Thứ Hai, 6 tháng 1, 2025

Những thành tựu công nghiệp quốc phòng không thể phủ nhận

Thứ nhất, thành tựu nền CNQP Việt Nam là hệ quả tất yếu của đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta về phát triển CNQP trong thời kỳ mới.

Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện phát triển nền CNQP nước nhà gắn với xây dựng Quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định rõ định hướng chiến lược: Phát triển nền CNQP theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Mục tiêu là làm chủ công nghệ tiên tiến để xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đổi mới, hội nhập và nâng cao hiệu quả quản lý CNQP, tích cực cải cách hành chính, bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện. Các cơ chế, chính sách đặc thù và chương trình hợp tác khoa học-công nghệ; hệ thống quản lý và cơ sở CNQP được kiện toàn đồng bộ; các doanh nghiệp quốc phòng được tái cơ cấu theo hướng tinh gọn, hiệu quả... Đây là hành lang, thể chế quan trọng, thể hiện sự quan tâm và tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong phát triển CNQP thời kỳ mới, tạo điều kiện để CNQP Việt Nam bứt phá và phát triển.

Thứ hai, thành tựu của CNQP Việt Nam toàn diện, vững chắc và có bước đột phá.

Từ công tác nghiên cứu sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thực hiện chủ trương phát triển lưỡng dụng đến công tác phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và hoạt động hợp tác quốc tế về CNQP đều đạt những thành tựu nổi bật. Hơn một thập kỷ qua, ngành CNQP Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc khi làm chủ công nghệ, thiết kế và sản xuất nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội, tiêu biểu như: Các tổ hợp tên lửa tiên tiến, radar thế hệ 3; hệ thống tự động hóa chỉ huy phòng không-không quân, máy bay trinh sát không người lái; tàu ngầm quân sự cỡ nhỏ; xe thiết giáp; các loại súng đạn chống tăng, đạn pháo; khí tài quan sát ngày đêm; trang bị thông tin thế hệ mới... đã minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền CNQP Việt Nam.

Đội ngũ nhân lực trong ngành CNQP Việt Nam có bước tiến vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến đầu năm 2022, số cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tăng gần 2,4 lần so với năm 2011. Các nhóm nghiên cứu mạnh và tiềm năng được hình thành, tập trung vào những lĩnh vực then chốt như vũ khí bộ binh, đóng tàu, chế tạo tên lửa và phát triển trang thiết bị công nghệ cao, khẳng định sự phát triển toàn diện của ngành. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “CNQP, an ninh được tập trung đầu tư phát triển, sản xuất được nhiều loại phương tiện, thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhiều thiết bị máy móc, sản phẩm dân dụng chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường”(1), góp phần khẳng định tầm quan trọng và giá trị của ngành CNQP trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Thứ ba, CNQP Việt Nam từng bước khẳng định năng lực tự chủ trong nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và bước đầu định vị giá trị của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng thế giới.

Những năm gần đây, ngành CNQP Việt Nam có những bước đột phá trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, đáp ứng một phần nhu cầu trong nước, giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước. Theo lãnh đạo Tổng cục CNQP, trong 10 năm qua, 80% vũ khí và trang bị được đưa vào sử dụng xuất phát từ các đề tài nghiên cứu trong nước.

Sự xuất hiện của các loại vũ khí, khí tài hiện đại, đa dạng do Việt Nam tự chủ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, như: Radar cảnh giới tầm gần, radar 3D phòng không cấp chiến thuật, radar phòng không tầm trung; tổ hợp trinh sát, gây nhiễu chống phương tiện bay không người lái cấp chiến thuật; tổ hợp tên lửa đất đối hải Trường Sơn gồm bệ phóng, tên lửa hành trình Sông Hồng, radar phát hiện và chỉ thị mục tiêu được đặt trên khung gầm xe việt dã; xe chiến đấu bộ binh XCB-01; các UAV trinh sát, cảm tử, đa năng. Đặc biệt, máy bay huấn luyện TP-150 lần đầu ra mắt công chúng-chiếc máy bay đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam bởi một công ty Việt Nam là minh chứng sống động cho năng lực tự chủ và sự phát triển vượt bậc của CNQP Việt Nam.

Không chỉ tự chủ đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa Quân đội, CNQP Việt Nam còn chứng minh khả năng vươn ra thị trường quốc tế. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và cựu chiến binh Nam Phi Richard Hlophe khi tham dự Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, đã nhận định: “Tôi đánh giá rất cao nền CNQP của Việt Nam. Các loại vũ khí, khí tài mới của các bạn rất tiên tiến. Đó là lý do tại sao chúng tôi sẽ hợp tác với Việt Nam để cả hai bên có thể cùng nhau phát triển”. Qua triển lãm và trao đổi giữa các đoàn, Việt Nam đã ký kết hàng chục hợp đồng trị giá hàng trăm triệu USD; thiết lập hàng loạt thỏa thuận hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp quốc phòng đến từ những quốc gia có nền công nghiệp phát triển, đồng thời mở ra hướng phát triển mới là minh chứng sinh động đối với nền CNQP Việt Nam và Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam.

Thứ tư, ngành CNQP không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

Với việc làm chủ công nghệ hiện đại và phát triển sản xuất trong nước, ngành CNQP góp phần quan trọng giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, tiết kiệm nguồn lực và tối ưu hóa ngân sách nhà nước. Nhiều sản phẩm quốc phòng không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu, tạo nguồn thu cho quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Bên cạnh đó, ngành CNQP đã tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Các dự án và cơ sở sản xuất quốc phòng góp phần phát triển hạ tầng, cải thiện đời sống nhân dân ở các địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước. Trung bình mỗi năm, các doanh nghiệp Quân đội đã tạo ra khoảng 5% GDP và đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 40.000-50.000 tỷ đồng, bằng khoảng 25% đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước.

Như vậy, thành tựu của CNQP Việt Nam đã đạt được thời gian qua là toàn diện, vững chắc, có bước đột phá mạnh mẽ, đã và đang khẳng định vị thế của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng toàn cầu. Những luận điệu xuyên tạc thành tựu CNQP Việt Nam chỉ là những luận điệu lạc lõng, âm thanh “lạc nhịp”, phiến diện của thiểu số những kẻ mang định kiến và thiếu hiểu biết về Quân đội nhân dân Việt Nam và CNQP Việt Nam.

Cán bộ, chiến sĩ toàn quân đón mừng năm mới vui tươi

 Hòa trong không khí đón mừng năm mới 2025, các cơ quan, đơn vị toàn quân tổ chức nhiều hoạt động sôi nổi, ý nghĩa, tiếp thêm niềm tin, động lực để cán bộ, chiến sĩ tiếp tục thi đua hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ.

Luận điệu lạc lõng, âm thanh "lạc nhịp"

Vừa qua, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 đã thành công rực rỡ, được nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Chỉ ít ngày ngắn ngủi nhưng triển lãm đã đón hơn 260.000 lượt người tham quan. Thông qua triển lãm, nhân dân nói chung và các chuyên gia trong và ngoài nước đều đánh giá cao, bày tỏ sự cảm phục, niềm tự hào trước sự phát triển của CNQP Việt Nam và sức mạnh của Quân đội ta. Đặc biệt, qua triển lãm, các đơn vị của Tổng cục CNQP, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) đã ký kết 16 hợp đồng với tổng giá trị hơn 286 triệu USD và 17 thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa CNQP Việt Nam và doanh nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Ấn Độ, Pháp, Bỉ... Triển lãm được truyền thông trong nước và quốc tế đưa tin nổi bật trên tất cả loại hình, qua đó khẳng định giá trị, góp phần lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng với bạn bè quốc tế.

Thế nhưng, một số hãng truyền thông được "giật dây" của thế lực thù địch và cá nhân thiếu thiện chí, các tổ chức phản động ở nước ngoài với mưu đồ đen tối, tâm địa xấu xa cố tình xuyên tạc, phủ nhận thành tựu, hạ thấp uy tín của CNQP Việt Nam.

Giọng điệu lạc lõng, nực cười, khi họ cho rằng: Triển lãm quân sự "không giúp người dân tin tưởng vào Quân đội", CNQP Việt Nam “đầu tư chắp vá” nên không có khả năng tự chủ, vẫn trong “vòng luẩn quẩn của câu chuyện ốc vít” mà thôi. Những phần tử cơ hội chính trị còn quy chụp rằng, cuộc triển lãm lần này chỉ mang tính tuyên truyền để “ru ngủ” nhân dân; “khỏa lấp đi những yếu kém” của mình nhiều hơn là khẳng định năng lực tự chủ về công nghệ quân sự...  

Đó là những giọng điệu "lạc lõng", âm thanh "lạc nhịp” trong bài ca hùng tráng của CNQP Việt Nam. Nó mang tính phiến diện, thiếu khách quan, thể hiện thái độ định kiến đối với những nỗ lực và thành tựu của nền CNQP Việt Nam nói chung, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 nói riêng. Mục tiêu của những kẻ hô hào yếu đuối này nhằm hạ thấp uy tín, năng lực, trình độ, khả năng tự chủ và thành tựu đáng tự hào của CNQP Việt Nam; phá hoại quan hệ hợp tác của các doanh nghiệp quốc phòng nước ta với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực quan trọng, giàu tiềm năng này.

NHỮNG THÀNH TỰU VỀ NHÂN QUYỀN VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM LÀ KHÁCH QUAN, ĐƯỢC QUỐC TẾ GHI NHẬN, ĐÁNH GIÁ CAO

Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người luôn được Đảng, Nhà nước ta chú trọng và không ngừng bổ sung, phát triển qua các thời kỳ. Không chỉ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, dành nhiều nguồn lực, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, Đảng, Nhà nước ta còn chú trọng đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân quyền. Với sự cố gắng không ngừng, Việt Nam có quyền tự hào khi đạt được nhiều thành tựu quan trọng về công tác đối ngoại nhân quyền.

 Trong quá trình đổi mới đất nước, Việt Nam thường xuyên hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về quyền con người và đạt được nhiều thành tựu trên thực tế. Các quyền dân sự, chính trị, y tế, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí, Internet, bình đẳng giới đều đạt những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam đã vươn lên từ một nước nghèo để trở thành một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Các chỉ số về phát triển con người (HDI), bình đẳng giới (GEI) của Việt Nam do các cơ quan Liên hợp quốc xếp hạng liên tục được cải thiện.  Năm 1977, nước ta gia nhập Liên hợp quốc, đây là dấu mốc quan trọng trong công tác đối ngoại nhân quyền, một mặt Việt Nam tranh thủ các nguồn lực có giá trị đối với công tác nhân quyền trong nước, mặt khác là cơ sở để Việt Nam đóng góp nhiều hơn cho công tác nhân quyền thế giới. Việt Nam là ứng cử viên duy nhất đại diện cho ASEAN đã trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 với số phiếu cao, đây là lần thứ 2 chúng ta trở thành thành viên của tổ chức này. Thực tế cho thấy, quốc gia trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền là điều không hề dễ dàng bởi bên cạnh việc quốc gia đó phải đạt những tiến bộ vượt bậc về bảo vệ quyền con người trong nước còn phải có đóng góp tích cực, hiệu quả thúc đẩy nhân quyền trên toàn cầu.

Việc Việt Nam đã hai lần trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc là minh chứng rõ nhất về thành tựu liên quan quyền con người ở nước ta. Đồng thời cho thấy vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, không chỉ những thành tựu nhân quyền trong nước mà những đóng góp của nước ta đối với công tác nhân quyền của Liên hợp quốc. Đây là minh chứng rõ nét nhất phản bác lại những luận điệu sai trái, thù địch. Vào ngày 3/4/2023, tại Geneva (Thụy Sỹ), Việt Nam soạn thảo và đề xuất với Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA). Nghị quyết do Việt Nam khởi xướng đã tập hợp được 98 nước tham gia đồng bảo trợ.  Đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người. Đồng thời, chúng ta phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Việt Nam luôn chủ động trong công tác đối thoại nhân quyền. Tháng 6/2023, tại Maroc, đoàn đại biểu Quốc hội do ông Đôn Tuấn Phong, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại làm Trưởng đoàn đã tham dự Hội nghị Nghị viện về đối thoại tôn giáo do Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) tổ chức, quy tụ 163 quốc gia. Tham vấn tại hội nghị, đoàn đại biểu Việt Nam đã thông tin cho bạn bè quốc tế biết về những nỗ lực, thành tựu trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; ghi nhận những đóng góp của các tổ chức tôn giáo trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

Ngày 27/7/2023, đoàn Việt Nam đã thăm chính thức Tòa thánh Vatican theo lời mời của Giáo hoàng Francis. Trong chuyến thăm này, Chính phủ Việt Nam và Tòa thánh Vatican đã thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của đại diện thường trú và Văn phòng đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”. Đây là hình mẫu của sự tin tưởng lẫn nhau và là cơ sở để thúc đẩy, mở rộng quan hệ hơn nữa giữa Việt Nam và các tổ chức, nhà nước tôn giáo. Đối với Hoa Kỳ, EU, Việt Nam luôn chủ động trong đối thoại nhân quyền, đưa công tác này ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất. Hằng năm, nước ta đều chủ động cử các phái đoàn trao đổi, thảo luận về vấn đề nhân quyền để đi đến tháo gỡ những vướng mắc, thống nhất nhận thức chung, tôn trọng tính đặc thù về nhân quyền của các bên, thúc đẩy sự phát triển.

Việt Nam cũng tích cực tham gia duy trì hòa bình, cứu trợ nhân đạo. Từ năm 2014 đến nay, hằng năm Việt Nam đều cử hàng trăm lượt cán bộ, nhân viên thuộc lực lượng vũ tranh nhân dân Việt Nam đi làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đặc biệt, ngày 9/2/2023, 100 cán bộ, chiến sĩ của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đã sang Thổ Nhĩ Kỳ để tham gia công tác cứu nạn vụ động đất, được Chính phủ và nhân dân nước bạn, cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Trở lại với phiên đối thoại ngày 7/5 vừa qua, Việt Nam tái khẳng định chính sách nhất quán về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, luôn xác định con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Các vấn đề được các nước quan tâm, Việt Nam đã trình bày, phúc đáp, thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Trong chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, quá trình triển khai các khuyến nghị, Việt Nam đã tổ chức tham vấn rộng rãi với sự tham gia của tất cả các bên liên quan, trong đó có các tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ chức xã hội, các quốc gia thành viên, đối tác phát triển, và người dân. Hằng trăm các ý kiến, phản hồi đã được thu thập và được thể hiện rõ nét trong Báo cáo này. Đến nay có 239/241 khuyến nghị (tương đương 99,2%) đã được hoàn thành hoặc triển khai một phần. Cũng trong chu kỳ này đã có 45 luật và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề quyền con người đã được thông qua hoặc sửa đổi, trong đó có một số luật quan trọng như Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phòng, chống ma túy và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Đối với một số ý kiến dựa trên những nguồn tin chưa được kiểm chứng, đoàn Việt Nam đã giải đáp, cung cấp thông tin xác thực. Việt Nam nhấn mạnh nguyên tắc đối thoại, hợp tác, tôn trọng khác biệt; đồng thời nêu rõ không có một mô hình chung cho tất cả các nước mà mỗi nước tùy theo đặc thù, điều kiện của mình sẽ có con đường phát triển riêng. Việt Nam tự tin tiếp bước trên con đường đã chọn hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, người dân được thụ hưởng các quyền con người cơ bản. Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ và cam kết của mình trong khuôn khổ các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên./.


Tỉnh táo, ngăn chặn sự xuyên tạc, bịa đặt

Để phòng, chống thông tin giả, tin đồn thất thiệt về công tác nhân sự trước đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng có hiệu quả, phải thực hiện tổng hợp nhiều hình thức, biện pháp bao gồm cả phòng và chống trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở tất các các cấp, các ngành, từ Trung ương đến các địa phương, trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội.

Trong bài phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng diễn ra tại Hà Nội vào ngày 13-3-2024, nói về nội dung “Trách nhiệm của chúng ta”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: Phải xác định công tác chuẩn bị nhân sự là nhiệm vụ quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển vững mạnh của đất nước; phải bằng mọi biện pháp dứt khoát không đưa vào cơ quan lãnh đạo những người không xứng đáng, không đủ tiêu chuẩn, nhất là những người đã vi phạm hoặc sa sút về phẩm chất, đạo đức, vướng vào tham nhũng, chạy chức, chạy quyền, hống hách, gia trưởng, nịnh trên nạt dưới; bao che cho tội phạm, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Để những người đó lọt được vào cương vị lãnh đạo là tai họa cho Đảng, là điều kiện cho họ càng hại nước, hại dân nhiều hơn.

Đến nay, công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng đã và đang được thực hiện tích cực, trách nhiệm, bảo đảm tiến độ ở đảng bộ các cấp, cả về nội dung các báo cáo và công tác nhân sự. Đặc biệt, ngày 14-6-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35-CT/TW về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng (Chỉ thị 35). Đây là văn bản hết sức quan trọng, định hướng rõ những quan điểm, nguyên tắc, mục tiêu, yêu cầu và những nội dung cơ bản chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp để các cấp ủy, tổ chức đảng quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện ở cấp mình; bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong toàn hệ thống chính trị.

 Chỉ thị 35 đặt ra 7 yêu cầu đối với công tác chuẩn bị và tiến hành đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, trong đó bổ sung mới 1 yêu cầu nêu rõ chỉ đạo của Bộ Chính trị cần tiếp tục chấn chỉnh, đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự. Theo đó, công tác nhân sự cần bảo đảm tính kế thừa, ổn định, đổi mới, sáng tạo và phát triển; bảo đảm sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, cấp ủy các cấp, đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu theo quy định; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất cao, thận trọng từng bước, làm đến đâu chắc đến đó; cần có cơ chế, tiêu chí sàng lọc hiệu quả để không bỏ sót những người thật sự có đức, có tài. Quá trình thực hiện phải nắm vững nguyên tắc, đúng quy trình, phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong công tác lựa chọn, giới thiệu và bầu cấp ủy các cấp. Cấp ủy nhiệm kỳ 2025-2030 phải đặc biệt coi trọng chất lượng, có số lượng và cơ cấu hợp lý; tiêu biểu về trí tuệ, phẩm chất, uy tín, thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong tình hình mới, thực hiện thắng lợi nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp và Nghị quyết Đại hội XIV của Đảng.

Cụ thể về tiêu chuẩn cấp ủy viên nhiệm kỳ 2025-2030, Chỉ thị 35 và Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng nhấn mạnh: Một là, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân; kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Hai là, có phẩm chất đạo đức, lối sống gương mẫu, trong sáng; thực hiện nghiêm quy định của Đảng, nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có ý thức tổ chức kỷ luật và tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, giữ gìn sự đoàn kết nội bộ; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; kê khai tài sản, thu nhập trung thực, minh bạch; không cơ hội, tham vọng quyền lực, cục bộ, bè phái, tham nhũng, tiêu cực, “lợi ích nhóm”... Không để vợ hoặc chồng, con, người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi. Ba là, có năng lực cụ thể hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có tư duy đổi mới, tầm nhìn, phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả; nói đi đôi với làm, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có thành tích, kết quả công tác và “sản phẩm” cụ thể trong địa bàn, lĩnh vực công tác được giao.

Công tác chuẩn bị cho đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng đang được tiến hành một cách khẩn trương nhưng cũng rất chặt chẽ, chu đáo, công phu, bài bản, đúng nguyên tắc, quy trình, thủ tục... được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm, đánh giá cao. Trong đó, thực hiện nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác nhân sự đại hội và quản lý đội ngũ cán bộ... Việc chủ động nhận diện, đấu tranh phòng, chống âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch về công tác nhân sự trước thềm đại hội đảng các cấp là yêu cầu khách quan, là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần vào sự thành công của đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng.

TÍNH KHOA HỌC, TÍNH CÁCH MẠNG LÀM NÊN GIÁ TRỊ CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ

Có thể nói, C.Mác là người đầu tiên trong lịch sử triết học phát hiện ra quy luật cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử loài người. V.I.Lênin khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”.

Khi nói về giá trị, tính khoa học và bản chất cách mạng của học thuyết Mác, V.I.Lênin đã khẳng định rằng, toàn bộ giá trị của học thuyết Mác là ở chỗ, lý luận đó về bản chất là một lý luận có tính chất phê phán và cách mạng. Bất cứ sự quan tâm nào về xã hội, lịch sử đều có thể tìm thấy trong học thuyết Mác những cơ sở khoa học cho lời giải đáp.

Bằng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã thực hiện sự phân kỳ lịch sử qua những giai đoạn phát triển khác nhau với những đặc trưng cơ bản, thể hiện tính gián đoạn trong sự bao hàm, sự thay thế nhau một cách tất yếu, hợp quy luật các giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người.

Mục đích của quan niệm duy vật về lịch sử là chứng minh tính tất yếu ra đời của chủ nghĩa cộng sản. Với nhãn quan của một nhà triết học, chính trị với tinh thần nhân đạo, yêu thương con người và yêu tự do vô hạn, ngay trong những tác phẩm đầu tiên khi xây dựng chủ nghĩa Mác, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã đưa ra tư tưởng về xây dựng một thế giới cho sự phát triển của mỗi cá nhân, mỗi quốc gia, dân tộc và toàn thế giới.

Thông qua sự phân tích tất yếu kinh tế, C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã làm rõ cơ sở thực sự của các chế độ xã hội, thể chế chính trị và tính chất bất công về mặt xã hội nảy sinh từ tất yếu kinh tế và những phương thức để giải quyết các mâu thuẫn xã hội, thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ của lịch sử.

 

Sinh viên tình nguyện nhập ngũ

 Trò chuyện với các đồng chí chỉ huy thuộc Ban CHQS TP Hưng Yên (Bộ CHQS tỉnh Hưng Yên), chúng tôi được nghe kể về câu chuyện của thanh niên Đào Văn Quỳnh, sinh năm 2003, trú tại xã Phú Cường.

Dựng chuyện, xuyên tạc - câu chuyện "bình cũ rượu mới"

Đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 sẽ được tổ chức trong năm 2025. Đây là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước, là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Chuẩn bị tốt nhất về mọi mặt là yếu tố, tiền đề hết sức quan trọng để tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng (dự kiến được tổ chức vào tháng 1-2026). 

Trước thềm đại hội đảng các cấp, sự chống phá của các thế lực thù địch càng quyết liệt. Chúng tập trung xuyên tạc về mục tiêu, lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về sự lãnh đạo của Đảng và đặc biệt là về công tác nhân sự đại hội... Đây sẽ là “điểm mấu chốt” để các thế lực thù địch, phần tử phản động câu kết chống phá trên nhiều lĩnh vực, nhất là trên không gian mạng. Chúng triệt để lợi dụng những vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội để xuyên tạc, bóp méo nhằm công kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gieo rắc tâm lý hoang mang, nghi ngờ trong một bộ phận quần chúng nhân dân, tập trung ở những nơi từng gây ra mất an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Tất cả sự chống phá nêu trên đều nhằm tới mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín cán bộ, nhất là cán bộ có khả năng là ứng viên cho cấp ủy khóa mới của các cấp; hạ thấp uy tín và thành quả cách mạng của Đảng và Nhà nước Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguy hại hơn là đã có không ít cán bộ, người dân tin vào những thông tin và luận điệu xuyên tạc ấy.


Trên internet, mạng xã hội và một số diễn đàn, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội cố tình đưa nhiều thông tin sai lệch, xuyên tạc về đại hội đảng bộ các cấp và Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là tuyên truyền xuyên tạc về công tác chuẩn bị đại hội. Các phần tử xấu tiếp tục dựng chuyện và quy chụp rằng “việc chuẩn bị đại hội như là hoạt động thay cho đại hội, xóa bỏ quyền của các đại biểu dự đại hội”; rằng công tác quy hoạch và đào tạo cán bộ cốt cán cho Đại hội XIV là Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã “tước đi quyền tự do, dân chủ trong việc ứng cử, đề cử và bầu cử của các đại biểu dự Đại hội XIV”. Đặc biệt, về vấn đề nhân sự, họ tự dựng lên danh sách lãnh đạo cấp cao... Họ tung hô, ngụy tạo rằng, đại biểu dự Đại hội XIV của Đảng chỉ còn việc “giơ tay biểu quyết” đồng ý mà không thể có ý kiến gì khác...

PHẢN BÁC QUAN ĐIỂM “VIỆT NAM THAM GIA CUNG ỨNG SẢN PHẨM QUỐC PHÒNG LÀ TRÁI VỚI CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG HÒA BÌNH, TỰ VỆ”

Xây dựng Quân đội hiện đại không thể không hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 xác định: “Phấn đấu đến năm 2030, công nghiệp quốc phòng sẽ có sức cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu”. Đây là chủ trương có tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta trong tự chủ, hiện đại hóa nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch xuyên tạc Việt Nam “cung ứng, xuất khẩu sản phẩm quốc phòng ra thế giới là trái với chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam”. Luận điệu này là vô căn cứ, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn nên cần phải phản bác.

Các thế lực thù địch xuyên tạc nhằm chống phá mục đích phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam

Đảng, Nhà nước Việt Nam định hướng xây dựng, hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng là chủ trương đúng đắn có tầm nhìn chiến lược trong bối cảnh diễn biến phức tạp của tình hình khu vực, thế giới đang đe dọa tiềm tàng đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Một trong những mục tiêu có tính đột phá trong phát triển công nghiệp quốc phòng được công bố trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 là phấn đấu đến năm 2030, các sản phẩm được sản xuất từ nền công nghiệp quốc phòng nội địa sẽ tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu (tức là xuất khẩu sản phẩm quốc phòng). Đây là mục tiêu có tính đột phá, đặt ra yêu cầu rất cao phải xây dựng được nền công nghiệp quốc phòng tự chủ, tự cường, hiện đại, có sức cạnh tranh quốc tế. Đây là chủ trương đúng đắn, nhưng bị các thế lực thù địch xuyên tạc, bóp méo. Các đối tượng chống phá cho rằng, Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu về sản phẩm công nghiệp quốc phòng là “buôn bán vũ khí để kiếm lời, bán vũ khí là gián tiếp gây chiến tranh, xung đột, bất ổn”, “nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam cũng chẳng khác gì bản chất của chủ nghĩa tư bản, trái ngược với bản chất của nền quốc phòng hòa bình, tự vệ”. Đây là luận điệu không đúng sự thật, cố tình chống phá bản chất, mục đích phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam.

Việt Nam tham gia cung ứng sản phẩm quốc phòng chỉ vì mục đích hòa bình, tự vệ

Cần khẳng định rằng, Việt Nam tham gia cung ứng, xuất khẩu sản phẩm quốc phòng không trái ngược với tính chất của nền quốc phòng hòa bình, tự vệ Việt Nam đã công bố với thế giới. Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau đây:

Một là, tính chất của nền quốc phòng Việt Nam là hòa bình, tự vệ, do đó chủ trương tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu về sản phẩm quốc phòng không nằm ngoài mục đích hòa bình, tự vệ. Việt Nam công bố công khai với thế giới chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ với mục đích thực hiện quyền tự vệ quốc gia chính đáng. Đây là định hướng căn bản, xuyên suốt trong toàn bộ quá trình tổ chức, hoạt động quốc phòng từ xây dựng, hiện đại hóa Quân đội đến xây dựng, hiện đại hóa các mặt, các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực công nghiệp quốc phòng. Điều đó cũng có nghĩa là mục đích, tính chất của nền quốc phòng Việt Nam chi phối xuyên suốt mục đích xây dựng, hiện đại hóa nền công nghiệp quốc phòng. Theo đó, nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam được xây dựng tự chủ, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng để sản xuất các loại vũ khí, trang bị hiện đại vừa phục vụ mục đích xây dựng Quân đội hiện đại, đủ sức tự chủ với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đồng thời cũng có khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng giá trị toàn cầu để đóng góp xây dựng nền hòa bình thế giới dưới góc độ gia tăng khả năng tự vệ chính đáng của các quốc gia đối tác.

Hai là, xuất khẩu sản phẩm quốc phòng luôn tuân thủ công ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên. Việt Nam tham gia xuất khẩu sản phẩm quốc phòng luôn tuân thủ các nguyên tắc theo công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc tuân thủ các thỏa thuận hợp tác song phương, đa phương trong lĩnh vực quốc phòng dựa trên các điều ước quốc tế là nguyên tắc bắt buộc để bảo đảm trật tự thế giới, tránh việc tùy tiện trong trao đổi, mua bán vũ khí, trang bị quân sự vì mục đích chạy đua vũ trang, gây chiến tranh, xung đột, kích động mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo, đe dọa sự ổn định và hòa bình thế giới.

Ba là, đối tác để Việt Nam có thể xuất khẩu sản phẩm quốc phòng phải là quốc gia hợp pháp được quốc tế công nhận và là thành viên của Liên hợp quốc có nhu cầu tự vệ chính đáng, phù hợp với chính sách quốc phòng Việt Nam. Theo đó, nếu các đối tác là quốc gia hợp pháp nhưng mục đích sử dụng vũ khí, trang bị được cung ứng từ Việt Nam không được cam kết rõ ràng; hoặc các đối tác không phải là quốc gia hợp pháp được công nhận theo công ước quốc tế; các tổ chức khủng bố; các tổ chức ly khai... không phải là đối tác để Việt Nam cung ứng các sản phẩm quốc phòng. Chỉ các quốc gia hợp pháp được công nhận theo công ước quốc tế, có cam kết sử dụng vũ khí, trang bị vì mục đích hòa bình, tự vệ, mục đích sử dụng đó cũng không nhằm vào bất kể quốc gia thứ ba nào mới là đối tác để Việt Nam cung ứng các sản phẩm quốc phòng theo thỏa thuận.

Bốn là, mục đích sử dụng sản phẩm quốc phòng sản xuất từ Việt Nam là thực hiện quyền tự vệ quốc gia chính đáng. Đối tác mua vũ khí, trang bị hoặc chuyển giao công nghệ sản xuất của nền công nghiệp quốc phòng Việt Nam phải được thẩm định chặt chẽ về tính pháp lý, nhu cầu, mục đích sử dụng. Theo đó, vũ khí, trang bị là sản phẩm quốc phòng Việt Nam sẽ được xuất khẩu cho đối tác sử dụng với mục đích thực hiện quyền tự vệ chính đáng khi bị đe dọa, bị xâm phạm, bị tấn công xâm lược. Quốc gia đối tác với tư cách là người sử dụng cuối cùng sản phẩm vũ khí, trang bị từ Việt Nam phải có các điều khoản cam kết chặt chẽ, rõ ràng về mục đích sử dụng. Việc sử dụng chỉ với mục đích duy nhất là tự vệ, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia đối tác mà không nhằm gây chiến tranh, xung đột với quốc gia khác, không nhằm vào hoặc đe dọa bất kỳ quốc gia nào.

Năm là, chủng loại vũ khí, trang bị Việt Nam xuất khẩu là các loại có khả năng phòng thủ. Cũng giống như chính sách mua sắm vũ khí, trang bị trong nước, để phù hợp với khả năng hòa bình, tự vệ, Việt Nam chỉ chủ trương mua các loại vũ khí, trang bị, phương tiện có tính năng phòng thủ phù hợp để tự vệ trước các hình thái chiến tranh xâm lược. Việt Nam không chủ trương mua sắm vũ khí tấn công chiến lược, không tham gia chạy đua vũ trang, thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ trong mua sắm vũ khí, trang bị. Việc tham gia chuỗi cung ứng sản phẩm quốc phòng Việt Nam cho các quốc gia đối tác cũng như vậy, sẽ cung ứng vũ khí, trang bị có tính năng phòng thủ, bảo vệ.

Xây dựng công nghiệp quốc phòng Việt Nam có đủ khả năng tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu

Trước hết, cần quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. Trên cơ sở đó tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức làm cho cán bộ, đảng viên, mọi tầng lớp nhân dân nhận thức rõ vị trí, vai trò, trách nhiệm trong xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Bên cạnh đó, cần làm tốt công tác truyền thông về ý nghĩa phát triển, hiện đại hóa công nghiệp quốc phòng, sự cần thiết tham gia hội nhập quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng nói chung, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu về sản phẩm quốc phòng nói riêng để tạo sự yên tâm, tin tưởng, ủng hộ, hợp tác của cộng đồng quốc tế, của các đối tác nước ngoài về chủ trương, chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam.

Vấn đề có ý nghĩa then chốt là xây dựng đội ngũ cán bộ, chuyên gia có trình độ chuyên sâu về nghiên cứu, thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị, đồng thời có khả năng, nghiệp vụ, trình độ pháp lý, ngoại ngữ để đàm phán, thẩm định đối tác trong lĩnh vực mua bán, chuyển giao công nghệ, sản phẩm quốc phòng. Đó là cơ sở nền tảng vững chắc để thực hiện đúng định hướng chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ trong tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu về sản phẩm quốc phòng. Do vậy cần thúc đẩy, nâng cao chất lượng đào tạo các lĩnh vực chuyên sâu về nghiên cứu, thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị trong nước, đồng thời đẩy mạnh hợp tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia khoa học quân sự, chuyên gia pháp lý trong lĩnh vực chuyển giao công nghệ vũ khí, trang bị với các đối tác nước ngoài, nhất là các đối tác chiến lược toàn diện, các đối tác có nền công nghiệp quốc phòng tiên tiến, hiện đại.

Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển đổi số trong sản xuất quốc phòng để nghiên cứu, sản xuất sản phẩm công nghiệp quốc phòng phù hợp với từng đối tác, từng thị trường trong khuôn khổ các nội dung hợp tác quốc tế. Trước sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ và chuyển đổi nền kinh tế số, công nghiệp quốc phòng muốn đạt trình độ hiện đại, đủ sức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu thì không thể nằm ngoài xu thế đó. Việc thay đổi tư duy, cách tiếp cận các dạng thức sản xuất, kinh doanh, thương mại trên nền tảng hạ tầng kinh tế số là một tất yếu. Theo đó, nền công nghiệp quốc phòng phải từng bước cập nhật, ứng dụng nhanh thành tựu Cách mạng công nghiệp lần thứ tư theo hướng tập trung, chuyên môn hóa, đồng bộ hóa, kết nối hóa để nghiên cứu, thiết kế, sản xuất sản phẩm vũ khí, trang bị mới.

Trong thời gian tới, các thế lực thù địch sẽ tiếp tục đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá vấn đề tham gia chuỗi giá trị toàn cầu của sản phẩm công nghiệp quốc phòng Việt Nam. Âm mưu của chúng là tìm cách gây nhiễu loạn thông tin, xuyên tạc sự thật để gây áp lực ngăn cản Việt Nam tham gia thị trường thế giới. Do đó, cần tiếp tục phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng; phát huy vai trò của các cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà nghiên cứu và các cơ quan báo chí truyền thông để đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, xuyên tạc của thế lực thù địch. Cùng với đó, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân đồng thuận, ủng hộ chủ trương, chính sách phát triển công nghiệp quốc phòng Việt Nam; đồng thời củng cố niềm tin của bạn bè quốc tế đối với chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam.


Xây "thế trận lòng dân" bằng công tác dân vận

 Hưởng ứng Tháng dân vận của huyện Đoan Hùng (Phú Thọ), mới đây, Trung đoàn 98 (Sư đoàn 316, Quân khu 2) đã huy động 1.800 ngày công của cán bộ, chiến sĩ thực hiện chuỗi các hoạt động dân vận, giúp địa phương đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới.

Gìn giữ bản sắc văn hóa, lan tỏa giá trị cốt lõi

Vậy cần làm gì để giữ vững bản sắc văn hóa trong dòng chảy toàn cầu hóa? PGS, TS Bùi Hoài Sơn cho rằng: Trước hết, điều căn bản là xác định rõ giá trị cốt lõi của văn hóa dân tộc. Chúng ta cần hiểu sâu sắc về lịch sử, phong tục, tập quán, triết lý sống và những giá trị truyền thống đã được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Đây là nền tảng không thể thay thế, là căn cốt của bản sắc dân tộc.

Sáng tạo không có nghĩa là thay đổi bản chất của văn hóa, mà là tìm kiếm những cách thức mới để biểu đạt và truyền tải những giá trị ấy. Việc biến văn hóa thành một "tài sản" không chỉ giúp bảo tồn mà còn phát triển và quảng bá văn hóa dân tộc ra thế giới. Hội nhập với thế giới là điều tất yếu, nhưng giữ gìn bản sắc văn hóa là nhiệm vụ quan trọng hơn bao giờ hết, để dân tộc ta luôn có một bản ngã riêng biệt, tự tin bước ra thế giới với một vị thế đáng tự hào.

PGS, TS Bùi Hoài Sơn nhấn mạnh: Để văn hóa thực sự là nền tảng cho sự phát triển bền vững, chúng ta cần hành động quyết liệt và đồng bộ trên cả phương diện lý luận, thực tiễn và đầu tư. Về lý luận, trước tiên, chúng ta cần xây dựng một hệ thống lý luận về phát triển văn hóa hiện đại nhưng vẫn giữ được tính bản sắc dân tộc. Bên cạnh đó, việc xây dựng và phát triển lý thuyết liên ngành là cực kỳ quan trọng. Văn hóa không thể tách rời với kinh tế, chính trị hay môi trường. Ngoài ra, làm tốt công tác phối hợp giữa văn hóa và các lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, an ninh. Mối quan hệ này cần được xử lý trên tinh thần kết nối và tương hỗ lẫn nhau. Điều này có thể nhìn từ cách thức phối hợp tổ chức, uy tín, thông điệp tích cực của Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 vừa diễn ra cách đây ít ngày. Văn hóa đã len lỏi vào mọi lĩnh vực, và ngược lại trong mọi lĩnh vực đều có yếu tố văn hóa.

Về đầu tư, văn hóa cần được đầu tư xứng tầm cả về tài chính lẫn nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực văn hóa phải đóng vai trò then chốt trong việc xây dựng con người mới cho kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, bởi con người chính là chủ thể của mọi sự phát triển, đặc biệt trong một thế giới đầy biến động và cạnh tranh. Văn hóa giúp tạo ra những công dân có trách nhiệm, có lòng yêu nước và ý thức tự hào về bản sắc dân tộc; sống có đạo đức, lòng nhân ái và ý thức cộng đồng.

Những giá trị này không chỉ tạo nên một cá nhân hoàn thiện mà còn góp phần xây dựng một xã hội đoàn kết, bền vững và mạnh mẽ. Trong kỷ nguyên mới, khi công nghệ và toàn cầu hóa tác động mạnh mẽ, nền tảng văn hóa chính là yếu tố giúp con người giữ vững bản sắc, tránh bị cuốn theo những trào lưu hay ảnh hưởng tiêu cực từ bên ngoài. Đây là cái gốc để chiến thắng trước văn hóa ngoại lai, lai căng, xâm lăng văn hóa.

Đặc biệt, cần nhìn văn hóa như một yếu tố chiến lược trong việc nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế, biến văn hóa thành “sức mạnh mềm” để hội nhập một cách chủ động, tự tin đánh bại âm mưu, ý đồ của các thế lực muốn đồng hóa, xâm lăng văn hóa. Hành động quyết liệt từ sớm, từ xa, để đừng bao giờ "văn hóa bị lâm nguy" như lời cảnh tỉnh của đại văn hào Nga M.Gorki.

Vị thế Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế

 Là thành viên chính thức của Liên hợp quốc trong gần nửa thế kỷ qua, Việt Nam ngày càng được cộng đồng quốc tế tin tưởng, đánh giá cao bởi vai trò và những đóng góp tích cực, hiệu quả về nhiều vấn đề quan trọng, mang tính cấp bách toàn cầu. Nổi bật là các hoạt động gìn giữ, củng cố nền hòa bình thế giới cùng các sáng kiến phát triển bền vững, bảo vệ, thúc đẩy và nâng cao quyền con người… 

Ngày 24/12/2024, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước Liên hợp quốc về chống tội phạm mạng sau nhiều năm đàm phán giữa các nước thành viên nhằm xây dựng một khuôn khổ pháp lý đa phương toàn diện để đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này.

Tổng Thư ký Liên hợp quốc António Guterres đánh giá: “Công ước này là minh chứng cho thấy chủ nghĩa đa phương có thể thành công trong thời kỳ khó khăn và phản ánh ý chí chung của các quốc gia thành viên trong thúc đẩy hợp tác quốc tế để ngăn ngừa và chống lại tội phạm mạng”.

Đáng chú ý, việc thông qua văn bản luật quốc tế này đến từ những đóng góp tích cực của Việt Nam trên tư cách là một thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc. Điều đó được thể hiện bằng chính sự quan tâm và ủng hộ nhiệt thành của Việt Nam ngay tại thời điểm bắt đầu quá trình khởi động đàm phán Công ước.

Xuyên suốt tám kỳ họp của Ủy ban chuyên trách, Việt Nam luôn tham gia tích cực và có những đề xuất, sáng kiến thực chất cho nội dung Công ước. Do đó, chúng ta đã được cộng đồng quốc tế chấp thuận trở thành nước đăng cai lễ ký Công ước Liên hợp quốc về tội phạm mạng vào năm 2025, với tên gọi văn bản pháp lý này là Công ước Hà Nội.

Sự ra đời của Công ước Hà Nội đã khép lại một năm hoạt động thành công của Việt Nam tại Liên hợp quốc khi chúng ta ngày càng khẳng định năng lực, vai trò và trách nhiệm của mình đối với các vấn đề toàn cầu. Tại các cơ quan thuộc Liên hợp quốc mà Việt Nam đang đảm nhiệm nhiều trọng trách, chúng ta đã trở thành điểm sáng trong các công việc chung của tổ chức liên quốc gia lớn nhất hành tinh khi sẵn sàng hành động, đưa ra những ý kiến có trọng lượng góp phần duy trì hòa bình, ổn định khu vực và quốc tế, đấu tranh và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc.

Trên lĩnh vực quyền con người, Việt Nam tiếp tục ghi dấu ấn sắc nét trong năm 2024 với tinh thần tôn trọng và hiểu biết, đối thoại và hợp tác tất cả các quyền con người ở tám lĩnh vực ưu tiên.

Trên lĩnh vực quyền con người, Việt Nam tiếp tục ghi dấu ấn sắc nét trong năm 2024 với tinh thần tôn trọng và hiểu biết, đối thoại và hợp tác tất cả các quyền con người ở tám lĩnh vực ưu tiên bao gồm: Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng Nhân quyền gắn với đề cao luật pháp quốc tế; quyền con người trong bối cảnh biến đổi khí hậu; chống bạo lực và phân biệt đối xử, tăng cường bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương; thúc đẩy bình đẳng giới; quyền con người trong bối cảnh chuyển đổi số; quyền sức khỏe; quyền việc làm; quyền tiếp cận giáo dục chất lượng và giáo dục quyền con người.

Việt Nam đã tích cực đóng góp ý kiến tại nhiều phiên họp, thảo luận về bảo đảm các quyền cụ thể như quyền môi trường trong lành, bền vững; quyền lương thực; quyền văn hóa; quyền của người khuyết tật; quyền trẻ em... Ngày 25/3/2024, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua dự thảo nghị quyết do Việt Nam đề xuất lấy ngày 11/6 hằng năm làm Ngày Quốc tế Vui chơi.

Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã tích cực hoàn thành trách nhiệm thành viên Liên hợp quốc, trong đó đã tham gia nghiêm túc Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV. Đồng thời, Việt Nam tham gia hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người và luôn nhìn nhận con người là trung tâm của mọi chính sách phát triển. Nỗ lực không ngừng nghỉ của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Ngày 21/9/2024, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam có chuyến công tác tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai, Đại hội đồng Liên hợp quốc. Đánh giá về chuyến công tác này, Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 78 Dennis Francis nhận định: “Việc Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tham dự Tuần lễ Cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc năm nay là một sự kiện hết sức có ý nghĩa, thể hiện cam kết cao nhất về mặt chính trị vào một thời điểm quan trọng khi cộng đồng quốc tế đang quyết tâm thúc đẩy chủ nghĩa đa phương nhằm đối phó hàng loạt thách thức toàn cầu hiện nay”.

Kết quả đạt được trong quan hệ đối tác giữa Việt Nam và Liên hợp quốc trong năm 2024 đã đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố, nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Quan trọng hơn, mối quan hệ tốt đẹp này đang phát triển đúng hướng khi mục tiêu của Liên hợp quốc về hòa bình và quyền con người cũng chính là những khát vọng, mục tiêu mà Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam hướng tới.

Những thành tựu vượt bậc về kinh tế-xã hội của Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới cũng gắn liền với tiến bộ không ngừng trong công tác bảo đảm, bảo vệ và phát huy quyền con người, quyền công dân. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã liên tục tăng trong những thập kỷ qua đưa nước ta vào nhóm cao về HDI.

Việt Nam cũng là tấm gương sáng về giảm nghèo khi là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững vì luôn ưu tiên chính sách và nguồn lực để hỗ trợ, cải thiện chất lượng sống của các nhóm yếu thế trong xã hội.

Là một quốc gia đang phát triển, Việt Nam cũng đang tiếp tục phải đối mặt với hệ quả nặng nề kéo dài của dịch Covid-19 và biến đổi khí hậu, do đó việc đạt được những chỉ số giảm nghèo đa chiều và chỉ số HDI ở mức cao là thành tích đáng tự hào.

Bên cạnh đó, sự tương đồng trong tầm nhìn và định hướng phát triển của Liên hợp quốc và Việt Nam là chất xúc tác hữu ích để Việt Nam tự tin sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm, đóng góp tích cực hơn vào công việc chung của Liên hợp quốc và giải quyết các vấn đề lớn của thế giới, vì lợi ích hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển bền vững trên thế giới.

Mặc dù còn hạn chế về nguồn lực song tinh thần thiện chí, chủ động xây dựng, lắng nghe và chia sẻ quan điểm để hướng đến những lợi ích toàn cầu của Việt Nam đã luôn nhận được sự đồng tình, sẵn sàng hợp tác, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế.

Chính sự tín nhiệm này đã góp phần giúp Việt Nam đảm trách thành công cương vị thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 trong lần thứ 2 ứng cử, thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế (ILC) nhiệm kỳ 2023-2027, Hội đồng Chấp hành Cơ quan Liên hợp quốc về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ (UN Women) nhiệm kỳ 2025-2027 cùng nhiều vị trí quan trọng khác của các cơ quan Liên hợp quốc.

Đây cũng chính là tiền đề quan trọng để Việt Nam vững tin sẽ tiếp nối những đóng góp thực chất, cụ thể vào sự nghiệp chung của cộng đồng quốc tế mà minh chứng cụ thể là quyết định tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2026-2028.

Tại lễ công bố Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Thứ trưởng Ngoại giao Đỗ Hùng Việt đã đề nghị các nước tiếp tục ủng hộ Việt Nam với cam kết mạnh mẽ rằng, nếu trúng cử, Việt Nam sẽ tiếp tục tham gia một cách tích cực, xây dựng và có trách nhiệm, sẽ phấn đấu hết mình thúc đẩy thực hiện các mục tiêu chung của Hội đồng Nhân quyền, bảo đảm ngày càng tốt hơn việc thụ hưởng quyền con người của mọi người dân trên toàn thế giới.

Rõ ràng, vị thế và uy tín của Việt Nam tại Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế song phương, đa phương là không thể phủ nhận.

Rõ ràng, vị thế và uy tín của Việt Nam tại Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế song phương, đa phương là không thể phủ nhận. Bởi kết quả này đã được gây dựng từ chính sức mạnh nội sinh của quốc gia kết hợp với tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng vì lợi ích chung của nhân loại. Thế nhưng, các thế lực thù địch với dã tâm chống phá Việt Nam vẫn cố tình đưa ra những luận điệu sai sự thật nhằm phủ nhận vai trò và tầm ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới.

Thời gian qua, ngay sau khi Việt Nam chính thức tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền, một số cá nhân, tổ chức phản động, thiếu thiện chí đã ra sức tìm mọi cách vu cáo, công kích, bôi nhọ Việt Nam; qua đó hòng gây sức ép lên các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc nhằm mục đích cô lập Việt Nam với thế giới.

Những đối tượng, tổ chức này thường xuyên đưa ra những cáo buộc vô căn cứ và đòi hỏi phi lý như đòi Việt Nam trả tự do cho tất cả phạm nhân mà họ tự gọi là “tù nhân lương tâm”, trong khi thực chất đây là những cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, đã bị xử lý công khai, nghiêm minh theo các quy định pháp luật hiện hành. Thủ đoạn của những hội, nhóm chống phá này không mới và đã bị chính những thành tựu nổi bật trên lĩnh vực quyền con người của Việt Nam trực tiếp bác bỏ.

Đáng tiếc do mang sẵn định kiến và không nắm được bản chất của các vấn đề, sự việc liên quan tình hình nhân quyền Việt Nam, một vài tổ chức quốc tế đã có phát ngôn, hành vi cổ súy nhằm lan truyền thông tin thất thiệt, sai sự thật gây ảnh hưởng xấu, tiêu cực lên vị thế và uy tín của Việt Nam tại một số diễn đàn quốc tế.

Trong năm 2025, Việt Nam vẫn kiên định với các mục tiêu, nhiệm vụ đã cam kết với Liên hợp quốc mà trọng tâm là phát huy những kết quả đạt được trong hai năm đảm đương vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền; tổ chức thành công lễ ký Công ước Hà Nội về tội phạm mạng; tham gia các hoạt động nâng cao nhận thức về hòa bình và an ninh; thúc đẩy quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên cơ sở tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc.

Việc hoàn thành những mục tiêu này sẽ là những minh chứng thuyết phục tiếp tục đập tan âm mưu của thế lực thù địch và các cá nhân, tổ chức không thiện chí đang mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, ngăn cản Việt Nam ứng cử, tham gia vào các vị trí trọng yếu của Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế.

Đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng nhưng với những thành tựu đã đạt được cùng sự quyết tâm, nỗ lực vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân, chúng ta hoàn toàn đủ cơ sở để tin rằng, chắc chắn Việt Nam sẽ đảm trách tốt vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền và nhiều cơ quan, tổ chức khác trực thuộc Liên hợp quốc trong nhiệm kỳ tới.

 

Văn hóa cần được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển

Muốn đánh bại các thủ đoạn nô dịch, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch thì văn hóa phải thực sự đóng vai trò trong việc định hình các chuẩn mực xã hội, tạo ra tinh thần đồng thuận, nuôi dưỡng những giá trị cốt lõi như lòng nhân ái, tinh thần sáng tạo và ý thức cộng đồng. Một quốc gia có nền văn hóa vững chắc là một quốc gia có khả năng vượt qua mọi thử thách, duy trì sự ổn định và đồng lòng để tiến bước.

Văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, cần được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển trong kỷ nguyên mới. Đó không chỉ là một khía cạnh phụ trợ cho kinh tế hay xã hội mà là yếu tố cốt lõi định hình bản sắc, tạo dựng giá trị và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Nếu coi kinh tế là xương sống thì văn hóa chính là linh hồn, là nguồn năng lượng tinh thần giúp xã hội phát triển hài hòa, toàn diện. Văn hóa phải thực sự là ánh sáng “soi đường cho quốc dân đi”. Văn hóa là sức mạnh vô hình nhưng bền vững, là nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội thịnh vượng cả về vật chất lẫn tinh thần.

Vậy phải làm gì để bản sắc văn hóa của dân tộc không bị mai một, hòa tan, trộn lẫn vào các dòng văn hóa khác của các nước hay các trào lưu mới trên thế giới, khi chúng ta hội nhập với thế giới ngày càng sâu hơn? TS Nguyễn Ánh Hồng, nguyên Trưởng khoa Văn hóa và Phát triển, Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho rằng: “Để ngăn chặn tình trạng xâm lăng văn hóa, đặc biệt trên mạng xã hội thì chúng ta phải trang bị cho cộng đồng và trước hết là các bạn trẻ những hiểu biết về văn hóa giao tiếp, ứng xử trên mạng xã hội. Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội phải được trang bị và đưa vào trong chương trình giáo dục. Tôi nhấn mạnh rằng, nếu các bạn trẻ tăng cường hiểu biết những giá trị của văn hóa truyền thống, hiểu biết được hệ giá trị trong tâm thức của văn hóa Việt Nam và luôn có lòng tự hào, tự tôn dân tộc, có ý thức và có trách nhiệm để bảo vệ các giá trị văn hóa đó, họ sẽ có sức đề kháng trước những tác động của văn hóa ngoại lai”.

Đánh giá cao phương án phải giáo dục cho thế hệ trẻ từ sớm, PGS, TS Bùi Hoài Sơn cũng nhấn mạnh: Giáo dục văn hóa cần phải trở thành trọng tâm. Bắt đầu từ gia đình, trường học cho đến cộng đồng. Giáo dục văn hóa không chỉ là việc truyền dạy lý thuyết mà còn là sự trải nghiệm thực tế thông qua các hoạt động nghệ thuật, lễ hội, phong tục, tập quán. Khi văn hóa trở thành một phần tự nhiên trong đời sống hằng ngày, nó sẽ không bị lãng quên hay pha loãng.