Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

  NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CHỐNG PHÁ TỰ DO TÔN GIÁO 

 

Một số người Việt chống cộng ở hải ngoại có quan điểm chống đối chính quyền Việt Nam, đã dựa vào chính sách chung của chính quyền Mỹ, rất coi trọng các quyền tự do, mà trong đó, quyền tự do tôn giáo gần như được xem là hàng đầu, để từ đó tạo những ảnh hưởng, tác động vào các sinh hoạt chính trị trong cộng đồng người Việt Nam. Năm 1988, khi đặt chân lên đất Thái Lan, ngay trong trại tị nạn dành cho người vượt biên, tôi đã rất ngạc nhiên vì trong môi trường đầy khó khăn, thiếu thốn và hoang mang vì tương lai bấp bênh, vô định, thế nhưng các hoạt động về tôn giáo đã diễn ra sôi nổi mang đầy màu sắc chính trị.

 

Các Ban trị sự, Hội đồng liên tôn các tôn giáo đã tập hợp các tín hữu, con chiên, đạo hữu của mình thành những đoàn thể để hoạt động không thuần túy về tôn giáo, mà còn nhằm xuyên tạc, chỉ trích chính quyền Việt Nam. Nhiều tài liệu, sách báo, thông tin từ hải ngoại được ấn hành, đưa vào trại tị nạn phát tặng miễn phí, kích động chống Việt Nam như báo Đường Sống (Mỹ), báo Quê Mẹ (Pháp) hay các tổ chức như BPSOS (Boat people SOS - Ủy ban cứu trợ người vượt biển).

 

Khi định cư ở Mỹ từ tháng 2/1991, tôi nhận thấy nhiều cơ sở tôn giáo được mở mang, phát triển và hoạt động rất năng động. Nhiều nhà thờ, nhà chùa mới được thành lập từ những vận động, đóng góp chủ yếu từ các cá nhân. Gắn liền với những kỷ niệm từ quê nhà, không ít nhà thờ, ngôi chùa lấy tên trùng với những nơi thờ tự quen thuộc như Giáo xứ Tân Sa Châu, Giáo xứ Tân Bùi Chu, Phát Diệm, Chùa Dược Sư, Chùa Vĩnh Nghiêm… Chính những cơ sở tôn giáo này cũng tự biến thành nơi hội họp, sinh hoạt chính trị vì các nhân sự, thậm chí các nhà lãnh đạo tôn giáo ở hải ngoại ít nhiều cũng nhuốm mùi chính trị cực đoan.

 

Ý niệm về “đấu tranh tôn giáo” với “đấu tranh cho dân chủ, tự do” đã trở thành phương tiện, là công cụ cho các cá nhân, tổ chức chống cộng cực đoan khai thác triệt để nhằm lợi dụng lòng tin của người dân còn mơ hồ, hay có định kiến với chính quyền Việt Nam. Các lãnh đạo cộng đồng, tổ chức chống cộng thường xuyên theo dõi các biến động xã hội trong nước không ngừng biến các hiện tượng được chú ý thành các “vấn đề tôn giáo” nghiêm trọng. Thí dụ, vụ án của linh mục Nguyễn Văn Lý, ngày 30/3/2007, tại Thừa Thiên Huế, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã mở phiên tòa công khai xét xử Nguyễn Văn Lý và đồng bọn về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại khoản 1, điều 88 - Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tại phiên tòa cho thấy thái độ bất hợp tác của ông Lý khi luôn tỏ ra chống đối, thậm chí đạp vào vành móng ngựa, hô hào, gây ồn ào. Ông Lý đã bị một nhân viên an ninh bịt miệng để giữ trật tự, và một bức ảnh ghi lại khoảnh khắc này đã được báo chí phương Tây, giới truyền thông chống cộng khai thác thành sự kiện “đàn áp, bịt miệng tự do tôn giáo”.

Khi sự kiện xảy ra, tôi và các đồng nghiệp của tuần báo Việt Weekly đã về Việt Nam, xin phép chính quyền về tận xã Thủy Biều, TP. Huế để tìm hiểu sự việc. Tại họ đạo Nguyệt Biều, đoàn báo chí từ hải ngoại của chúng tôi được tự do phỏng vấn các giáo dân tại địa phương về sinh hoạt tôn giáo tại đây. Các giáo dân kể chuyện cha Lý đã có công sửa đường, làm nhà vệ sinh công cộng, cấp con giống, cây trồng, mở lớp dạy máy tính, dạy ngoại ngữ miễn phí để đánh lừa, dụ dỗ niềm tin của một bộ phận giáo dân. Vụ án điển hình này cho thấy sự cấu kết của các tổ chức chính trị ở hải ngoại với các nhân vật chống đối đội lốt tôn giáo. Thông qua việc móc nối, vận động để xin tiền từ các tổ chức, cá nhân ở hải ngoại, ông Lý đã tham gia làm cố vấn vào “Ủy ban tự do tôn giáo cho Việt Nam” năm 2000, kích động giáo dân ký đơn đòi đất vốn của Giáo hội Thiên Chúa giáo đã giao cho hợp tác xã quản lý từ năm 1975, gây mâu thuẫn giữa người dân và chính quyền.

 

Đoàn phóng viên báo Việt Weekly cũng có mặt tại Hà Nội để tham dự buổi họp báo của Đại sứ Mỹ ở Việt Nam là ông Michael Marine, khi được hỏi về bức hình “bịt miệng cha Lý” ở phiên tòa, ngài đại sứ cũng nêu rõ là hành động gây rối trật tự ở tòa án, nếu ở Mỹ cũng sẽ bị ngăn chặn bằng vũ lực. Tuy nhiên, theo góc nhìn của nhà ngoại giao Mỹ, thì chính quyền Việt Nam cũng cần phải có động thái trao cho các công dân của mình “không gian rộng rãi hơn để biểu đạt ý kiến của mình”.

 

Những vụ án mang màu sắc tôn giáo liên quan đến vấn đề tranh chấp đất hay bất động sản, qua quan sát của tôi, hầu hết đều có sự tác động của các thế lực chính trị hải ngoại kích động, xúi giục. Cái gọi là “Yểm trợ đấu tranh tôn giáo” ở hải ngoại được tiến hành rất bài bản. Họ tập hợp nhau tại các địa điểm công cộng như công viên, khu chợ, bãi đậu xe, trung tâm thương mại, nơi có đông đảo người dân gốc Việt sinh sống để tổ chức các buổi “thắp nến cầu nguyện” hay “tuyệt thực cho tự do, nhân quyền”. Các tổ chức chống cộng này cho rằng các vụ tranh chấp đất đai ở những địa phương có cộng đồng người Công giáo sinh sống nhằm mục tiêu “thu hẹp tài sản của Giáo hội Công giáo, chia cắt nơi cư trú của đồng bào giáo dân, hòng làm suy yếu sự phát triển của Công giáo nói riêng”. Đây là những luận điệu xuyên tạc vô cùng ngớ ngẩn. Vì quyền làm chủ đất đai nào là của người Công giáo? Chính quyền địa phương mỗi nơi đều có quy định theo pháp luật để tiến hành thay đổi môi trường sống, sự phát triển của đô thị theo nhu cầu thực tế. Thế nhưng việc chuyển đổi quỹ đất này đã bị thổi phồng thành những vụ án “đàn áp tôn giáo” gây nên nhiều ngộ nhận cho người ở hải ngoại thiếu thông tin về sự việc.

Mặt khác các đối tượng chống cộng luôn phao tin rằng, người Cộng sản là “vô thần,” người Cộng sản coi “tôn giáo là thuốc phiện”, một khi tôn giáo ở Việt Nam lớn mạnh, sẽ trở thành những lực lượng đối kháng có thể đè bẹp chế độ! Vì vậy chính quyền Cộng sản Việt Nam phải áp dụng các cách đàn áp tinh vi, làm suy yếu tôn giáo. Từ đây họ đã đánh vào tâm lý chung của những gia đình di cư năm 1954, các quan chức chế độ Việt Nam cộng hòa luôn có ánh nhìn hoài nghi về chính sách tôn giáo của chính quyền Việt Nam. Chính những cơ quan “truyền thông đen”, mang danh nghĩa là “truyền thông quốc tế” như BBC, RFA, VOA,.. mà nhân sự của các “đài Việt ngữ” phần lớn đều là những người làm truyền thông thiếu khách quan, thiếu thiện chí trong việc đưa tin, thổi phồng về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam. Nhiều phóng sự, hội luận của các kênh này luôn khai thác các nhân vật đối lập, hay “bất đồng chính kiến” để gây hoang mang cho người dân ở hải ngoại, bằng những thủ thuật kích động nhưng lại tỏ ra khách quan, đa chiều.

 

Đồng thời nhu cầu về tâm linh, thể hiện tình yêu nước đã nhuốm màu sắc chính trị với chiều hướng cực đoan. Ở vùng nam California, tôi đã từng ghi nhận, phỏng vấn nhiều tu sĩ, các cha, các nhà sư từ trong nước đi sang Mỹ theo diện thăm thân hay du lịch, nhưng khi tìm hiểu, đi sâu vào vấn đề, mới rõ là họ được một số cá nhân, hoặc tổ chức chính trị ở hải ngoại mời đi Mỹ để “gây quỹ từ thiện” hay “xin quyên góp xây dựng nhà thờ, xây chùa” ở Việt Nam. Mỗi buổi họp mặt này, những bài than khổ về sự khó khăn trong sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam đều được các vị nêu lên theo ánh nhìn thiếu thiện chí, gợi niềm thương cảm trong cộng đồng. Nếu không trực tiếp về Việt Nam để tìm hiểu rõ sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam, nhiều bà con ta cứ ngỡ ở Việt Nam không được đi lễ, không được đi chùa vì các cơ sở tôn giáo này do “Nhà nước quản lý”!

 

Điều đáng quan ngại hơn nữa, đó chính là sự hà hơi, tiếp tay của các vị “dân cử người Mỹ gốc Việt” trong các dịp tranh cử các vị trí như nghị viên thành phố, thị trưởng thành phố, nghị sĩ tiểu bang hay liên bang. Câu chuyện “đấu tranh cho tự do tôn giáo, quyền con người” tiếp tục được họ đưa ra để vận động tranh cử. Điển hình như các thành phố có đông người Việt cư trú như Westminster, Garden Grove, Fountain Valley, Santa Ana… (miền nam California), hay San Jose (miền bắc California), các chính trị gia đã tận dụng chiêu bài tranh cử không gì khác hơn là “chống cộng và đấu tranh cho tự do tôn giáo ở Việt Nam”. Đây là những khẩu hiệu, chiêu bài dễ hô hào, dễ tạo sự quan tâm của cử tri.

 

Ngân sách tranh cử như chiếc bánh được chia chác nhau theo từng phần: Giới lãnh đạo cộng đồng chống cộng tổ chức biểu tình, kêu gọi cử tri ký thỉnh nguyện thư đòi quyền con người cho các nhà đối lập trong nước. Còn các cơ quan “truyền thông đen” thì được nhận phần quảng cáo cho những thông điệp chính trị sặc mùi mị dân như “đòi quyền tự do con người cho người dân Việt Nam”. Từ đây đã tạo thành một bộ máy tuyên truyền, xuyên tạc, một “kỹ nghệ chống cộng” mang tính vòng tròn khép kín để thỏa mãn lòng hận thù tồn tại từ trước, nhằm bào mòn tình cảm gắn bó của người dân trong và ngoài nước. Và trên hết, để vừa có danh, vừa có lợi, họ đã bất chấp sự công bằng, lẽ phải và quyền lợi tối thượng của dân tộc là sự ổn định xã hội để phát triển kinh tế, đưa đất nước từ nghèo khó sau chiến tranh, tiến lên một nước có nền hòa bình bền vững, ổn định lâu dài để phát triển.

 

Là người sống trong cộng đồng lâu năm, theo dõi những diễn biến chính trị và sinh hoạt cộng đồng một cách toàn diện, nên tôi đã nhận diện được rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, gây hoang mang chia rẽ tôn giáo của các tổ chức chống cộng lưu vong. Theo tôi, hành động của họ không vì bất cứ lòng trắc ẩn, tình đồng bào nào hết, ngoài việc tạo nên những cái “bánh vẽ” to tướng khiến một bộ phận người trong nước có tinh thần vọng ngoại hiểu sai lệch vấn đề về tự do tôn giáo, hay quyền con người. Cần phải hiểu rằng tự do của mỗi cá thể trong xã hội phải đặt dưới quy định của luật pháp, không thể tùy tiện nhân danh sự tự do để sinh hoạt tôn giáo mang tính chính trị, chống phá chế độ.

Nguồn Tuyên giáo TW

 

  BÍ THƯ KIM NGỌC, NGƯỜI ĐI TRƯỚC THỜI GIAN

 

Kim Ngọc (1917-1979) là nguyên Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Vĩnh Phú, ông là người khởi xướng việc “khoán hộ” trong nông nghiệp vào thập kỷ 60 của thế kỷ XX. Thời kỳ đó do sự bắt chước một cách máy móc mô hình tổ chức xã hội của Liên Xô, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã không đánh giá đúng về khoán hộ nên ra sức kìm hãm và hạn chế. Kim Ngọc phải làm kiểm điểm và tự nhận “có sai lầm nghiêm trọng trong khoán hộ”.

 

Kim Ngọc tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1917 tại thôn Đại Nội, xã Bình Định, huyện Yên Lạc, Vĩnh Phúc. Ngày 26 tháng 5 năm 1979, ông mất ở tuổi 62 tại Bệnh viện Hữu nghị Việt – Đức, Hà Nội.

 

“Khoán hộ” ở Vĩnh Phúc

 

Với gần 40 năm tham gia cách mạng nhất là từ khi giữ cương vị Bí thư Tỉnh ủy, ông đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đổi mới, sáng tạo. Trên cương vị là Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, trong bộn bề công việc, Kim Ngọc vẫn luôn dành 1/3 thời gian làm việc của mình để đi cơ sở. Ông luôn trăn trở về tình hình sản xuất nông nghiệp và cuộc sống của người nông dân và tự hỏi tại sao người nông dân lại không mặn mà với đồng ruộng, cái mà họ mất bao xương máu mới giành lại được. Tại sao vẫn đồng đất ấy, vẫn con người ấy, không có thiên tai mà sản lượng lúa sụt giảm.

 

Sự sâu sát đời sống thực tiễn giúp người Bí thư Tỉnh ủy sớm nhận ra sự không ổn trong quan hệ sản xuất nông nghiệp theo mô hình hợp tác xã. Đó là tác phong, thời gian làm việc của các xã viên theo kiểu “đánh trống ghi tên”, làm ít, tán chuyện nhiều, làm cầm chừng, cốt sao có nhiều công điểm. Các đội trưởng đội sản xuất làm ít nhưng công điểm lại nhiều… Từ đó đã gây bất bình trong các hộ xã viên, nhiều hợp tác xã sau khi ăn chia người lao động chỉ được 2 đến 3 lạng thóc/1 công.

 

Mùa qua mùa, sự đối nghịch giữa những khoảng ruộng nhỏ bé 5% được giao cho người nông dân làm chủ luôn xanh tốt trong khi 95% ruộng đất, những thửa ruộng chung mênh mông của hợp tác xã luôn xác xơ vàng vọt vì người nông dân chỉ làm ăn công điểm, ông hiểu rằng xã viên không coi ruộng đất là của mình nên họ chẳng thiết tha gì với đồng ruộng. Phải để nông dân làm chủ mảnh đất của mình, gắn thành quả và quyền lợi của người lao động mới tạo được động lực thực sự để phát triển sản xuất, mới có thể làm chuyển biến tình hình sản xuất nông nghiệp của tỉnh.

 

Trên cơ sở những suy ngẫm chiêm nghiệm cá nhân và kết quả việc thí điểm cải tiến quản lý hợp tác xã với nội dung khoán đến hộ gia đình xã viên tại một số hợp tác xã trong tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 1963 đến 1965 và kết quả khoán thí điểm ở 3 xã của huyện Vĩnh Tường vụ Đông Xuân 1965-1966, ngày 10/9/1966, dưới sự chủ trì của ông Kim Ngọc, Tỉnh uỷ Vĩnh Phúc đã ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TU mang tên “Về một số vấn đề quản lý lao động nông nghiệp trong hợp tác xã hiện nay”. 

 

Cốt lõi của Nghị quyết là đổi mới cơ chế quản lý trong HTX nông nghiệp, nhằm tạo ra động lực mới trong sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống nhân dân và đáp ứng yêu cầu đóng góp của địa phương đối với nhà nước ngày càng cao lúc đó. Nghị quyết đã nhận định con người là yếu tố quyết định thắng lợi của tiến trình sản xuất, nếu được tin cậy, được giao quyền tự chủ, sáng tạo: “Lao động là một trong ba điều kiện cơ bản để tiến hành sản xuất, là vốn quí không thể thiếu được. Điều kiện cơ bản quyết định nhất để tăng năng suất lao động là con người lao động có kỹ thuật, sử dụng được thành thạo công cụ sản xuất tiên tiến”.

 

Thời gian thực hiện Nghị quyết 68 không dài nhưng những kết quả mà “khoán hộ” tạo ra là vô cùng to lớn, đem lại hiệu suất lao động ngày càng cao. Tính đến cuối năm 1967, Vĩnh Phúc có 160 hợp tác xã (chiếm 70% số hợp tác xã) đạt năng suất bình quân từ 5 tấn đến trên 7 tấn/ha; sản lượng lương thực quy thóc đạt 222.000 tấn, tăng hơn năm trước 4.000 tấn, góp phần cải thiện đời sống nhân dân, làm thay đổi diện mạo của nông thôn Vĩnh Phúc giữa những năm 60 của thế kỷ XX.

 

Tại thời điểm Nghị quyết ra đời và triển khai, “Khoán hộ” bị coi là đốt cháy giai đoạn, không phù hợp với chủ trương đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa của Trung ương và được coi là một sự “vượt rào”, vi phạm nghiêm trọng đường lối của Đảng về phát triển nông nghiệp thời bấy giờ nên không thể triển khai rộng rãi.

 

Ngày 6-11-1968, tại Hội nghị cán bộ tỉnh Vĩnh Phú, chủ trương “khoán hộ” đã bị phê phán hết sức nặng nề với kết luận: “Việc khoán ruộng cho hộ đã dẫn đến hậu quả tai hại là phát triển tư tưởng tự tư tự lợi, làm phai nhạt ý thức tập thể của xã viên, thủ tiêu phong trào thi đua yêu nước trong hợp tác xã. Kìm hãm và đẩy lùi cách mạng kỹ thuật trong nông nghiệp; giảm nhẹ vai trò của lao động tập thể xã hội chủ nghĩa, phục hồi và phát triển lối làm ăn riêng lẻ, đẩy hợp tác xã sản xuất nông nghiệp vào con đường thoái hóa và tan rã”. “Bằng cách giao khoán ruộng đất của hợp tác cho hộ, trong một số hợp tác xã đang diễn ra tình trạng chia lại ruộng đất… Bằng cách khoán sản lượng cho hộ, một số hợp tác xã đã biến mình thành người phát canh thu tô đối với xã viên… Trong nhiều hợp tác xã, phương thức sản xuất cá thể đang lấn át phương thức sản xuất tập thể…” (Trích tài liệu lưu trữ của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phúc).

 

Ngày 12/12/1968, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số 224-T/TW “Về chấn chỉnh công tác ba khoán và quản lý ruộng đất của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp ở một số địa phương”. Khoán hộ bị coi là buông lỏng quản lý, khoán trắng ruộng đất, khoán trồng trọt, khoán chăn nuôi, khoán cả công cụ sản xuất cho hộ dẫn đến tư hữu hoá tư liệu sản xuất, “trái với đường lối hợp tác hoá nông nghiệp của Đảng”, phá vỡ nguyên tắc quản lý XHCN, phục hồi kinh tế cá thể…

 

Trên cơ sở những kết luận và nhận định đó, chủ trương “khoán hộ” của Vĩnh Phú bị chính thức đình chỉ vào cuối năm 1968, Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc bị buộc phải kiểm điểm và thừa nhận là “có sai lầm nghiêm trọng trong chủ trương khoán hộ”.

 

Tuy bị buộc phải chấp hành tổ chức kỷ luật của Đảng, công khai thừa nhận là “sai lầm nghiêm trọng” về chủ trương khoán hộ nhưng ông Kim Ngọc vẫn dũng cảm bảo lưu chủ trương của mình và trong gần mười năm sau đó khi còn giữ cương vị Bí thư Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, ông vẫn không ngần ngại bênh vực và cổ vũ cho chủ trương mà ông cho là ích nước lợi dân và không hề xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội này.

 

Ông vẫn luôn rằng tin đó là con đường đúng đắn mang lại no ấm cho người dân và tâm sự với các đồng chí thân thiết của mình: “Phải tìm mọi cách duy trì cho được “khoán hộ” chứ để quay lại kiểu làm ăn theo tiếng kẻng, rong công phóng điểm thì chết đói hết”.

 

Và trên thực tế, tuy bị cấm đoán, nhưng do lợi ích hiển nhiên và to lớn của nó, “khoán hộ”, vẫn được nhiều hợp tác xã ở Vĩnh Phú tiếp tục âm thầm thực hiện nên này còn gọi là “khoán chui”. Và không chỉ ở Vĩnh Phú, “khoán chui” lan nhanh sang Hà Sơn Bình, Hải Phòng, Thanh Hóa, Thái Bình, khắp cả miền Bắc và đến cả một số tỉnh miền Nam như Đồng Nai, TP Hồ Chí Minh, Tiền Giang, Hậu Giang…

 

Sự ra đời của “khoán 10”

 

Lịch sử đã kiểm chứng niềm tin của cố Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc. “Khoán hộ” từ Nghị quyết 68 của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc đã trở thành cơ sở lí luận và thực tiễn để ngày 13/01/1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị 100-CT/TW về mở rộng công tác khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã, đến ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp (hay còn gọi là “Khoán 10”).

 

Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ra đời, chính thức xác định “hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ” và cho thực hiện khoán hộ trong toàn bộ nền nông nghiệp, tạo nên một bước phát triển kỳ diệu của nông nghiệp Việt Nam, thay đổi hẳn bộ mặt nông thôn Việt Nam.

 

Khoán 10 đã làm thay đổi căn bản nền kinh tế nông nghiệp của cả nước. Như vậy, sau hơn 22 năm, những hạt nhân hợp lý của “khoán hộ” ở Vĩnh Phúc đã được Trung ương khẳng định trong Nghị quyết 10-NQ/TU.

 

Năm 1995, ghi nhận những đóng góp công lao, trí tuệ của ông cho sự nghiệp đổi mới của cách mạng Việt Nam, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất cho Kim Ngọc. Năm 1996, hai ngôi trường nơi ông sinh ra ở xã Bình Định, huyện Yên Lạc được đặt tên ông. Năm 2005, một trong những con đường đẹp nhất của thành phố Vĩnh Yên được mang tên ông. Năm 2004, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc của Đảng Cộng sản Việt Nam tặng gia đình ông bức tượng tạc bằng đồng nặng tới 45 kg để biểu thị lòng kính trọng Kim Ngọc. Năm 2009, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Hồ Chí Minh.

 

(Tổng hợp từ nhiều nguồn)

 

   VAI TRÒ CỦA VIỆC HỌC TẬP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ ĐỐI VỚI CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

Giá trị của lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với vai trò cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với mỗi cán bộ, đảng viên (CB, ĐV) và nhân dân Việt Nam đã được chứng minh trong thực tiễn.

Trước thực trạng một bộ phận CB, ĐV lười học LLCT, cùng với việc tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của LLCT, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp để khắc phục tình trạng này. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ một trong 9 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập LLCT; lười học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Nghị quyết cũng chỉ rõ hạn chế: “Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho CB, ĐV về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung và phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới; chưa tạo được sự thống nhất cao trong nhận thức về tình trạng suy thoái, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" và những hậu quả gây ra”.

Trong Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đó là phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; phải tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức và hành động của CB, ĐV về tầm quan trọng của nghiên cứu, học tập LLCT, đề cao trách nhiệm tự học, tự nghiên cứu của cá nhân. Trước đó, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 32-NQ/TW ngày 26-5-2014 về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý, nghị quyết đã khẳng định: Đào tạo, bồi dưỡng LLCT cho cán bộ lãnh đạo, quản lý là nhiệm vụ quan trọng của Ðảng.

Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh quan điểm xuyên suốt, học tập LLCT là nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của CB, ĐV, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng LLCT phải luôn bám sát mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của chiến lược cán bộ và gắn kết chặt chẽ với các khâu trong công tác cán bộ. Bởi thế, đào tạo LLCT phải bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ gắn với quy định của Đảng về công tác quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử, phân cấp quản lý cán bộ... Tránh hiện tượng giao chỉ tiêu, cử cán bộ đi học LLCT theo kiểu “điền vào chỗ trống” khiến người học không có động lực, không thấy đó là nhu cầu thiết thân mà còn gây tốn kém, lãng phí ngân sách, thời gian, công sức. Trên thực tế, một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa quan tâm đúng mức tới việc bồi dưỡng LLCT cho đảng viên, có hiện tượng khoán trắng cho cơ quan tham mưu mà thiếu kiểm tra, giám sát. Việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, còn trông chờ, ỷ lại cấp trên. Tình trạng bớt thời gian, cắt xén nội dung trong quán triệt, truyền tải nghị quyết của Đảng không hiếm. Điều này đã được Đảng ta chỉ ra. Tuy vậy, những giải pháp để khắc phục ở cơ sở hiện nay là chưa triệt để.

Nhiều cán bộ qua đào tạo LLCT ở các bậc học đã nêu lên một thực trạng, đó là sự trùng lặp nội dung các bậc học, thiếu sự liên thông, tính kế thừa, tính thống nhất giữa các cấp học dẫn đến việc cán bộ phải học nhiều lần một số chuyên đề, học phần. Chương trình đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, kinh viện mà chưa có bổ sung thấu đáo về tính thực tiễn. Đúng như tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII chỉ ra: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa có chiều sâu, không theo kịp tình hình thực tế”. Như vậy, phải có nghiên cứu thấu đáo việc đưa chương trình, nội dung vào giảng dạy ở các bậc học. Đây cũng là vấn đề lớn mà Đảng, Nhà nước, hệ thống các cơ sở đào tạo cần quan tâm, tìm ra phương thức hợp lý.

 

 

Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình hiện nay.

 

Kinh nghiệm về xây dựng nhân tố chính trị tinh thần, ý chí quyết tâm chiến đấu cho bộ đội trong xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình hiện nay, đặt ra những yêu cầu, nội dung mới toàn diện và đầy đủ hơn. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vững mạnh về chính trị; nâng cao chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong mọi tình huống”

Nghị quyết nêu rõ, tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là nguyên tắc trong xây dựng quân đội. Để thực hiện xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, cần tiếp tục xây dựng củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc sâu sắc trong quân đội.

Tập trung xây dựng tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng, các cơ quan vững mạnh toàn diện. Xây dựng, bồi dưỡng nâng cao chất lượng chính trị cho cán bộ, chiến sĩ. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng cho bộ đội, thực hiện nghiêm, có hiệu quả Đề án “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới”. Các cơ quan, đơn vị cần coi trọng, đổi mới, nâng cao chất lượng và phát huy vai trò, hiệu quả của công tác đảng, công tác chính trị trong các nhiệm vụ. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chủ động đấu tranh với các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội; phòng, chống có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Hiện nay, trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, nhất là trên không gian mạng, yêu cầu cán bộ, chiến sĩ quân đội phải kịp thời phát hiện, chủ động trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống “phi chính trị hóa” quân đội.

Tích cực tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận làm cơ sở để đề ra giải pháp phù hợp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, vận dụng nghệ thuật quân sự phù hợp, sáng tạo trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp cần tiến hành đồng bộ các chủ trương, biện pháp giáo dục, huấn luyện, quản lý bộ đội, tạo sức mạnh tổng hợp, góp phần xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị trong tình hình mới.

HAIVAN

Lời Bác năm xưa

 

“Đã đoàn kết, ta phải đoàn kết chặt chẽ rộng rãi thêm. Đã cố gắng, ta phải hăng hái mà cố gắng mãi. Mỗi một người phải lấy việc xung phong trong phong trào Thi đua ái quốc là nhiệm vụ thiêng liêng của mình, phải cố làm cho được”. 

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi mọi người đẩy mạnh phong trào thi đua ái quốc, ngày 10-6-1948, nhân dịp kỷ niệm 1.000 ngày kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Lời kêu gọi của Bác có ý nghĩa to lớn, kịp thời động viên, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân lao động hăng say thi đua ái quốc; đồng thời là tư tưởng chỉ đạo tiếp tục xây dựng và nhân rộng các phong trào thi đua ái quốc sôi nổi và mạnh mẽ đang diễn ra trên đất nước ta. Các phong trào "Gió Đại Phong", "Sóng Duyên Hải", "Cờ Ba Nhất", phong trào "Ba Sẵn Sàng", "Ba Đảm Đang", "Cánh đồng Năm tấn" trên đồng ruộng; phong trào "Trống Bắc Lý", "Dạy tốt, học tốt" trong nhà trường; phong trào "Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người" chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam… đã nhân lên gấp bội sức mạnh của quân và dân ta, trở thành lực lượng vật chất, góp phần đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, giành những thành tựu mới có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay, cả nước tiếp tục công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bên cạnh những thuận lợi, đất nước đang đứng trước nhiều thử thách, khó khăn, đòi hỏi phải phát huy cao độ lòng yêu nước, tinh thần tự lực, tự cường, tự tôn dân tộc trong mỗi người Việt Nam đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, lời kêu gọi của Bác càng có giá trị tư tưởng và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta, là tư tưởng chỉ đạo, phương châm hành động để quân dân cả nước tiếp tục phát huy tinh thần cách mạng, đoàn kết, thi đua ái quốc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành động lực mạnh mẽ, thúc đẩy cách mạng Việt Nam giành được những thành quả to lớn hơn nữa.

Trong điều kiện mới, Quân đội nhân dân Việt Nam cần phải tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua Quyết thắng, nhân rộng các mô hình mới, cách làm sáng tạo, hiệu quả; coi trọng phát triển các phong trào thi đua của các tổ chức quần chúng, các ngành, tạo ra động lực mạnh mẽ xây dựng tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó, xứng đáng với lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.

HAIVAN

Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng trong Quân đội hiện nay

 

Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và Tổng cục Chính trị đã lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị trong toàn quân làm tốt công tác lãnh đạo tư tưởng, được tiến hành trên mọi lĩnh vực hoạt động của Quân đội, bảo đảm công tác tư tưởng phải đi trước một bước; ở đâu có bộ đội ở đó có công tác tư tưởng và đạt được kết quả khá toàn diện. Hầu hết cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp có nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của công tác tư tưởng; có nghị quyết chuyên đề lãnh đạo công tác này, với những chủ trương, giải pháp thiết thực, khả thi, hướng vào các nhiệm vụ trọng tâm, khâu then chốt, thời điểm dễ nảy sinh tư tưởng. Tập trung làm tốt công tác giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, chủ động, thường xuyên, thông qua nhiều tổ chức, lực lượng, kênh thông tin để nắm chắc tình hình đơn vị, diễn biến tư tưởng của bộ đội, kịp thời phát hiện và xử lý những vấn đề tư tưởng nảy sinh ngay từ cơ sở. Tiến hành rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định trên các lĩnh vực công tác, thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ ở cơ sở; kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách; giữa giáo dục thuyết phục, cảm hóa với biện pháp hành chính, xử lý kỷ luật nghiêm minh; mở rộng dân chủ, tăng cường đối thoại, trao đổi, đáp ứng tâm tư, yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của cán bộ, chiến sĩ.

Đội ngũ cán bộ các cấp sâu sát đơn vị, cơ sở, nắm tâm tư, tình cảm, nguyện vọng cùng những trăn trở, suy tư của bộ đội để có biện pháp giáo dục, động viên, thuyết phục phù hợp; giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy, cấp trên với cấp dưới, cán bộ với chiến sĩ, không để đột biến về tư tưởng xảy ra. Tích cực đưa bộ đội tham gia hoạt động thực tiễn, phong trào Thi đua Quyết thắng và các phong trào, cuộc vận động, nhất là Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới” bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, có tác động tích cực đến nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sĩ. Xây dựng môi trường văn hoá tốt đẹp, phong phú, lành mạnh; phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng, cơ quan, đơn vị, gia đình và địa phương cùng làm công tác tư tưởng,... Thực tiễn chỉ ra rằng, ở đâu, nơi nào cấp ủy, chỉ huy quan tâm đúng mức đến công tác lãnh đạo tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ thì nơi đó nội bộ đơn vị ổn định, mọi người “làm việc theo chức trách, hành động theo điều lệnh”, yêu thương, chia sẻ trách nhiệm, trên dưới một lòng, yên tâm xây dựng Quân đội; tỷ lệ vi phạm pháp luật, kỷ luật Quân đội giảm, không có các vụ việc nghiêm trọng, đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc đặt ra yêu cầu mới rất cao và toàn diện. Quân đội vừa đóng vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, vừa tích cực tham gia trên tuyến đầu phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo vệ nhân dân; đồng thời, tích cực thực hiện điều chỉnh, tổ chức biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh. Trong khi đó, những yếu tố tiêu cực ngoài xã hội, sự chống phá của các thế lực thù địch hằng ngày, hằng giờ tác động, chi phối đến tình hình tư tưởng trong Quân đội, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, chia rẽ tình đoàn kết quân - dân. Tình hình trên đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa công tác tư tưởng của Đảng trong Quân đội, bảo đảm trong bất kỳ tình huống nào, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn vững vàng về tư tưởng, chuẩn mực về hành động, trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Để tiếp tục tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong Quân đội, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tập trung thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:

Một là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng trong Quân đội.

Quán triệt sâu sắc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác tư tưởng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X, “Về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trong tình hình mới”; những quan điểm mới về công tác tư tưởng mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định; bám sát chức năng, nhiệm vụ, đối tượng quản lý, cấp ủy các cấp đưa nội dung lãnh đạo công tác tư tưởng vào nghị quyết nhiệm kỳ, hằng năm, nghị quyết chuyên đề và cụ thể hóa thành chương trình, kế hoạch cụ thể để tổ chức thực hiện, bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết khâu yếu, mặt yếu, không để xảy ra đột biến về tư tưởng. Đồng thời, phân công các cấp ủy viên phụ trách, sâu sát cơ sở, thường xuyên báo cáo và chịu trách nhiệm trước cấp ủy về tình hình tư tưởng trong cơ quan, đơn vị. Phát huy vai trò của cơ quan chính trị, trực tiếp là cơ quan tuyên huấn các cấp trong tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng; đồng thời, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị tiến hành công tác tư tưởng theo các tình huống xảy ra trong thực tiễn. Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp; cấp trên làm gương cho cấp dưới, cán bộ làm gương cho chiến sĩ, cán bộ, chức vụ càng cao càng phải gương mẫu cả trong lời nói và hành động. Lãnh đạo, chỉ huy các cấp thường xuyên bám nắm cơ sở, sâu sát thực tiễn, lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của bộ đội, giải quyết thấu tình, đạt lý những vấn đề bộ đội quan tâm, không để những bức xúc xảy ra, tích tụ từ sự việc nhỏ thành sự việc lớn; “xây” đi liền với “chống”, giáo dục đi liền với các biện pháp hành chính. Kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật kém, thoái thác nhiệm vụ, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện công tác lãnh đạo tư tưởng trong các cơ quan, đơn vị.

Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị, giáo dục pháp luật, định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ.

Trước sự tác động mạnh mẽ của mặt trái nền kinh tế thị trường, truyền thông xã hội và sự tuyên truyền, kích động, chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp, nhất là cấp cơ sở cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về sự cần thiết phải bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tình hình nhiệm vụ, đối tượng, đối tác, thực trạng về công tác tư tưởng trong tình hình hiện nay. Kết hợp giữa tuyên truyền, giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, quán triệt nhiệm vụ, xây dựng động cơ phấn đấu đúng đắn, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, chú ý định hướng tư tưởng, dư luận xã hội theo chiều hướng tích cực; phân tích, làm rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, những vấn đề có tính bản chất, quy luật, hệ thống để bộ đội hiểu rõ đúng sai; tích cực cổ vũ cái đúng, đấu tranh với cái sai, chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, làm cho hệ tư tưởng chủ đạo từng bước thẩm thấu, thống trị trong đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ. Thông qua giáo dục, định hướng tư tưởng hình thành cho cán bộ, chiến sĩ niềm tin, thế giới quan, phương pháp luận khoa học trong nhận định, đánh giá các vấn đề của cuộc sống xã hội, môi trường Quân đội. Từ đó, tự giác ghép mình vào khuôn khổ, tự xử lý những bức xúc cá nhân theo chiều hướng tích cực, hòa mình với tập thể, chấp hành nghiêm các chế độ quy định, không để những vụ việc đáng tiếc xảy ra. 

Ba là, đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp lãnh đạo công tác tư tưởng trong Quân đội.

Xuất phát từ đối tượng quản lý, giáo dục, lãnh đạo công tác tư tưởng phong phú, đa dạng, trên nhiều lĩnh vực của môi trường Quân đội, nên đòi hỏi công tác lãnh đạo tư tưởng, quản lý kỷ luật phải được tiến hành hết sức khoa học, bài bản, chặt chẽ, đồng bộ ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực, theo đúng quy trình các bước, phù hợp với đối tượng, địa bàn, nhiệm vụ của từng lực lượng. Nội dung lãnh đạo công tác tư tưởng phải toàn diện, song phải có trọng tâm, trọng điểm, hướng tới đối tượng đặc thù nhằm đạt được mục tiêu cao nhất là cán bộ, chiến sĩ toàn quân thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động, trên dưới một lòng, tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn, chia ngọt sẻ bùi, phát huy sức mạnh tổng hợp vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Để làm được điều đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới tư duy, hình thức, biện pháp lãnh đạo tư tưởng, quản lý, giáo dục pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội theo hướng thiết thực, hiệu quả; bám sát phương châm “4 không”, “3 có”, “3 nên” và 5 khâu tiến hành công tác tư tưởng: Dự báo, quản lý, định hướng, đấu tranh và xử lý tư tưởng nảy sinh. Thực hiện hiệu quả Đề án đổi mới công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới; thông báo kịp thời, có chọn lọc các vụ vi phạm pháp luật, kỷ luật Quân đội, trên cơ sở đó định hướng tư tưởng, rút kinh nghiệm cho bộ đội. Kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, giữa giáo dục thuyết phục với biện pháp hành chính, lấy giáo dục, thuyết phục phòng ngừa vi phạm là chính.

Bốn là, đẩy mạnh xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”, môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội.

Con người là sản phẩm của hoàn cảnh, nhân cách của mỗi cá nhân được hình thành trong các mối liên hệ xã hội, nên muốn có một con người tốt phải tạo ra môi trường, hoàn cảnh tiêu biểu về lối sống có văn hóa, kỷ cương, thân thiện, cùng nỗ lực phấn đấu cho mục tiêu chung. Để tư tưởng bộ đội ổn định vững chắc, cần tiếp tục thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu” gắn với xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, các tổ chức quần chúng vững mạnh. Trong đó, tập trung xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ về bản lĩnh chính trị, ý chí quyết tâm, đạo đức, lối sống, văn hóa, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Duy trì nghiêm nền nếp, chế độ công tác, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, thực hành dân chủ; giải quyết hài hòa các mối quan hệ giữa lãnh đạo với chỉ huy, cấp trên với cấp dưới, cán bộ với chiến sĩ, chiến sĩ cũ với chiến sĩ mới, tạo đời sống văn hóa lành mạnh trong các cơ quan, đơn vị. Đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng và các phong trào, các cuộc vận động trong toàn quân, trọng tâm là Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới”, bằng nhiều mô hình sáng tạo, phù hợp, có sức lan tỏa mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến nhận thức, hành động của bộ đội. Tích cực xây dựng môi trường văn hóa quân sự phong phú, lành mạnh, thực sự là nơi để bộ đội gửi gắm tình cảm, niềm tin và sự khát khao cống hiến. Thường xuyên chăm lo, bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện tốt chính sách hậu phương Quân đội để bộ đội yên tâm công tác, gắn bó, tâm huyết với môi trường Quân đội.

Năm là, phát huy sức mạnh tổng hợp nâng cao hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng trong Quân đội.

 Công tác tư tưởng là công tác của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trực tiếp là của bí thư cấp ủy. Thực tiễn chỉ ra rằng, đồng chí bí thư cấp ủy nào nắm chắc chức trách, nhiệm vụ, vai trò, có phương pháp tiến hành công tác tư tưởng khoa học, phù hợp, biết phát huy sức mạnh tổng hợp trong tiến hành công tác này thì hiệu quả sẽ cao hơn, tình hình tư tưởng trong cơ quan, đơn vị ổn định, không có đột biến xảy ra và ngược lại công tác tư tưởng sẽ không đạt như mong muốn. Trước hết, cần phát huy vai trò của cấp ủy, chỉ huy các cấp thông qua việc xác định chủ trương, biện pháp, kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, tính khả thi cao; “xây” đi liền với “chống”; phối hợp chặt chẽ giữa đơn vị với gia đình, địa phương để làm công tác tư tưởng; thường xuyên bám sát cơ sở, bộ đội để điều chỉnh cách thức lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp cơ sở tăng cường bám nắm bộ đội, sâu sát với quần chúng để nắm tâm tư, nguyện vọng, những bức xúc trong cuộc sống để động viên, giải quyết kịp thời, không để đột biến xảy ra. Cùng với đó, cần phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, Hội đồng quân nhân trong thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, thực hiện công khai, công bằng trên mọi lĩnh vực hoạt động; đề cao trách nhiệm của các quân nhân, hội viên, đoàn viên trong xây dựng đơn vị, động viên, giúp đỡ lẫn nhau trong công việc cũng như trong cuộc sống. Đồng thời, phải kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần bảo vệ vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Thực tiễn luôn vận động, phát triển nên công tác lãnh đạo tư tưởng trong quản lý, giáo dục pháp luật của Nhà nước, kỷ luật Quân đội cho cán bộ, chiến sĩ cũng phải có sự điều chỉnh cho phù hợp. Làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận đúc rút ra những kinh nghiệm hay, mô hình tiêu biểu tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn quân, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác lãnh đạo tư tưởng đối với cán bộ, chiến sĩ.  

Tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong Quân đội là nội dung hết sức quan trọng, quyết định kết quả xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tăng cường kỷ luật, kỷ cương, nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Vì vậy, các cấp cần nhận thức sâu sắc vai trò, tầm quan trọng của công tác này để quán triệt, triển khai thực hiện hiệu quả trong thực tiễn, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.

HAI VAN

Công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam

 

Là bộ phận trọng yếu của công tác xây dựng Đảng, quyết định sinh mệnh của Đảng và sự thành bại của cách mạng. Tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong Quân đội góp phần thống nhất về tư tưởng và hành động cho cán bộ, chiến sĩ, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, luôn là lực lượng trung thành, tin cậy để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân.

Công tác tư tưởng phải đi trước một bước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của công tác tư tưởng nên thường xuyên yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao hiệu quả công tác này. Người chỉ rõ: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”. Ngược lại: “Nếu đảng viên tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; như vậy, thì không thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm cách mạng”. Vì vậy, “Phải làm cho tư tưởng xã hội chủ nghĩa hoàn toàn thắng, tư tưởng cá nhân hoàn toàn thất bại”.

Thấm nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm đó, Đảng ta luôn chú trọng công tác tư tưởng và lãnh đạo công tác tư tưởng qua các giai đoạn cách mạng, nhằm khơi dậy và phát huy sức mạnh tinh thần trong giải quyết các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Thông qua công tác tư tưởng nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua từng thời kỳ cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; qua đó, làm cho họ giác ngộ về thế giới quan khoa học, nhân sinh quan cộng sản, hình thành niềm tin, lý tưởng, lẽ sống, nguyên tắc đạo đức, tình cảm cách mạng. Đồng thời, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, trọng tâm là bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, đạo đức, lối sống và nhân cách; cổ vũ, động viên tính tích cực, tự giác, sáng tạo của nhân dân, củng cố niềm tin, đề cao trách nhiệm cá nhân, sự đoàn kết, thống nhất, đồng thuận xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác tư tưởng là nhiệm vụ của toàn Đảng và hệ thống chính trị được tiến hành trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thấm sâu vào suy nghĩ và hành động của mỗi người dân, tạo hiệu ứng tích cực thúc đẩy sự ổn định và phát triển đất nước.

Công tác tư tưởng trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận công tác tư tưởng của Đảng, một mặt hoạt động cơ bản của công tác đảng, công tác chính trị, luôn giữ vai trò quan trọng nhằm bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị. Thấm nhuần quan điểm của Đảng, cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn xác định công tác tư tưởng phải đi trước một bước, thể hiện vai trò tiên phong, giáo dục, định hướng nhận thức và hành động cho cán bộ, chiến sĩ; được tiến hành trên mọi lĩnh vực hoạt động của Quân đội, bảo đảm ở đâu có bộ đội ở đó có công tác tư tưởng. Tư tưởng thông thì dù khó khăn, gian khổ đến đâu bộ đội cũng quyết tâm vượt qua để hoàn thành nhiệm vụ được giao. 

Tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong Quân đội góp phần nâng cao hiệu quả công tác quán triệt, giáo dục, động viên cán bộ, chiến sĩ tích cực nghiên cứu, học tập, nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ trong Quân đội, các quy định của đơn vị và yêu cầu đặt ra đối với phẩm chất, nhân cách, lối sống của người quân nhân cách mạng; đấu tranh ngăn chặn tư tưởng tiêu cực và hành động chống phá của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, hình thành ý thức, văn hóa pháp luật, làm cho cán bộ, chiến sĩ tự giác ghép mình vào khuôn khổ, chấp hành nghiêm chế độ, nền nếp, rèn luyện tư thế, tác phong quân nhân, không vi phạm các chế độ quy định; coi đó là vấn đề tất yếu trong quá trình phấn đấu, rèn luyện của bộ đội.

HAIVAN

Lời Bác năm xưa

 

“Mọi người phải ra sức trau dồi đạo đức xã hội chủ nghĩa. Cải tạo xã hội cũ xấu xa trở thành xã hội xã hội chủ nghĩa tốt đẹp là một sự nghiệp rất nặng nề, nhưng rất vẻ vang”.

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói tại Hội nghị toàn Đảng bộ khu Việt Bắc ngày 8-6-1959. Thời kỳ này, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, song cũng đặt ra những khó khăn, thử thách mới trong cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Lời nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, chỉ rõ tính chất khó khăn, phức tạp, lâu dài của nhiệm vụ cải tạo xã hội cũ thành xã hội chủ nghĩa tốt đẹp là một sự nghiệp lâu dài, vất vả, nhưng rất vẻ vang. Do đó, đòi hỏi cán bộ, đảng viên, đoàn viên cần phải có ý thức giác ngộ cách mạng cao, một lòng một dạ phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng cách mạng; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, thực hành tự phê bình một cách nghiêm túc, từ trong cấp ủy ra ngoài đảng bộ, từ trên xuống dưới để loại bỏ tư tưởng cũng như chủ nghĩa cá nhân ra khỏi mỗi con người.

Thực hiện lời Bác dạy, các thế hệ cán bộ, đảng viên, đoàn viên đã ra sức học tập, trau dồi phẩm chất đạo đức, mục tiêu lý tưởng cách mạng; tích cực lao động sản xuất, xây dựng miền Bắc trở thành hậu phương vững chắc, cung cấp sức người, sức của cho chiến trường miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất Tổ quốc, mở ra một kỷ nguyên mới: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay, trước sự tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân sa vào chủ nghĩa cá nhân, tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, ích kỷ, thờ ơ, vô cảm, sùng bái quyền lực và đồng tiền; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, tha hóa về phẩm chất, đạo đức, lối sống… làm cản trở sự phát triển bền vững của đất nước, cần phải đấu tranh, lên án.

Do vậy, học tập và làm theo lời Bác dạy về đạo đức cách mạng càng có giá trị thực tiễn sâu sắc, là cơ sở để cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, một lòng, một dạ thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

HAIVAN

Giải pháp khắc phục biểu hiện lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên

 

ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay chủ yếu do người học chưa xác định được mục tiêu, động cơ học tập lý luận chính trị; chưa nhận thức được tầm quan trọng của lý luận chính trị và học tập lý luận chính trị. Bên cạnh đó, một số nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn chậm được đổi mới, bổ sung, cập nhật, còn trùng lặp, thiếu hấp dẫn, không thiết thực. Hình thức giáo dục, học tập lý luận chính trị một số nơi chưa phong phú, chưa đa dạng; tổ chức học tập chưa phù hợp. Phương pháp giảng dạy của giáo viên còn hạn chế, nặng về truyền đạt tri thức, chưa phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học viên. Do đó, khắc phục tình trạng lười học, ngại học tập lý luận chính trị ở một bộ phận cán bộ, đảng viên cần triển khai thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và cán bộ, đảng viên.

Nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, của đội ngũ cán bộ, đảng viên chưa cao là nguyên nhân của tình trạng lười học tập lý luận chính trị. Do đó, cần chú trọng hơn nữa công tác giáo dục, tuyên truyền để các cấp ủy, tổ chức đảng và nhất là người đứng đầu, cán bộ, đảng viên nhận thức rõ việc học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận là quyền lợi và trách nhiệm của mình; coi đó là nhu cầu tự thân, việc làm thường xuyên, liên tục, bền bỉ suốt cuộc đời, không bao giờ là đủ. Phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên ở các cơ quan, đơn vị nhận thức rõ vai trò quan trọng của lý luận trong nâng cao năng lực, trình độ và phương pháp tư duy, năng lực lãnh đạo, để từ đó xây dựng động cơ, ý thức, trách nhiệm trong học tập lý luận chính trị. Cần lựa chọn nội dung, thời gian, hình thức bồi dưỡng phù hợp cho từng cấp, từng đối tượng. Kiên quyết đấu tranh, khắc phục triệt để cách nhìn nhận học lý luận chính trị vì lý do thăng tiến, để được đề bạt, bổ nhiệm.

Hai là, coi trọng hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp.

Đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, tuyên truyền viên là người trực tiếp tương tác, truyền thụ thông tin, kiến thức, truyền cảm hứng và gợi mở cho cán bộ, đảng viên, học viên. Thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ làm công tác này có phẩm chất đạo đức và tài năng, thực sự là tấm gương “tự học và sáng tạo”, am tường lý luận sâu sắc, dày dạn kinh nghiệm thực tiễn, có năng lực sư phạm tốt, phương pháp truyền đạt hấp dẫn, cuốn hút người học sẽ góp phần khắc phục bệnh lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên.

Ba là, cấp ủy các cấp duy trì thực hiện nghiêm quy định, chế độ học tập lý luận chính trị hằng năm cho cán bộ, đảng viên.    

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII của Đảng yêu cầu: “Có kế hoạch học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận bắt buộc hằng năm đối với cán bộ, đảng viên gắn với việc cung cấp thông tin, cập nhật kiến thức mới phù hợp từng đối tượng, từng cấp, từng ngành, từng địa phương”. Theo đó, cấp ủy các cấp phải duy trì và thực hiện đúng các quy định, chế độ về học tập lý luận chính trị trong Đảng, phải coi đó là nghĩa vụ đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ để mọi người tự giác thực hiện nghiêm túc. Đưa chế độ tự học tập, nghiên cứu lý luận chính trị thành tiêu chí bắt buộc trong hoạt động của cán bộ, đảng viên; phòng, chống triệt để tình trạng lười học, ngại học tập lý luận chính trị. Phát huy vai trò nêu gương học tập lý luận chính trị của người đứng đầu, của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.

Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động của mỗi cán bộ, đảng viên trong tự học tập, tự nghiên cứu lý luận chính trị.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời... Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần lời dạy đó của Người, thường xuyên học tập, trau đồi phẩm chất đạo đức chính trị, gắn việc học lý luận với thực tiễn công việc hằng ngày. Mỗi cán bộ, đảng viên cần dành thời gian nghiên cứu, thu hoạch các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Gắn những tri thức thu được vào thực tiễn cuộc sống, vào nhiệm vụ ở cơ quan, đơn vị, tránh lý luận suông. Mỗi cán bộ, đảng viên cần khiêm tốn học hỏi, chống tự cao, tự đại, thỏa mãn với những kiến thức đã có. Trong học tập, nghiên cứu lý luận chính trị cần tránh giáo điều, tiếp thu lý luận một cách máy móc “kinh viện”, không biết vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể. Đồng thời, phải tránh chủ nghĩa kinh nghiệm, tuyệt đối hóa vai trò của kinh nghiệm, coi nhẹ, phủ nhận vai trò của lý luận. Gắn việc tự học, tự nghiên cứu với tích cực, chủ động đấu tranh, phê phán với các quan điểm sai trái, thù địch để làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hiện nay.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá; lấy kết quả học tập lý luận chính trị làm thước đo để đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên.

Các cấp ủy, tổ chức đảng ở các cơ quan, đơn vị cần tăng cường kiểm tra và quản lý chặt chẽ chất lượng học tập lý luận chính trị, quán triệt triển khai các nghị quyết của Đảng bảo đảm nền nếp, thực chất, hiệu quả thiết thực. Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời biểu dương những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên gương mẫu thực hiện nghiêm, chấp hành tốt việc học tập lý luận chính trị. Đồng thời, phê bình, nhắc nhở nghiêm khắc đối với các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên có biểu hiện lơ là, chưa nghiêm túc, vi phạm quy chế, kỷ luật, kỷ cương trong học tập lý luận chính trị. Căn cứ vào ý thức, thái độ, trách nhiệm và kết quả học tập lý luận chính trị để đánh giá, xếp loại, phân loại cán bộ, đảng viên và bình xét thi đua khen thưởng hằng năm thực chất, hiệu quả, không hình thức.

HAIVAN

Biểu hiện lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay

 

Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy được những biểu hiện của bệnh ngại học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên, đó là: “Chỉ biết vùi đầu suốt ngày vào công tác sự vụ, không nhận thấy sự quan trọng của lý luận, cho nên còn có hiện tượng xem thường học tập hoặc là không kiên quyết tìm biện pháp để điều hòa công tác và học tập;… phàn nàn trước những khó khăn của việc đọc tài liệu, khó khăn đào sâu suy nghĩ”. Nhận thấy những nguy hại của căn bệnh lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên, ngay từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII năm 1996, Đảng ta đã chỉ rõ, lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin mới cũng là biểu hiện của sự suy thoái. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” đã chỉ ra một trong chín biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay là: “Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh, cần “khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên”. Việc nhận diện đúng các biểu hiện của căn bệnh này là cơ sở quan trọng để đưa ra những biện pháp khắc phục kịp thời. Có thể thấy, bệnh lười học, ngại học lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên hiện nay tập trung ở những biểu hiện sau:

Thứ nhất, không ít cán bộ, đảng viên không nhận thức đầy đủ về sự cần thiết, tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị mà thường tập trung cho học tập chuyên môn, nghiệp vụ; thậm chí có người còn cho rằng đó là việc làm “vô ích” gây lãng phí thời gian, công sức. Đã có không ít người thiếu tự giác, không chủ động tham gia học tập lý luận chính trị, thậm chí tìm mọi lý do để trốn tránh không tham gia học tập.

Thứ hai, một bộ phận cán bộ, đảng viên học tập lý luận chính trị chưa thực sự nghiêm túc, còn thực hiện qua loa, đại khái, hình thức. Vẫn còn tư tưởng học để có đủ bằng cấp, đủ điều kiện để được đề bạt, bổ nhiệm, nên chưa thật sự toàn tâm, toàn ý cho việc nghiên cứu, học tập. Một số người chấp hành kỷ luật học tập không nghiêm, đi học thì “đánh trống ghi tên”, gượng ép, đối phó; vi phạm quy chế học tập, như nhờ đi học, nhờ thi hộ, bỏ học, bỏ thi, sử dụng điện thoại, làm việc riêng trong lớp học; thiếu tích cực, thiếu chủ động nghiên cứu tài liệu trong học tập; ngại trao đổi, thảo luận, quay cóp khi thi, sao chép khi làm bài thu hoạch.

Thứ ba, một bộ phận cán bộ, đảng viên không vận dụng tri thức đã học để xem xét giải quyết các vấn đề của địa phương, cơ quan, đơn vị mình; không sử dụng kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn công việc theo chức trách, nhiệm vụ; học không đi đôi với hành; lý luận chưa gắn với thực tiễn.

HAIVAN

Khắc phục biểu hiện lười học, ngại học lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên hiện nay

 

“Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Học tập lý luận chính trị là nghĩa vụ đối với mọi cán bộ, đảng viên, tuy nhiên, vẫn có hiện tượng một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện ngại học lý luận chính trị. Vì thế, nhận diện rõ biểu hiện này và có những giải pháp khắc phục kịp thời là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân thế giới đã chứng minh rằng, bất kỳ chính đảng nào muốn lãnh đạo phong trào cách mạng thành công đều phải có một lý luận cách mạng soi đường. Nói cách khác, một chính đảng mạnh bao giờ cũng phải có chủ nghĩa “làm cốt” và nền tảng lý luận khoa học dẫn đường. Nếu không, chính đảng ấy sẽ mất phương hướng, “lúng túng như nhắm mắt mà đi” và tất yếu, cách mạng sẽ khó thành công, thậm chí thất bại. Lý luận cách mạng là điều kiện tiên quyết để hình thành và thúc đẩy phong trào cách mạng. Khẳng định điều này, V.I. Lê-nin cho rằng: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng” và “chỉ có một đảng có lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có thể làm tròn được vai trò chiến sĩ tiền phong”. V.I. Lê-nin còn chỉ rõ sự cần thiết phải học tập lý luận chính trị: “Xem kinh nghiệm của các đảng anh em, thì chúng ta càng thấy sự bức thiết, sự quan trọng của việc tổ chức học tập lý luận cho Đảng, trước hết là cho các cán bộ cốt cán của Đảng”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh: “Đảng ta còn có nhiều nhược điểm mà một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém... vì trình độ lý luận thấp kém cho nên đứng trước nhiệm vụ cách mạng ngày càng mới và phức tạp, trong việc lãnh đạo, Đảng ta không khỏi lúng túng, không tránh khỏi sai lầm, khuyết điểm”. Người còn chỉ rõ: “Vì kém lý luận, cho nên gặp mọi việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo. Không biết nhận rõ điều kiện hoàn cảnh khách quan, ý mình nghĩ thế nào làm thế ấy. Kết quả thường thất bại”. Do đó, “Đảng ta tổ chức trường học lý luận cho cán bộ là để nâng cao trình độ lý luận của Đảng ta đặng giải quyết sự đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng và tình hình thực tế của Đảng ta, để Đảng ta có thể làm tốt hơn công tác của mình, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ cách mạng vĩ đại của mình”.

Như vậy, có thể khẳng định, việc học tập lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng; là công việc cấp bách, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài. Lý luận chính trị là hệ thống tri thức về lĩnh vực chính trị; mang tính đảng, tính giai cấp, đồng thời có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa và tính dự báo khoa học cao. Lý luận chính trị giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư duy khoa học, có phương pháp làm việc biện chứng; có phương thức lãnh đạo và tổ chức quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,... phù hợp với quy luật khách quan. Không có lý luận chính trị thì tinh thần và ý chí kém cương quyết, không nhìn xa trông rộng, dễ lạc phương hướng và “mù chính trị”, thậm chí xa rời cách mạng. Với ý nghĩa đó, việc học tập lý luận chính trị không chỉ góp phần để cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, nắm bắt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận dụng hiệu quả những tri thức lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra, mà còn là cẩm nang để giúp mỗi cán bộ, đảng viên thâm nhập, đi sâu vào quần chúng, gần dân, hiểu dân và trọng dân, xứng đáng là người lãnh đạo gương mẫu, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Học tập lý luận chính trị, bao gồm nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước… Đây là yêu cầu thường xuyên, hằng ngày, cần thiết đối với mỗi cán bộ, đảng viên. Học tập lý luận chính trị là nhiệm vụ quan trọng nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, rèn luyện phẩm chất đạo đức, do đó, nếu nhận thức lơ là hoặc sai lệch về tầm quan trọng của lý luận và việc học tập lý luận chính trị, tất yếu dẫn đến lười học, ngại học, học đối phó. Bởi vậy, cán bộ, đảng viên chẳng những không nắm vững và vận dụng được các nguyên lý khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn không thể hình thành và phát triển tư duy khoa học khách quan. Thực tế cho thấy, học tập lý luận chính trị là vấn đề hệ trọng, có ảnh hưởng lớn; nếu không học tập lý luận có thể kéo theo hàng loạt những vấn đề phức tạp khác, như suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... và từ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

HAIVAN

Nâng cao hiệu quả việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

 

Để khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và bất cập nêu trên, trong những năm gần đây, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quy trình, hướng dẫn... nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; xác định rõ chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền của tập thể và cá nhân; quy định cụ thể những việc, những vấn đề phải đưa ra tập thể thảo luận, quyết định và chịu trách nhiệm; những việc cá nhân, trong đó có người đứng đầu, được đề xuất hoặc quyết định và chịu trách nhiệm về đề xuất, quyết định của mình, làm cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực của tập thể và cá nhân từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Cụ thể là:

Thứ nhất, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, tại hội nghị trung ương lần thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương đều bổ sung, sửa đổi và ban hành Quy chế làm việc của Trung ương; trong đó, quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và thẩm quyền, trách nhiệm của Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương... Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng bổ sung, sửa đổi và ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ, các đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương và ban hành quy chế làm việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc Trung ương để thực hiện.

Thứ hai, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017, “Về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”, nhằm xác định rõ nguyên tắc, đối tượng, nội dung công tác cán bộ và quy trình thực hiện việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử theo quy trình 5 bước và quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp; chỉ rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và của mỗi thành viên trong tập thể lãnh đạo đó, nhất là thẩm quyền của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và trách nhiệm của tập thể, cá nhân khi để xảy ra sai phạm. Quy định của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi thành viên trong tập thể đó; thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và các cá nhân trong việc tham mưu, đề xuất về công tác cán bộ; quy định rõ những việc tập thể và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán bộ phải làm và những việc không được làm; việc xử lý đối với tập thể và cá nhân khi để xảy ra sai phạm, kể cả khi cán bộ đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác. Quy định số 10-QĐi/TW, ngày 12-12-2018, của Bộ Chính trị, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” đã quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh và của mỗi thành viên trong tập thể đó. Đồng thời, chỉ rõ những nhiệm vụ cụ thể thuộc thẩm quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp tỉnh trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, công tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên và của người đứng đầu cấp ủy; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm...

Thứ ba, Ban Bí thư khóa XII đã ban hành Quy định số 202-QĐ/TW, ngày 2-8-2019, về “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện”, nhằm quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện và của mỗi thành viên trong tập thể đó; chỉ rõ những nhiệm vụ thuộc thẩm quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, công tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở địa phương; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên và của người đứng đầu cấp ủy cấp huyện; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm... Đối với cấp cơ sở, Ban Bí thư các khóa gần đây đã ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng để thực hiện, trong đó có 2 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng cơ quan; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng đơn vị sự nghiệp; 10 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị quân đội; 6 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong đơn vị công an; 7 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình doanh nghiệp.

Thứ tư, ngoài các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cấp ủy, tổ chức đảng nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khóa XI, khóa XII đã ban hành các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp, với phương châm “cán bộ có chức vụ càng cao, thì càng phải gương mẫu” để thực hiện và đem lại những kết quả tích cực.

Qua thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế... của Trung ương nêu trên, các cấp ủy, tổ chức đảng đã có chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; từng bước xác định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, bảo đảm sự lãnh đạo của tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế các sai phạm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong thực hiện nhiệm vụ chính trị vẫn còn một số hạn chế, bất cập và chưa được như mong muốn; vì thế, cần tiếp tục cụ thể hóa để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.

HAIVAN

Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

 

Thực tiễn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm qua cho thấy, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã có nhiều cố gắng trong việc thể chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; xác định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và của mỗi cá nhân, nhất là đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và kết quả bước đầu đạt được, việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nhất là việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền với tập thể cấp ủy, ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị vẫn chưa thật rõ ràng và còn những hạn chế, bất cập. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; có vai trò “là thủ lĩnh”, là “đầu tàu” để dẫn dắt, truyền cảm hứng và lôi cuốn đối với tập thể cấp ủy, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhưng người đứng đầu cũng chỉ là một thành viên dự họp và khi biểu quyết cũng chỉ có một phiếu như các thành viên khác.

Trong thực tế, cũng có không ít cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đơn vị hành chính chưa thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một mặt, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu thiếu gương mẫu, uy tín thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, nói nhiều làm ít, nói không đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, độc đoán, chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, nhưng không được tập thể theo dõi, giám sát, giúp đỡ kịp thời, dẫn đến vi phạm nguyên tắc tổ chức và các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Mặt khác, cũng do chưa cụ thể hóa và phân định thật rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu nên còn có sự lúng túng giữa thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở nhiều nơi. Cũng có nơi đã xảy ra sai phạm do nhầm lẫn giữa thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy (thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định theo đa số) với người đứng đầu cơ quan, đơn vị (thực hiện nguyên tắc thủ trưởng quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định đó), nhất là đối với những đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Vì thế, nhiều nơi có biểu hiện là, khi địa phương, tổ chức, cơ quan, đơn vị có ưu điểm, thành tích thì ai cũng thấy có công lao, thành tích của mình đóng góp ở trong đó; nhưng khi có sai lầm, khuyết điểm, thậm chí để xảy ra sai phạm, thì không xác định được trách nhiệm của tập thể và cá nhân đến đâu, nhất là của người đứng đầu; và cuối cùng là đổ cho nguyên nhân khách quan và lỗi chung của tập thể, mà không có cá nhân nào chịu trách nhiệm.

Cũng không ít nơi còn biểu hiện dân chủ xuôi chiều, dân chủ hình thức, ý kiến phát biểu của các thành viên lãnh đạo chủ yếu dựa theo ý kiến của người đứng đầu, theo kiểu “gió chiều nào che chiều ấy”. Đây thực chất là thông qua cơ chế dân chủ của tập thể để hợp thức hóa ý chí áp đặt và sự chỉ đạo của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị. Vì vậy, trong công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, đã xảy ra không ít trường hợp là, mặc dù thực hiện “đúng quy trình” nhưng vẫn không lựa chọn được đúng người, đúng việc, trong khi đó có một số trường hợp được bổ nhiệm “thần tốc” lại là con, em, người thân của cán bộ lãnh đạo, nhất là người đứng đầu, nên đã gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Thực trạng trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có nguyên nhân chủ quan là việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và việc phân định chưa thật rõ ràng trách nhiệm của người đứng đầu trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị; chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể.

HAIVAN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách

 

Quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, luôn coi trọng nguyên tắc tập trung dân chủ và coi đó là nguyên tắc số một về tổ chức và hoạt động của một Đảng Cộng sản. Điều lệ của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, những tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều khẳng định và chỉ rõ những nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng 93 năm qua, Đảng ta luôn xác định tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm 2011) nhấn mạnh: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ thể của nguyên tắc tập trung dân chủ chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong Đảng thống nhất với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy nhà nước và trở thành một phong cách làm việc cần thiết của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hiện nay, việc thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và phong cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Thực chất, việc cụ thể hóa nguyên tắc này là xử lý hài hòa mối quan hệ giữa cấp ủy, tập thể lãnh đạo và mỗi thành viên, mà quan trọng nhất là đối với vị trí, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị đó.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó... Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”. Trong hoạt động lãnh đạo, một mặt, nếu tập thể lãnh đạo cùng tham gia, đóng góp ý kiến, thảo luận, bàn bạc thấu đáo, kỹ lưỡng, thì quyết định lãnh đạo, chủ trương, chính sách mới sẽ bảo đảm được tính khách quan, chính xác hơn, khắc phục được tình trạng chủ quan, duy ý chí; mặt khác, khi tập thể đã thảo luận một cách dân chủ, kỹ lưỡng và có quyết định chính xác, đúng đắn về chủ trương, thì không thể hô hào chung chung, mà tất cả mọi người phải cùng thực hiện, phải phân công, giao nhiệm vụ cho từng thành viên phụ trách trong từng lĩnh vực, từng công việc cụ thể. Chỉ có như vậy, hoạt động của cơ quan, đơn vị sẽ vừa phát huy được dân chủ, tập hợp trí tuệ của các thành viên và nâng cao vai trò lãnh đạo của tập thể, vừa đề cao vai trò, trách nhiệm của cá nhân, phát huy được năng lực, sở trường và tính chủ động, sáng tạo của mỗi thành viên khi được phân công phụ trách, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.

“Tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách” có mối quan hệ gắn bó mật thiết, biện chứng với nhau, là hai mặt thống nhất trong một chỉnh thể không thể tách rời. Khi một tập thể lãnh đạo gương mẫu, thực sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, tất cả vì lợi chung của Đảng, luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết, trước hết, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, sẽ tạo được môi trường thuận lợi cho mỗi thành viên lãnh đạo rèn luyện, phấn đấu, phát huy hết phẩm chất, năng lực, sở trường để đóng góp cho sự nghiệp chung. Bên cạnh đó, khi mỗi thành viên cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, thực sự tiền phong gương mẫu, luôn năng động, sáng tạo, dám đổi mới, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, sẽ làm tăng thêm vai trò, sức mạnh và năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Trong mối quan hệ giữa “tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách”, thì mối quan hệ giữa cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và người đứng đầu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh đạo và vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị. Khi tập thể lãnh đạo thực sự đoàn kết, thống nhất, gương mẫu, giữ vững nguyên tắc tổ chức và các quy định của Đảng, tất cả vì lợi ích của nhân dân, các thành viên ban lãnh đạo đều đề cao tinh thần trách nhiệm, thẳng thắn đấu tranh với quan điểm và hành vi sai trái..., sẽ làm tăng thêm vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, trở thành chỗ dựa vững chắc để người đứng đầu quyết đoán, quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành công việc theo chức trách, nhiệm vụ được giao; đồng thời, sẽ ngăn ngừa, hạn chế được những biểu hiện chủ quan, duy ý chí và hành vi vi phạm nguyên tắc của người đứng đầu. Điều đó là bởi, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền chỉ là một thành viên trong cấp ủy, tập thể lãnh đạo, nhưng có vị trí rất quan trọng, đóng vai trò “thủ lĩnh”, định hướng, dẫn dắt cả tập thể trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Thực tiễn cũng chỉ ra rằng, nếu người đứng đầu có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gương mẫu về mọi mặt, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, sẽ góp phần xây dựng tập thể lãnh đạo đoàn kết, thống nhất, trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đưa địa phương, cơ quan, đơn vị vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nơi nào và lúc nào người đứng đầu thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu, chấp hành không nghiêm chủ trương, đường lối, các nguyên tắc, quy định của Đảng, có tư tưởng vụ lợi, cá nhân chủ nghĩa..., thì sẽ dẫn đến thiếu đoàn kết, thống nhất trong nội bộ lãnh đạo; nhiệm vụ chính trị không được hoàn thành, trong cơ quan, đơn vị thường xảy ra tiêu cực, thậm chí tham nhũng, lãng phí, vi phạm Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không những gây thiệt hại về kinh tế, mà còn làm tổn thất, mất mát về cán bộ, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước.

HAIVAN