tranh, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Những giải pháp đó là:

Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội. Như đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Sự lãnh đạo của Đảng với Quân đội được khẳng định ngay từ khi Quân đội thành lập, thông qua một cơ chế, phương thức chặt chẽ, phù hợp, đảm bảo cho Quân đội thực sự là “tổ chức quân sự của Đảng”, luôn tận trung với nước, tận hiếu với dân”(5). Do đó, bất luận trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn kiên định với nguyên tắc Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội. Nếu tách rời sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội sẽ mất phương hướng chiến đấu, phân rã về chính trị, tư tưởng, tổ chức, không còn sức mạnh để chiến đấu chống lại những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Hai là, tập trung nâng cao chất lượng tổ chức và hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị trong Quân đội, nhất là đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội. Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội”(6). Theo đó, cần làm tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị để nâng cao nhận thức, ý thức đấu tranh, khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, trong đó có âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Quan tâm và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, khắc phục những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc, góp phần giữ vững bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ” trong tình hình mới.

Ba là, phát huy vai trò của công tác thông tin, tuyên truyền, báo chí, xuất bản để tuyên truyền, định hướng nhận thức, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ. Cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân cần chú trọng đến công tác tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, chiến sĩ thấy rõ sự nguy hiểm của âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội; chủ động thông tin tích cực, kịp thời nhằm định hướng tư tưởng, nhận thức trước những vấn đề phức tạp, nhạy cảm góp phần nâng cao sức đề kháng, tinh thần cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ. Các cơ quan báo chí, truyền thông cũng cần chú trọng hơn nữa đến việc tuyên truyền, định hướng thông tin kịp thời cho cán bộ, chiến sĩ, tránh để những “khoảng trống” thông tin khiến các thế lực thù địch có cơ hội xuyên tạc, dẫn dắt thông tin nhằm mục đích chống phá.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải luôn nhận thức đầy đủ và sâu sắc bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam và có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân. Mục tiêu chiến đấu của Quân đội cũng chính là mục tiêu, lý tưởng của Đảng - vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên, sĩ quan quân đội phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén và kiên quyết đấu trnh làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, nhanh chóng, tỉnh táo, kịp thời xử lý những tình huống bất ngờ, phức tạp diễn ra trong thực tiễn theo đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và quy định của Quân đội, không để kẻ địch lợi dụng, lôi kéo, thao túng vào các hoạt động chống phá.

Có thể khẳng định, “phi chính trị hóa” Quân đội là một âm mưu thâm độc, nguy hiểm, không thể coi thường, xem nhẹ vì nó liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và liên quan đến bản chất của Quân đội nhân dân Việt Nam. Những quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong cuốn sách “Một số vấn đề về đường lối quân sự, chiến lược quốc phòng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới” vừa là một lời cảnh báo, nhắc nhở song cũng là chỉ đạo, định hướng cho mỗi chúng ta phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực thù địch.

          V3.

Không thể tư duy kiểu “hớt váng”

 


Sau 2 năm thực hiện Kết luận số 01-KL/TW (gọi tắt là Kết luận 01), trong quá trình tổ chức hội nghị sơ kết rút kinh nghiệm, thực tiễn ở nhiều cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị các cấp ghi nhận không ít ý kiến băn khoăn. Một trong những vấn đề được dư luận xã hội quan tâm đặt ra là: Tại sao Đảng ta càng đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thì số lượng cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật càng nhiều? Tại sao ở một số bộ, ngành, địa phương, mặc dù người đứng đầu mỗi lần đăng đàn phát biểu trong các hội nghị liên quan đều hô hào phải đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực, suy thoái, nhưng chỉ mới “dăm bữa nửa tháng” đã vướng vòng lao lý?

Một số cán bộ vừa mới hôm qua lên diễn đàn thuyết giảng đạo lý, hôm sau đã phải tra tay vào còng? Phải chăng, thực trạng đó chứng minh, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh chỉ là hình thức, kém hiệu quả, trước hết là ở ngay trong hệ thống chính trị, ngay trong hàng ngũ cán bộ cấp cao? Phải chăng cán bộ càng được học cao, vi phạm càng nhiều...

Những vấn đề được một bộ phận dư luận xã hội đặt ra như trên một phần xuất phát từ những thông tin do các thế lực thù địch xuyên tạc, lèo lái. Thành tựu của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp luôn là đề tài được các đối tượng cực đoan, bất mãn có tư tưởng thù địch khai thác, thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước trên không gian mạng.

Họ bám vào các vụ việc tiêu cực, các cán bộ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống bị xử lý kỷ luật đảng, truy tố trước pháp luật để suy diễn, xuyên tạc, phủ nhận thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; bóp méo, bôi đen tư tưởng Hồ Chí Minh. Những thông tin sai trái, xấu độc trên không gian mạng đã tác động đến tâm lý, tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng, dẫn đến kiểu tư duy “hớt váng”, thấy hiện tượng mà không hiểu bản chất; thấy cây mà không thấy rừng...

Để hiểu rõ những chuyển biến tích cực và kết quả đạt được sau 2 năm thực hiện Kết luận 01 cũng như thành quả nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách khách quan, toàn diện. Trước hết, đó là tinh thần, phương châm chỉ đạo kết hợp “xây” và “chống”.

Kết luận 01 nêu rõ nhiệm vụ: “Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, đơn vị và công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giải quyết hiệu quả các khâu đột phá và các vấn đề trọng tâm, bức xúc trong thực tiễn”.

Quá trình quán triệt, tiếp tục triển khai thực hiện Kết luận 01 cần thấy rõ: Đảng ta đã đặt ra yêu cầu vừa khái quát, vừa cụ thể về việc phải gắn chặt, kết hợp việc học tập, làm theo Bác với thực hiện nhiệm vụ chính trị của cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và hệ thống chính trị các cấp; trong đó có nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tiêu cực, suy thoái trong nội bộ. Như vậy, kết quả học tập, làm theo Bác cần phải được thể hiện cụ thể thông qua hành động, việc làm, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ. Nói cách khác, nó phải được lượng hóa cụ thể trên thực tế.

Trong các hội nghị chuyên đề và quá trình tiếp xúc cử tri, rất nhiều lần các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta đã lưu ý, việc có nhiều cán bộ suy thoái, tham nhũng bị điều tra, xử lý không phải là “càng chống càng sai”, “càng học càng kém”... mà bản chất của vấn đề là do càng ngày chúng ta càng làm mạnh, làm quyết liệt việc đấu tranh, chỉnh đốn đội ngũ theo tinh thần không có vùng cấm. Trước đây, ít có vụ việc bị xử lý không phải là không có tham nhũng, tiêu cực, mà bởi lúc đó công tác đấu tranh chưa quyết liệt như hiện nay nên việc phát hiện, xử lý tiêu cực chưa hiệu quả.

Với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh, chúng ta cần thấy rõ, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái là những biểu hiện vô cùng tinh vi, vô cùng khó khăn để có thể lôi ra ánh sáng công lý. Chủ nghĩa cá nhân như sâu mọt đục khoét bên trong thân cây.

Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tiêu cực gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo Bác với tinh thần “lấy xây để chống” thời gian qua đã lôi ra được hàng loạt cán bộ suy thoái trong nội bộ Đảng. Đó là thành tựu của cuộc đấu tranh đầy cam go, phức tạp và không ít “hy sinh”. Thành tựu đó đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, ngày càng đạo đức, văn minh để xứng đáng với niềm tin và sự gửi gắm của nhân dân.

          V3.

Hiệu quả hội nhập quốc tế hiện diện trên mọi mặt đời sống xã hội

 



Sau hơn 30 năm thực hiện “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn, Đảng ta đã xác nhận nhiều mối quan hệ đan xen nhau rất phức tạp đòi hỏi phải xử lý đúng đắn, hiệu quả, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”.

Trong Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế, Đảng ta đã chỉ rõ mục tiêu của hội nhập quốc tế là: “Củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo toàn và phát huy bản sắc dân tộc, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Quan điểm và chủ trương của Đảng nêu bật việc chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, tiền đề để giữ độc lập, tự chủ trên mọi mặt đời sống xã hội, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Quán triệt và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế trong công tác đối ngoại, những năm qua, chúng ta đã thu được những thành quả khả quan.

Trong lĩnh vực chính trị. Chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: Chủ động tham gia phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng và thực chất cả trong kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn.

Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á-Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia hội nhập sau, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực tham gia tiến trình hội nhập khu vực, chủ động đề xuất những sáng kiến, thúc đẩy các liên kết. Việt Nam cũng tích cực hội nhập sâu rộng vào trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trên cộng đồng quốc tế.

Trong lĩnh vực kinh tế. Chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học-công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến; khai thác hiệu quả các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là các khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương.

Theo Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2022, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt 732,5 tỷ USD, xuất siêu 11,2 tỷ USD. Đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký hơn 400 tỷ USD, năm 2022 đạt 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với năm trước. Việt Nam được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và hơn 20 nhà tài trợ đa phương.

Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất-kỹ thuật thuận lợi cho việc bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và hội nhập các lĩnh vực khác. Kinh tế đất nước phát triển, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Trong lĩnh vực văn hóa-xã hội. Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Hội nhập văn hóa xã hội đi vào chiều sâu đã thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày càng nhiều hơn.

Từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này đưa tới việc hình thành nhiều dự án, nhiều công trình văn hóa ngay tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân và khuyến khích giao lưu với cộng đồng quốc tế. Nguồn lực và động lực về văn hóa-xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam, để ánh sáng văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trên bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng, an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng, an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực, đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quân sự tại hơn 30 nước và có hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh, quốc phòng khu vực và từng bước tham gia vào những hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh, quân sự toàn cầu.

V3.

LÀ MỘT TÍN ĐỒ CÔNG GIÁO - ÔNG JB NGUYỄN HỮU VINH NÊN LẮNG NGHE, THẤU HIỂU NHIỀU HƠN

 

Nếu các bạn vào fb cá x của ông JB Nguyễn Hữu Vinh (một tín đồ của đạo Công giáo) thì sẽ thấy rất nhiều bài viết công kích, gây mâu thuẫn trong cộng đồng Phật Giáo. Cá x tôi cho rằng, điều tối kỵ nhất của một Tín đồ CG là làm điều mà Chúa không cho phép, vậy mà ông Vinh vẫn làm được, quả là không nên.

Mỗi tôn giáo đều có giá trị riêng, mang lại sự an lạc và hướng thiện cho tín đồ của mình. Việc chỉ trích một tôn giáo khác không chỉ khiến ông Vinh mất đi uy tín mà còn có thể gây ra sự chia rẽ, mất đoàn kết trong cộng đồng. Tôi cho rằng ông Vinh nên tự nhìn lại mình và cân nhắc xem những bài viết của mình đã góp phần tạo dựng hay phá hủy sự đoàn kết xã hội. Tôn trọng người khác cũng chính là tôn trọng bản thân. Là một người có tầm ảnh hưởng, ông nên tận dụng sức mạnh của mình để truyền tải thông điệp tích cực, xây dựng cầu nối giữa các tôn giáo, thay vì khơi mào xung đột.

Tôi khuyên ông JB Nguyễn Hữu Vinh nên học cách lắng nghe và thấu hiểu hơn, bởi sự thấu hiểu sẽ mở ra con đường dẫn đến hòa bình và đồng thuận. Mọi hành động đều mang lại hệ quả; hãy đảm bảo rằng hệ quả đó là sự hòa hợp, không phải là xung đột

<Niềm Tin>

St. Trường Tồn 

Hiểu đúng bản chất quyền lực tối thượng ở Việt Nam là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc

 


Gần 80 năm qua, kể từ ngày lập quốc theo chế độ mới đến nay, việc thực thi quyền lực nhà nước của chúng ta ngày càng đúng đắn, tốt đẹp hơn, vì sự tối thượng là phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc. Do đó, nếu “nhà dân chủ” nào không hiểu bản chất vấn đề, cố ý đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, đánh tráo khái niệm giữa sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ với mục tiêu, bản chất thực thi quyền lực tối cao thuộc về nhân dân của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là điều đáng phải phê phán.

1. Lâu nay, chúng ta đã cởi mở hơn, tin cậy hơn trong những thảo luận nhiều vấn đề về đời sống xã hội. Xã hội chúng ta ngày càng công bằng, dân chủ, văn minh hơn, trước hết do chúng ta đã biết tự cân bằng các khu vực quyền lực, ứng xử đúng mực với mọi giai tầng xã hội. Điều này không phải bây giờ mới diễn ra mà đã có từ thượng cổ. Đó chính là nền tảng văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng phong phú, sâu sắc, toàn diện và luôn được các thế hệ người Việt Nam vun trồng, bồi đắp.

Đại đức Thích Đồng Đạo, trụ trì chùa Phương Lan, xã Nam Phương Tiến (huyện Chương Mỹ, TP Hà Nội) có nói đại ý rằng, để có những trang văn hay và chính xác hơn nữa đối với văn học sử của Việt Nam thì các nhà văn nên nghiên cứu thêm về lịch sử Phật giáo Việt Nam. Vì sử nước nhà có những giai đoạn song hành với sử Phật giáo. Nhiều vị quân vương nước ta lên ngôi dùng quyền lực trị vì thiên hạ đều có mối liên hệ mật thiết với Phật giáo qua các thiền sư. Khi vương triều nào đó mất đi thì các thiền sư vừa đảm nhiệm vai trò giữ đạo, vừa giữ nguồn tri thức cho dân tộc nên phần lớn các vị quân vương đều nhờ sự giáo dưỡng rất lớn của các thiền sư, mà điển hình nhất là Lý Bí, Lý Công Uẩn... Khi chúng ta nghiên cứu thêm về lịch sử Phật giáo sẽ giúp nhà văn dùng từ ngữ và các di tích liên quan đến Phật giáo và lịch sử dân tộc đúng đắn, hay hơn nhiều.

Tư duy trên của vị Đại đức phần nào nói lên rằng, nền Phật giáo Việt Nam chính là một bộ phận cấu thành nền văn hóa Việt Nam, góp phần vào sự trưởng thành đi tới văn minh của con người Việt Nam hiện đại. Đây cũng là một trong những nền tảng căn bản hình thành nên cốt cách dân tộc Việt Nam.

2. Quay lại vấn đề quyền lực. Thực ra, trong bất kỳ thể chế chính trị nào đều là câu chuyện hành xử quyền lực như thế nào để ích nước, lợi dân. Quyền lực của thể chế chính trị triều Lý, triều Trần, triều Lê đều tập trung nơi các vị vua, nơi triều đình. Thế thì tại sao, cũng là quyền lực đó ở các vị vua khai quốc, các vị minh quân, các đại thần tài đức thì nhân dân và Tổ quốc được ấm no, hạnh phúc, đất nước được bình yên, cường thịnh; nhưng với khung khổ quyền lực ấy rơi vào tay các hôn quân, gian thần đều khiến chính thể rối ren, nhân dân đói khổ, mất tự do, thậm chí mất nước, mất vương triều?

Như thế, quyền lực và thực thi quyền lực của một chế độ chính trị phải trở thành thái độ văn hóa sâu rễ bền gốc chứ không phải sự thỏa thích thực thi tất cả quyền hành để thỏa mãn chế độ chính trị đó. Nền tảng của quyền lực không thể bất định, cứng nhắc, chỉ khư khư dựa vào nguyên tắc giáo điều, mà quyền lực thời nay thể hiện tốt nhất vai trò của mình là thực thi quyền lực dựa trên nền tảng thượng tôn hiến pháp, pháp luật gắn với giá trị truyền thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc.

3. Thời gian gần đây, một số “nhà dân chủ” trong nước và ngoài nước cho rằng, bộ máy chính trị ở Việt Nam đã lộng quyền, tham nhũng tràn lan, từ đó làm mất vai trò quyền làm chủ của nhân dân. Thực tế đó chỉ sự đánh tráo khái niệm, đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Với chế độ của chúng ta, từ khi đặt nền móng độc lập (1945) đến nay, Hiến pháp và luật pháp của Việt Nam luôn hướng tới những điều tốt đẹp, quyền lực tối thượng luôn để phục vụ nhân dân và Tổ quốc. Điều này là bất di bất dịch. Gần 80 năm qua, chúng ta đã hết sức kiên định, đem tất cả của cải và vật chất, trí tuệ và niềm tin, nhất quán với con đường đã chọn, nhưng cũng biết cách linh hoạt để bảo vệ quyền lợi cao nhất của nhân dân, của quốc gia, dân tộc.

Để giữ gìn sự liêm chính của chính thể, sự trong sạch của bộ máy công quyền, những năm qua, chúng ta đã đẩy mạnh công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết "nhốt" quyền lực trong lồng cơ chế. Về vấn đề này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu trong Hội nghị toàn quốc tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng giai đoạn 2013-2020, đã nhận định: "Thể chế nói chung, thể chế về phòng, chống tham nhũng nói riêng cùng với chuẩn mực đạo đức trên các lĩnh vực và cơ chế kiểm soát quyền lực là yếu tố cơ bản, nền tảng, có tác dụng ngăn chặn từ gốc hành vi tham nhũng. Phải xây dựng các quy chế nội bộ của Đảng, các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức áp dụng đối với cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức, liêm chính, gương mẫu đi đầu trong phòng, chống tham nhũng... Khẩn trương hoàn thiện các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch".

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng cho rằng, tham nhũng là "khuyết tật bẩm sinh" của quyền lực, là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của chế độ ta. Thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn. Do vậy, trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng không được chủ quan, nóng vội, thỏa mãn; không được né tránh, cầm chừng, không "ngừng" , không "nghỉ"; vừa phải kiên quyết phát hiện, xử lý tham nhũng, vừa phải kiên trì giáo dục, quản lý, ngăn ngừa không để xảy ra tham nhũng; đồng thời phải luôn cảnh giác, đấu tranh với những âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, phần tử xấu lợi dụng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực để kích động, chia rẽ, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

4. Trong xu thế thời cuộc và thời đại hôm nay, thế giới chuyển động không ngừng với nhiều điểm nóng phức tạp, việc thực hành và kiểm soát quyền lực một cách bền vững để phục vụ lợi ích của nhân dân và Tổ quốc phải được đặt ra một cách có hệ thống trên nền tảng văn hóa Việt Nam. Bác Hồ từng huấn thị: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”. Đó chính là phương lược lâu dài của chính thể chúng ta trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Xã hội Việt Nam đang phát triển nhanh, khá toàn diện chính vì đã khơi dậy được nhiều nguồn lực và có cơ chế đúng đắn kiểm soát tốt các khu vực quyền lực. Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa diễn ra nhanh, toàn diện đã và đang đặt ra không ít thách thức về quyền lực và thực hành quyền lực, kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Một bộ phận cán bộ, trong đó có những cán bộ cấp cao đã tha hóa biến chất, bị quyền lực, vật chất cám dỗ làm hư hỏng bản thân đến mức phải bị kỷ luật, thậm chí bị xử lý hình sự. Đây là bài học đau xót về sự thiếu giám sát, kiểm soát dẫn đến tha hóa quyền lực.

Xã hội ta đang trưởng thành về mọi mặt. Trong bước đường trưởng thành sẽ phải đối mặt và vượt qua nhiều thách thức, trở ngại, mà thách thức và trở ngại lớn nhất chính là quá trình thực thi quyền lực trong cơ chế chính trị một Đảng cầm quyền duy nhất ở nước ta. Điều này đã được Đảng, Nhà nước ta nhận thức sâu sắc, rõ ràng và đang nỗ lực thực hiện bằng nhiều giải pháp đồng bộ để bảo đảm cho đất nước ta phát triển lành mạnh, ổn định, bền vững, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc. Ví như mới đây, Bộ Chính trị khóa XIII đã ban hành Quy định số 114-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ. Quy định số 205-QĐ/TW do Bộ Chính trị khóa XII ban hành năm 2019 chỉ nói đến kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền. Còn Quy định số 114 đã đề cập đến việc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong công tác cán bộ với phạm vi rộng hơn. Bên cạnh đó, các cơ chế, giải pháp cũng được quy định cụ thể hơn, chặt chẽ hơn. Điều này cho thấy, Đảng ta không ngừng hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa, đấu tranh với các biểu hiện tham nhũng, tha hóa quyền lực, nhằm bảo đảm mục tiêu ở đâu có quyền lực thì ở đó phải được kiểm soát chặt chẽ.

Phải khẳng định rằng, gần 80 năm qua, kể từ ngày lập quốc theo chế độ mới đến nay, việc thực thi quyền lực nhà nước của chúng ta ngày càng đúng đắn, tốt đẹp hơn, vì sự tối thượng của nó chính là phục vụ nhân dân và phụng sự Tổ quốc. Do đó, nếu “nhà dân chủ” nào không hiểu bản chất vấn đề, cố ý đánh đồng giữa hiện tượng và bản chất, đánh tráo khái niệm giữa sự tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ với mục tiêu, bản chất thực thi quyền lực tối cao thuộc về nhân dân của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, là điều đáng phải phê phán./.

          V3.

GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG QUÂN ĐỘI

 


Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội hiện đang là yêu cầu cấp thiết đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng hiện nay, giúp cho Quân đội thực sự là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy; lực lượng tiên phong, đi đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, bảo vệ thành quả cách mạng của dân tộc.

Để tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cần tập trung vào những giải pháp chủ yêu sau:

Một là, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhất là cơ quan chính trị đối với nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội cần xác định rõ nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng của toàn Đảng, toàn quân, trực tiếp và chủ yếu nhất là của cấp ủy đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp. Do đó, bí thư cấp ủy, người chỉ huy các cấp, trên cơ sở Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị khóa XII về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” và Ban Chỉ đạo 35 của Quân ủy Trung ương, hướng dẫn của cơ quan chức năng thuộc Tổng cục Chính trị; từ đó đề xuất các chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo việc bảo vệ nền tảng tư tưởng trong Quân đội sát, đúng, hiệu quả, thiết thực. Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Quân ủy Trung ương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ cho cán bộ, chiến sĩ Quân đội”(2). Ngoài ra, cần quan tâm, chăm lo xây dựng hệ thống tổ chức Đảng trong Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao, đủ sức lãnh đạo cơ quan, đơn vị trong toàn quân hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị; Kết luận số 01 của Bộ Chính trị về tiếp đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05 về “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 05 của Bộ Chính trị, Nghị quyết số 230-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030.

Hai là, tập trung xây dựng các tổ chức đảng, tổ chức quần chúng, tập thể quân nhân, cán bộ nhất là cán bộ chủ chốt các cấp trong Quân đội trong sạch, vững mạnh ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, làm cơ sở, tiền đề cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng trong Quân đội là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, mang tính chiến lược lâu dài của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân, là công việc thường xuyên, tự giác và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tổ chức đảng, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp.  Do đó, cần tiếp tục xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội các cấp trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức  và cán bộ, trực tiếp góp phần giữ vững sự thống nhất, đoàn kết, nhất trí trong các tổ chức đảng, sự đồng thuận của cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị. Từ đó, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đồng thời, cần làm tốt vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu, hướng dẫn công tác đảng, công tác chính trị để nâng cao khả năng “miễn dịch” cho cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Quan tâm và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ để nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cán bộ, chiến sĩ, khắc phục những biểu hiện tiêu cực, lệch lạc, góp phần giữ vững bản chất tốt đẹp của “Bộ đội cụ Hồ” trong tình hình mới.

Ba là, tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Quân đội hiện nay để gia tăng năng lực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho cán bộ, chiến sĩ.

Cần tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Quân đội hiện nay giữ vị trí, vai trò quan trọng, giúp cho mọi quân nhân nhận thức sâu sắc những giá trị cốt lõi tạo nên nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Từ đó, xây dựng và củng cố vững chắc lòng tin, lý tưởng vào những giá trị bền vững và tạo cơ sở khoa học cho việc tự nguyện, tự giác phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, trung thành tuyệt đối với nhân dân, với Tổ quốc. Do đó, phải tích cực đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở các cấp, nhất là các học viện, nhà trường phù hợp với từng đối tượng quân nhân.

Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Quân đội luôn giữ vị trí, ý nghĩa quan trọng giúp mọi quân nhân có được niềm tin, bản lĩnh, trình độ… hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Do vậy, việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong Quân đội hiện nay cần tập trung làm cho mọi quân nhân hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật Nhà nước, nhiệm vụ Quân đội... Trong giáo dục, cần làm cho họ thấy tính đúng đắn và sự cần thiết trong vai trò Đảng lãnh đạo Quân đội; lý tưởng khát vọng hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của giai cấp, dân tộc Việt Nam yêu chuộng hòa bình. Xây dựng hình thành, truyền bá những hệ giá trị cốt lõi của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời đại mới đến bạn bè quốc tế; tập trung khơi dậy và phát huy truyền thống văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc, tiếp thu những giá trị văn hóa tinh hoa của nhân loại.

Bốn là, làm tốt công tác quản lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả sử dụng Internet, mạng xã hội trong Quân đội hiện nay.

Cần quản lý chặt chẽ thông tin trên internet, mạng xã hội ở tất cả các đơn vị trong toàn quân, không để các thế lực thù địch lợi dụng, chiếm lĩnh trận địa thông tin. Theo đó, cần chú trọng xây dựng, hoàn thiện hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật và có các giải pháp kỹ thuật phù hợp với sự phát triển nhanh của internet, mạng xã hội trong tình hình mới. Chỉ đạo Ban Chỉ đạo 35 và lực lượng 47 các cơ quan, đơn vị trong toàn quân hoạt động có nền nếp, hiệu quả.

Các cơ quan chức năng cần thực hiện tốt công tác rà soát việc cấp phép hoạt động đối với các mạng xã hội, cấp tên miền bảo đảm chặt chẽ; phân định rõ các loại báo chí điện tử, tạp chí điện tử, trang thông tin điện tử. Tiến hành kiểm soát chặt chẽ việc đăng tải thông tin trên Internet, mạng xã hội của các quân nhân; đa dạng hóa hoạt động đấu tranh theo hướng: thiết lập và sử dụng các trang web, blog, nhóm, trang diễn đàn để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền các quan điểm chính thống, định hướng dư luận, phản bác hoặc tiến hành đấu tranh phản bác ngay tại các trang mạng “độc hại”.

Năm là, xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng nòng cốt, chuyên sâu trong bảo vệ tư tưởng của Đảng trong Quân đội và đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội.

Chú trọng xây dựng đội ngũ nòng cốt, chuyên sâu là những cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ lý luận cao, có khả năng diễn đạt, luận chiến thuyết phục, có nhiệt huyết, dũng khí, quyết tâm đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, chế độ và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Từ đó cần tập trung tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, chú trọng nâng tầm lý luận sắc sảo, kinh nghiệm đấu tranh, cung cấp những thông tin, cập nhật nội dung, phương pháp, trang bị phương tiện, công nghệ để họ đấu tranh trên mạng xã hội. Phát huy tốt vai trò của các lực lượng tác chiến mạng xã hội, an ninh mạng Bộ Tư lệnh 86, Lực lượng 47 trong toàn quân; thường xuyên bám mạng, áp dụng các biện pháp kỹ thuật cần thiết, thích hợp trên mạng xã hội để phòng ngừa, nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý và gỡ bỏ thông tin xấu độc, những dịch vụ, hành vi vi phạm pháp luật, gây hại đến hoạt động quân sự.

Sáu là, tổ chức đấu tranh có hiệu quả, quyết liệt với các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội

Phát huy tốt vai trò của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy, cơ quan chính trị, đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp trong công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị nhận diện và đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

Trang bị những kiến thức cần thiết để mỗi cán bộ, chiến sĩ có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, “miễn dịch” với những thông tin xấu độc, không tin theo, không truy cập và tán phát, chia sẻ những thông tin xấu độc và tích cực đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch trên Internet, mạng xã hội.

Có thể khẳng định, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội không chỉ liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ mà còn có ý nghĩa sống còn với sự tồn tại và phát triển của Quân đội. Do đó, để Quân đội ta tiếp tục phát huy được những truyền thống anh hùng, vẻ vang, mỗi tổ chức đảng các cấp trong Quân đội cũng như mỗi cán bộ, chiến sĩ cần phải luôn không ngừng tu dưỡng, rèn luyện để giữ gìn bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức “Bộ đội cụ Hồ” mà còn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sức đề kháng trước các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch./.

          V3.

Đấu tranh, phản bác luận điệu sai trái về việc lấy phiếu tín nhiệm trong công tác cán bộ của Đảng

 


Quy định này không chỉ có ý nghĩa tham khảo, góp phần vào đánh giá cán bộ mà kết quả có giá trị trực tiếp vào công tác đánh giá, bố trí, điều động và thực hiện chính sách đối với cán bộ. Đồng thời, đây cũng là cơ sở trực tiếp cho quá trình chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ tới. Thế nhưng, các lực lượng “khoác áo dân chủ ” tìm cách chống phá quan điểm, chủ trương, đường lối, coi đây là một tiêu điểm để xuyên tạc đường lối, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.

NHẬN DIỆN CÁC LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ

Ngay sau khi Quy định 96 được ban hành, trang RFA có một loạt bài chống phá quan điểm lấy phiếu tín nhiệm của Đảng như: “Phức tạp hóa vấn đề lấy phiếu tín nhiệm, vì sao?”; “Quốc hội đánh giá tín nhiệm, có thể tham khảo ý kiến của người dân như lời của Thủ tướng?”; “Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm: Nên hay không?”; “Đảng thừa nhận không đoàn kết?; “Lấy phiếu tín nhiệm: chiêu trò mị dân?”. Trên kênh Youtobe, Trang Tâm Thức Việt cũng đăng tải video ngày 9/2/2023 với chùm bài: ‘Lấy phiếu tín nhiệm: Thêm một chiêu trò mị dân”. Đài Châu Á – Tự do cũng đăng tải môt loạt các bài trên nền tảng mạng qua mạng Facebook, trang web… Hầu hết các bài viết và các video của các thế lực phản động, thù địch dùng mọi thủ đoạn xuyên tạc, hạ thấp uy tín lãnh đạo của Đảng, để phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân. Dưới các danh xưng “ nhà dân chủ”; “nhà báo tự do” như Nguyễn Ngọc Già, Nguyễn Vũ Bình…

Các luận điệu xuyên tạc, chống phá Quy định 96 của các thế lực thù địch, biểu hiện ở những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, chống phá mục tiêu của Quy định 96.

Trong bài viết “Lấy phiếu tín nhiệm: chiêu trò mị dân”, đăng vào ngày 09/02/2023 của Đài Châu Á Tự do, cho rằng mục tiêu của việc lấy phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm là để “chiêu trò mị dân”, chỉ là “việc của Đảng và những người đảng viên trong Đảng không liên quan tới nhân dân” để nhằm mục tiêu “loại trừ lẫn nhau”, “thanh toán các thế lực, phe cánh, nhóm phái đối lập trong Đảng”, để “xử lý các phần tử không theo hệ thống chung”; và từ đó cho thấy “Đảng không tin vào chính mình” và “Đảng toàn trị nhưng không đủ năng lực cầm quyền” hay “Đảng làm lu mờ và vi phạm nguyên tắc Nhà nước pháp quyền”. Trong một bài cùng nội dung, trang RFA còn “khuyên” rằng Đảng cần làm công tác cán bộ triệt để hơn và đó phải là “việc của toàn dân”. Thực chất luận điệu nêu trên không chỉ nhằm xuyên tạc mục tiêu của Quy định 96 của Đảng, mà qua đó, âm mưu sâu xa, nham hiểm của chúng là từ chỗ làm xói mòn, mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Thứ hai, thông qua việc xuyên tạc Quy định 96, các thế lực thù địch nhằm mục đích phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng.

Việc các thế lực thù địch ra sức phủ nhận lịch sử, công kích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “đánh” vào các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng nhằm chia rẽ nội bộ. Khi cho rằng việc lấp phiếu tín nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm là việc “thanh trừng”, “xử lý các sinh mệnh chính trị thoái hóa không trung thành”, không đơn thuần là việc “xây dựng Đảng” mà là việc “loại trừ phần tử phe cánh, nội bộ trong Đảng”. Thông qua việc viện dẫn các ý kiến, quan điểm từ các danh xưng “nhà dân chủ”, “nhà báo tự do” việc bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng được cụ thể hóa bằng cách lấy diễn đàn dân chủ ở nước ngoài để lên tiếng tố cáo và phản bác các quan điểm, chủ trương và đường lối của Đảng, như: “càng chống tham nhũng thì tham những càng nhiều”; “ kết quả người có phiếu tín nhiệm cao thì tỷ lệ thuận với danh sách những người bị kỷ luật trong Đảng”; “ bỏ phiếu tín nhiệm mang màu áo dân chủ trong Đảng chủ vì Đảng làm chủ cuộc cách mạng này, công việc chỉ có đảng viên tham gia”... Từ việc làm phép thống kê mối liên hệ có chủ đích giữa kết quả lấy phiếu tín nhiệm với các cá nhân có tên trong các vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ lãnh đạo các cấp thời gian qua, các “nhà dân chủ”, “nhà báo tự do” quy chụp sự suy thoái của một bộ phận cán bộ đảng viên, tệ quan liêu tham nhũng trong Đảng thànhbản chất, biến cái “hiện tượng” thành “phổ biến” và là “tất yếu” của một Đảng duy nhất cầm quyền. Từ đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cho rằng, “Đảng Cộng sản Việt Nam chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền”; “Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối”; “phải đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì đất nước mới phát triển”... Đây không phải là một điều mới mẻ trong các luận điệu chống phá Đảng của các thế lực phản động. Tuy nhiên, trước mỗi quyết định của Đảng có tính xây dựng tổ chức Đảng, đặc biệt là công tác cán bộ thì chúng luôn lấy việc bài xích chủ trương, đường lối của Đảng và tìm mọi cách, tận dụng mọi thời cơ, mọi sự kiện trong công tác cán bộ để lồng vào đó thông điệp bôi bẩn, suy diễn, sặc mùi chống phá làm mất uy tín và niềm tin vào Đảng.

          V3.

CẢNH GIÁC VÀ CHỦ ĐỘNG TRƯỚC ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ

 



Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và dựng lên các tổ chức đội lốt để thực hiện mưu đồ là phương thức mà bọn phản động Fulro lưu vong đã và đang sử dụng và chúng coi đây là các chiêu bài hữu hiệu, đắc lợi. Thời kỳ trước, chúng dùng “Tin lành Ðêga” hay “Quỹ người Thượng” để tập hợp lực lượng, kích động tâm lý ly khai, xúi giục, lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số nhẹ dạ gây nên các cuộc bạo loạn và điểm nóng chính trị. Gần đây, vẫn tiếp tục âm mưu thành lập “nhà nước Tây Nguyên tự trị”, chúng lập mới các tổ chức phản động đội lốt tôn giáo mang tên “Giáo hội Tin lành đấng Christ Việt Nam” rồi “Giáo hội Tin lành đấng Christ Tây Nguyên”.

Theo tài liệu do cơ quan công an công bố: Cái gọi là “Tin lành đấng Christ” là một tổ chức do cựu đại tá-Bộ trưởng Ngoại giao Fulro 3 Y Hin Niê đang lưu vong tại Mỹ lập ra. Tổ chức này có trụ sở chính tại bang North Carolina (Mỹ) và chi nhánh ở vài quốc gia khác. Tên trùm Fulro này thông qua tổ chức đội lốt tôn giáo để tập hợp lực lượng, kích động đồng bào tư tưởng ly khai, tự trị nhằm hướng đến mục đích thành lập “nhà nước riêng” và “tôn giáo riêng”.

Vô cùng nguy hiểm là từ nước ngoài, chúng thò nọc độc về Việt Nam và dựng nên các chân rết trong vùng đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên và một số tỉnh, thành phố khác ở trong nước. Với tinh thần cảnh giác cao độ, đấu tranh tích cực, từ năm 2017 đến nay, chúng ta đã bóc gỡ và xử lý theo pháp luật hàng chục đối tượng cốt cán của tổ chức phản động này. Tuy nhiên, mầm độc của chúng vẫn gieo rắc khắp nơi.

Dù hình thức, tên gọi khác nhau, nhưng bản chất của các tổ chức phản động lưu vong đều giống nhau. Nhóm “Người Thượng vì công lý” cũng là một thí dụ. Tổ chức này do tên Y Phíc Hdok (lưu vong tại Mỹ), Y Quynh Bdăp (lưu vong tại Thái Lan) cùng 15 đối tượng phản động, lưu vong khác nhóm lại. Tại nước ngoài, chúng câu kết với các tổ chức Fulro lưu vong (MHRO, MRO…) và “Ủy ban cứu trợ người vượt biển”-BPSOS.

Thông qua mạng xã hội, các đối tượng tìm cách liên lạc, kích động những người trong nước thiếu hiểu biết, thu thập thông tin sai sự thật nhằm mục đích xuyên tạc, vu cáo chính quyền phân biệt đối xử, đàn áp đồng bào. Chúng đã dùng những thông tin dối trá ấy làm các bản “báo cáo nhân quyền”, “nạn nhân tôn giáo bị đàn áp”,… nhằm phục vụ những âm mưu đen tối.

Dù luận điệu, hành vi của các phần tử chống phá chế độ, chống phá cuộc sống bình yên của miền đất đại ngàn có xảo trá đến đâu thì cũng không thể che đậy được bộ mặt của chúng, bộ mặt của những kẻ phản bội Tổ quốc, phản bội buôn làng và đồng bào ruột thịt. Rất đáng tiếc, một số tổ chức và cơ quan truyền thông quốc tế thiếu thiện chí với Việt Nam lại tích cực “cổ vũ”, “đồng hành” và bênh vực cho cái xấu, kẻ ác.

Ví như, trong khi nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế đang cực lực lên án vụ tấn công khủng bố tại huyện Cư Kuin (Ðắk Lắk) thì một tờ báo tiếng Việt ở hải ngoại ngày 23/5/2023 đăng bài “Câu chuyện Tây Nguyên và người dân sắc tộc núi rừng trong lòng tôi”. Nội dung bài viết này cố tình đưa ra những luận điểm xuyên tạc sự thật, như “người Kinh đang đối xử với các sắc tộc Tây Nguyên hơn cả thực dân”; hay “có quá nhiều người sắc tộc ở Tây Nguyên nói họ không được phép thực hành niềm tin tôn giáo họ chọn”.

Hoặc đưa ra góc bình luận bóp méo, đầy tính thù địch rằng: “Ðảng Cộng sản Việt Nam luôn đi ngược lại chính sách đại đoàn kết dân tộc và giờ đây lại còn đổ vấy trách nhiệm về biến cố xả súng ở huyện Cư Kuin”. Tác giả bài viết này còn kích động sự chia rẽ cộng đồng các dân tộc bằng sự xảo ngôn, đánh lái nguy hiểm: Người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên “không chịu được sự áp đảo hiện nay bởi sự thống trị của người Việt đến từ đồng bằng”. Hay ở một bài viết khác thì cố tình đưa ra nhận định xuyên tạc rằng: “người Thượng tấn công chính quyền vì tức nước vỡ bờ”…

Với những cách truyền thông sai lệch, bóp méo trên, các bài viết nhằm hướng dư luận của cộng đồng quốc tế về phía bất lợi cho Việt Nam; cố tình khoét sâu mâu thuẫn, tạo sự bất ổn và kêu gọi các quốc gia, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam…

Có thể thấy các thế lực phản động, thù địch luôn rêu rao rằng, đồng bào Tây Nguyên bị kỳ thị, bị phân biệt đối xử, bị đàn áp và bị xóa nhòa bản sắc văn hóa! Thực tế lại trái ngược hoàn toàn. Hiện thực Tây Nguyên hôm nay với những thành tựu to lớn về kinh tế-xã hội, về sự tiến bộ trong vấn đề bảo đảm nhân quyền, sự khởi sắc vượt bậc trong đời sống vật chất và tinh thần của hàng triệu đồng bào là minh chứng rõ ràng và thuyết phục về những đổi thay kỳ diệu trên xứ sở đại ngàn.

Ngày xưa, dù sống giữa vùng đất Tây Nguyên với kho tàng tiềm năng giàu có nhưng đồng bào các dân tộc thiểu số trên miền thượng du này mãi đắm chìm trong đói nghèo, lạc hậu. Hai cuộc xâm lăng, giày xéo của kẻ thù lên đất nước ta, người Tây Nguyên cũng cùng chung thân phận nô lệ như các dân tộc anh em trên mọi miền Tổ quốc. Ðánh Pháp, đuổi Mỹ thành công, nước nhà thống nhất, đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên thực sự được giải phóng; được làm công dân của một nước độc lập; được phát triển bình đẳng giữa cộng đồng các dân tộc anh em.

Từ ngày hết chiến tranh, Ðảng và Nhà nước đã triển khai nhiều nghị quyết, tổ chức nhiều chương trình và đầu tư những nguồn lực lớn để phát triển Tây Nguyên. Nhất là từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa IX về “Phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh-quốc phòng vùng Tây Nguyên”, nguồn lực tập trung đầu tư ngày càng cao, từng bước khơi dậy tiềm năng, thế mạnh của địa bàn chiến lược này.

Ðường lối nhất quán của Ðảng ta là bảo đảm quyền tộc người, quyền bảo vệ văn hóa tộc người. Cũng như các dân tộc anh em, các dân tộc thiểu số Tây Nguyên có quyền tự do quyết định vị thế xuất thân, quyền sử dụng ngôn ngữ, khẳng định sự bình đẳng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thành tựu về bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc Tây Nguyên trong nhiều năm qua rất đáng ghi nhận. Ở Tây Nguyên không có sự kỳ thị sắc tộc mà chỉ có sự tôn trọng các giá trị đặc thù. Bản sắc văn hóa cộng đồng các dân tộc Tây Nguyên được bảo tồn, phát huy và lan tỏa các hệ giá trị.

Các đối tượng chống phá rêu rao rằng, chính quyền Việt Nam đàn áp tôn giáo. Chúng luôn cáo buộc Nhà nước ta không bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Lập luận của chúng đã cố tình phớt lờ thực tế, xuyên tạc sự thật; dùng xảo ngôn để che đậy những hành vi lợi dụng, đội lốt tôn giáo thực hiện chống phá. Thực tế, Tây Nguyên là một không gian sinh hoạt lý tưởng của các cộng đồng tôn giáo khác nhau.

Theo thống kê, vùng Tây Nguyên là một địa bàn có nhiều tổ chức tôn giáo, trong đó chủ yếu là Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao đài với tổng số 2,3 triệu tín đồ, gần 4.000 chức sắc, 10.000 chức việc và trên 1.300 cơ sở thờ tự. Trong đó, Công giáo có trên 1,1 triệu tín đồ, khoảng 1.000 chức sắc, trên 2.500 chức việc và 500 cơ sở thờ tự; Phật giáo có 670.000 tín đồ, khoảng 1.900 chức sắc, 2.800 chức việc và khoảng 570 cơ sở thờ tự. Ðạo Tin lành có khoảng 580.000 tín đồ thuộc 33 tổ chức, hệ phái, nhóm đang sinh hoạt tại 311 chi hội, 183 nhà thờ, hơn 1.700 điểm nhóm được chính quyền địa phương cấp đăng ký sinh hoạt…

Các cấp ủy và chính quyền ở Tây Nguyên luôn phát huy vai trò, thế mạnh, những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và nguồn lực của các tôn giáo vào sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt là các lĩnh vực an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; khuyến khích và tạo điều kiện cho tôn giáo góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống. Cổ vũ mặt tích cực nhưng chúng ta cũng không dung thứ việc lợi dụng các hoạt động tôn giáo gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những kẻ giả hiệu tôn giáo để chống phá cuộc sống bình yên của buôn làng chắc chắn sẽ bị pháp luật trừng trị.

Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quốc gia. Không ai muốn nhớ lại những câu chuyện buồn từng xảy ra và vừa mới xảy ra trên vùng đất tươi đẹp này. Nhưng vì sự phát triển thịnh vượng vùng đại ngàn phía tây Tổ quốc, chúng ta cần phải lưu tâm sâu sắc các sự kiện này như một phần ký ức đáng phải suy nghĩ, những bài học thấm thía và đau lòng. Muốn giữ gìn sự bình yên, Tây Nguyên phải xây dựng cho mình sức mạnh nội sinh, tạo nên nguồn kháng thể mạnh mẽ trước mọi khó khăn, biến động.

Bên cạnh tập trung nguồn lực đầu tư, cấp ủy và chính quyền các tỉnh trong khu vực cần phát huy trí tuệ trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo; có những điều chỉnh phù hợp, khắc phục những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện các chính sách, nhất là chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp phát triển quê hương và nâng cao đời sống nhân dân, chúng ta cần đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch./.

          V3.