Thứ Bảy, 2 tháng 12, 2023

PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ NGUYÊN TẮC TẬP TRUNG DÂN CHỦ!

         Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản, đặc biệt quan trọng trong tổ chức và hoạt động của Đảng ta. Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm cách xuyên tạc, bóp méo nguyên tắc này. Trước những luận điệu sai trái, chống phá đó, chúng ta cần phải đấu tranh để bảo vệ tính đúng đắn, khoa học của nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng!

Luận điệu sai trái
Các lực lượng thù địch, phản động, những phần tử cơ hội chính trị đã tìm mọi cách suy diễn, bôi đen, bóp méo nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng ta. Nội dung chống phá của chúng tập trung vào các điểm sau:
Thứ nhất, họ cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ cho đến thời điểm hiện tại đã lỗi thời, phản tác dụng. Nguyên tắc này chỉ phù hợp với Đảng khi đang trong thời kỳ chiến tranh, chưa giành được chính quyền hoặc phải hoạt động bí mật. Còn hòa bình rồi, khi Đảng đã cầm quyền, nhân dân làm chủ thì phải phát huy tính năng động, sáng tạo của các đảng viên, tạo mọi điều kiện cho đảng viên tự chủ, tự quyết, thực hiện tập trung dân chủ lúc này sẽ kìm hãm sự phát triển cá nhân, gây cản trở hiệu quả hoạt động của Đảng.

Thứ hai, những luận điệu sai trái lập luận rằng, không thể có “dân chủ” khi tiến hành “tập trung”, và cũng không cần thực hiện “tập trung” nếu như đã có “dân chủ”. Họ cho đây là các mặt đối lập: tập trung sẽ tất yếu dẫn đến thu hẹp, triệt tiêu dân chủ và nếu muốn thực hiện dân chủ, trước hết phải từ bỏ tập trung; hai mặt này không thể cùng tiến hành song song, đồng thời (!?).

Thứ ba, nhiều quan điểm khác cũng xuyên tạc rằng, tập trung dân chủ là nguyên tắc do Đảng Cộng sản đặt ra để từ việc thực hiện trong Đảng sẽ là bàn đạp thuận lợi lấn sân sang tổ chức quản lý Nhà nước cũng như quản lý, điều hành kinh tế và mọi mặt xã hội; từ đó, sẽ thiết lập chế độ đảng độc tài cai trị mọi thứ dễ dàng. Do đó, nguyên tắc này theo họ, thực chất chính là bức bình phong để che đậy bản chất muốn tiếm quyền đoạt lợi của Đảng Cộng sản (!?).

Nói chung, có nhiều luận điệu xuyên tạc, suy diễn khác nhau về nguyên tắc tập trung dân chủ. Song, dù với lập luận như thế nào thì mưu đồ cuối cùng của các thế lực thù địch đều hòng xóa bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng, tiến tới phủ nhận, hạ bệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tính khoa học của nguyên tắc tập trung dân chủ
Trước tiên và trên hết, bất kỳ một đảng chính trị nào muốn tồn tại và phát triển cũng cần phải có hệ tư tưởng, mục tiêu và vận hành trên những tôn chỉ, nguyên tắc nhất định, nếu không có những quy tắc, quy định cho cấu trúc bộ máy và cách thức hoạt động sẽ là một đảng phái vô kỷ luật, vô tổ chức, sẽ sớm đi đến giải thể, tan rã.

Với luận điệu cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ cho đến thời điểm hiện tại đã không còn tác dụng thì có thể thấy ngay đây là nhận định rất chủ quan, ấu trĩ. Bởi đã là xương cốt, nền tảng cho tổ chức và hoạt động của Đảng, thì dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, tập trung dân chủ vẫn luôn cần thiết. Trong chiến tranh cách mạng, nhất là trong điều kiện phải hoạt động bí mật, tập trung dân chủ là để bảo đảm kỷ luật chặt chẽ của tổ chức, sự đoàn kết thống nhất và sự phục tùng tuyệt đối của đảng viên, bảo đảm sự trung thành và bí mật an toàn cho Đảng. Còn khi đã hòa bình, lúc Đảng đã cầm quyền, tập trung dân chủ lại là nguyên tắc để nâng cao hiệu quả hoạt động của Đảng đồng thời cũng là nguyên tắc có tính quyết định, gắn với sự tồn vong của Đảng trong bối cảnh mới. Trong mọi hoàn cảnh, Đảng phải đề cao thực hiện nguyên tắc này, bởi nếu chủ quan, coi nhẹ tập trung thống nhất, thực hiện dân chủ hình thức sẽ là điều kiện thuận lợi cho những phần tử cơ hội, các thế lực phản động, thù địch công kích, phá hoại, làm cho Đảng đi chệnh hướng, bị tan rã. Lịch sử đã chứng minh, sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu năm 1989 và Liên Xô năm 1991 bên cạnh các nguyên nhân khách quan thì lý do chủ quan chính là sự sai lầm của Đảng Cộng sản khi đã từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ. Vì vậy bài học đắt giá này đã được Đảng ta đặc biệt khắc cốt ghi tâm, luôn nêu cao lập trường giữ vững nguyên tắc căn cốt này của Đảng.

Đối với lập luận cho rằng tập trung và dân chủ là hai mặt đối lập, không thể thực hiện thì có thể khẳng định ngay suy diễn này rất phiến diện và mơ hồ. Bởi tập trung và dân chủ tuy đều có ý nghĩa riêng nhưng giữa chúng lại có quan hệ biện chứng chặt chẽ, phản ánh đầy đủ hai mặt của vấn đề chứ không hề có sự mâu thuẫn. Tính biện chứng và bản chất khoa học của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: Đảng ta là một chỉnh thể được tổ chức ở tất cả các cơ quan, đơn vị từ Trung ương tới cơ sở. Với mạng lưới rộng lớn và đa dạng như vậy, tập trung là yêu cầu cần thiết để toàn thể đảng viên thống nhất về ý chí, tư tưởng nhận thức và hành động, tạo nên sự đoàn kết, nhất trí, đồng thuận cao của nội bộ Đảng từ dưới lên trên, từ trên xuống dưới. Nhưng tập trung ở đây không phải là tập trung mệnh lệnh, gia trưởng độc đoán dẫn đến những quyết định sai lầm hoặc hậu quả tai hại mà là tập trung được thực hiện trên cơ sở của dân chủ. Tức là thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, các đảng viên được bày tỏ quan điểm, suy nghĩ, đóng góp ý kiến, qua đó phát huy được trí tuệ của tập thể, tránh được chuyên quyền, độc đoán, áp đặt. Và ngược lại, dân chủ phải trên cơ sở bảo đảm tập trung nếu không sẽ đi tới dân chủ quá trớn, sẽ làm cho tổ chức đảng rơi vào tình trạng lộn xộn, tùy ý, tự tiện, vô kỷ luật. Như thế, nguyên tắc tập trung dân chủ này không chỉ phát huy được tính chủ quan, năng động, sáng tạo của mỗi cá nhân đảng viên mà còn bảo đảm kỷ luật, tạo được sự đồng thuận, thống nhất và quy tụ được sức mạnh của toàn Đảng.

Riêng với luận điệu cho rằng tập trung dân chủ là biện pháp để giúp cho Đảng độc tài cai trị mọi thứ dễ dàng thì cần phải nhận thấy rõ hai điểm:
Một là, bản chất, mục tiêu lý tưởng của Đảng mới là mấu chốt quan trọng để lập luận xem Đảng có lợi ích gì để mà ra sức bảo vệ lợi ích đó. Đảng Cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc; là đảng mà đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta là một đảng cách mạng, ngoài lợi ích của công nhân và nông dân, Đảng ta không có lợi ích nào khác”[1]. Rõ ràng một đảng không có lợi ích tư thân tư lợi, chỉ có sứ mệnh mục tiêu làm cho dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, văn minh thì lợi ích của Đảng cũng đồng thời là lợi ích của toàn thể dân tộc. Đảng lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội cũng chỉ để phụng sự Nhân dân, mưu cầu mục tiêu làm cho Nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Do đó kể cả khi thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ này trong quản lý Nhà nước, xã hội thì cũng không phải là sự lấn sân để chiếm quyền đoạt lợi, mà nó càng cho thấy sự nhất quán, đồng thuận trong tổ chức thực hiện và thể hiện rõ mục đích cao cả, bản chất đạo đức,văn minh của Đảng rõ hơn mà thôi.

Hai là, không thể tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết, yếu kém của đảng viên dẫn tới xảy ra các sai lầm, vi phạm. Bởi suy cho cùng, Đảng là tổ chức được hình thành từ nhiều cá nhân khác nhau. Tuy cùng là đảng viên của Đảng, cùng có tôn chỉ, mục đích, lý tưởng hành động nhưng đã là con người với tư cách là những cá thể độc lập thì trong chừng mực nhất định, với bản chất, tính cách khác biệt, với năng lực, nhận thức, phẩm chất và hoàn cảnh cá nhân khác nhau thì sẽ có những suy nghĩ và hành động khác nhau. Trước những tác động ngoại cảnh, khách quan, trong điều kiện thế giới không ngừng vận động, có đảng viên đã có những dao động, đi sai quỹ đạo, làm trái nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng cũng là điều dễ hình dung. Song, những trường hợp này cũng chỉ là số ít, không thường xuyên bởi nếu như là sai phạm có tính hệ thống, toàn diện, thì đương nhiên Đảng không thể tồn tại cho đến bây giờ. Thêm vào đó, có một điều chắc chắn rằng, dù có không ít những cán bộ đảng viên đã vi phạm nguyên tắc, gây ra những hậu quả không mong muốn, nhưng điều đó không có nghĩa là Nhân dân mất niềm tin vào Đảng, quay lưng chối bỏ Đảng. Ngược lại, đại đa số Nhân dân Việt Nam hoàn toàn tin tưởng, tín nhiệm Đảng, đi theo ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chỉ một bộ phận nhỏ bất mãn, cơ hội chính trị, phản động, chống phá mới vin cớ, tìm mọi cách để bôi nhọ, đòi hạ bệ Đảng. Như vậy, không thể lấy cái thiểu số tiêu cực để khẳng định đó là tiếng nói đại diện cho của toàn thể Nhân dân Việt Nam mong xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng.

Hơn hết thảy, thực tiễn mới là thước đo chuẩn xác các nguyên tắc, quy chuẩn, lý luận đặt ra. Tính từ những năm 90 của thế kỷ XX, khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu tan rã, sụp đổ, và kể cả sự thoái trào của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong suốt thời gian qua thì cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn đứng vững và không ngừng lớn mạnh về số lượng lẫn chất lượng đảng viên. Đặc biệt, Đảng vẫn là nhân tố quy tụ sức mạnh, tinh thần đại đoàn kết của toàn dân tộc. Đảng thực hiện lãnh đạo Nhà nước, Nhân dân, xã hội và đạt được nhiều kết quả tích cực trong phát triển toàn diện kinh tế - xã hội. Những thành tựu đó đã từng bước định hình và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, được đông đảo cộng đồng và bạn bè quốc tế ghi nhận. Dấu ấn này đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng chắc chắn không thể phủ nhận vai trò tiên phong lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, việc tuân thủ các nguyên tắc nói chung và tập trung dân chủ nói riêng là yếu tố đã góp phần rất quan trọng trong việc bảo đảm sự tồn tại, siết chặt kỷ luật và tăng cường hiệu quả hoạt động của Đảng, đưa đến nhiều thành tựu phát triển của đất nước./.


[1]Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2011, tr.587.
Yêu nước ST.

ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ THEO DI CHÚC CỦA HỒ CHÍ MINH!

     Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề đoàn kết. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc về đoàn kết quốc tế là định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam luôn đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới!

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, những di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế vẫn còn nguyên tính thời sự, tính khoa học và thực tiễn; là sự đúc kết, trải nghiệm từ chính cuộc đời hoạt động cách mạng của Người.

 
Tư tưởng đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cả tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn; không chỉ trong nội bộ Đảng, trong bộ máy chính quyền, trong phạm vi một dân tộc, mà còn được thể hiện trên bình diện rộng lớn hơn, đó là đoàn kết quốc tế.

Quan điểm về đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xuyên suốt và nhất quán, bởi Người sớm nhận ra, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản muốn đi đến thắng lợi thì phải huy động và tập hợp được sức mạnh đoàn kết quốc tế. Trong hành trình tìm đường cứu nước, lý tưởng cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại ở giải phóng dân tộc mình, mà còn vì sự nghiệp giải phóng các dân tộc bị áp bức và nhân loại cần lao. Những lời di huấn của Người về tình đoàn kết quốc tế bắt nguồn từ tình yêu thương đối với con người. Và đoàn kết quốc tế cũng để nhằm mục tiêu giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

 
Từ tình cảm, lòng thương yêu và khát vọng giải phóng dân tộc mình, đất nước mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh thông cảm với nỗi thống khổ và số phận của nhân dân các thuộc địa. Xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn cao đẹp đó, Nguyễn Ái Quốc là một trong những người có công thành lập các tổ chức: “Liên minh các dân tộc thuộc địa”, “Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông”... Ngay từ khi tiếp cận với phong trào cách mạng thế giới, Người luôn đặt cách mạng Việt Nam trong mối quan hệ khăng khít với phong trào cách mạng thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, có một con người vĩ đại, đã gắn cách mạng của đất nước mình với cách mạng thế giới và thời đại, trên cơ sở nhận thức cách mạng Việt Nam là một bộ phận, có quan hệ mật thiết với cách mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc trên thế giới. Vì vậy, Người chủ trương thực hiện đoàn kết sâu sắc triệt để trên nguyên tắc bình đẳng dân tộc và hợp tác cùng có lợi. Đoàn kết và hợp tác quốc tế là tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và giúp đỡ quốc tế để làm tăng thêm khả năng tự lực, tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến lực lượng có lợi cho cách mạng trong nước.

 
Mở đầu Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn. Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam - Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta. Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa, và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta”.

 
Trong Di chúc cũng như trong suy nghĩ của Người, nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước bầu bạn thế giới luôn kết thành một khối. Thành quả của cách mạng là tổng hợp sức mạnh nội lực và sức mạnh của tình đoàn kết, tương trợ quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh, với dự cảm và tầm nhìn vượt thời đại, luôn tin tưởng chắc chắn sẽ đến ngày “Mỹ cút, ngụy nhào” và ngay từ khi viết Di chúc, Người đã bày tỏ sự ghi nhận và biết ơn những đóng góp to lớn, quý báu cả về tinh thần và vật chất của bạn bè quốc tế. Đó cũng là biểu hiện của truyền thống đoàn kết, thủy chung, trọng tình trọng nghĩa của dân tộc Việt Nam, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân cao đẹp nhất. Gần 60 năm hoạt động cách mạng, trong đó 30 năm hoạt động ở nước ngoài, liên tục tham gia phong trào cách mạng và đóng góp cho sự nghiệp chung của cách mạng thế giới, thông điệp về tình hữu nghị, đoàn kết quốc tế luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện một cách rõ ràng và vững chắc.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Cách mạng Việt Nam luôn luôn được sự đồng tình và ủng hộ của giai cấp công nhân và nhân dân cách mạng thế giới, nhất là của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Tình đoàn kết quốc tế vĩ đại ấy là một điều kiện rất quan trọng cho cách mạng Việt Nam thắng lợi”.

 
Cùng với niềm tin tưởng, kỳ vọng vào sức mạnh của tình đoàn kết quốc tế, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời bày tỏ những trăn trở, lo lắng về những bất hòa, mất đoàn kết trong nội bộ giữa các đảng anh em. Trong Di chúc, Người viết: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em”.

 
Với trọng trách người lãnh đạo đất nước, đã và đang gặt hái những thành công trên con đường tự giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong rằng, Đảng ta và toàn thể nhân dân Việt Nam cần nêu cao vai trò, nghĩa vụ quốc tế, đóng góp thiết thực cho phong trào cách mạng thế giới đi đến thắng lợi. Người viết trong Di chúc: “Tôi mong rằng, Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”. Những dòng cuối của Di chúc, Người tin tưởng và căn dặn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới".

Cảm phục tầm vóc trí tuệ và tâm hồn cao thượng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên báo Quyền lợi đỏ (Praha, Tiệp Khắc) ngày 9/9/1989, tác giả I Liu Sitlich có bài viết nhấn mạnh: Bác Hồ cùng với bản Di chúc của Người là thuộc về tất cả phong trào cộng sản, công nhân và cách mạng trên thế giới. Thân thế và sự nghiệp đã vượt ra ngoài phạm vi biên giới của Tổ quốc mình.

 
Đoàn kết quốc tế trở thành một chân lý, một phương châm hành động tất yếu phù hợp với quy luật và sự phát triển của cách mạng, sự tiếp nối của lịch sử. Cuộc cách mạng của nhân dân Việt Nam là cuộc đấu tranh chính nghĩa, do vậy được sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ yêu chuộng hòa bình thế giới, nhằm tăng cường nội lực và sức mạnh tổng hợp để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược. Về phần mình, nhân dân Việt Nam cũng có nghĩa vụ đóng góp vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới.

 
Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại đã hiến dâng cả cuộc đời cho đất nước, cho nhân dân và nhân loại tiến bộ. Tư tưởng đại đoàn kết là một trong những di sản quý báu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta. Những lời căn dặn của Người trong Di chúc “về phong trào cộng sản thế giới” là định hướng quan trọng cho quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, để Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm, đóng góp xứng đáng vào nền hòa bình, ổn định và phát triển của thế giới. Nghiên cứu, tìm hiểu và thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp chúng ta thêm thấm nhuần bài học về quan hệ quốc tế để có định hướng chiến lược đúng đắn, lâu dài cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng./.
Môi trường ST.

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 02 THÁNG 12 NĂM 1949!

     “Bộ đội phải kính trọng dân, giúp đỡ dân. Dân phải thương yêu bộ đội, ủng hộ bộ đội. Quân và dân phải luôn luôn đoàn kết nhất trí”!

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong thư “Gửi toàn thể cán bộ và chiến sĩ Đường số 4 cùng dân quân du kích và đồng bào trong miền Đường số 4”, đăng trên Báo Cứu quốc, số 1411, ra ngày 02/12/1949.

Là người trực tiếp tổ chức thành lập, giáo dục và rèn luyện quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng quân đội trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Trong đó, giữ gìn mối quan hệ đoàn kết quân dân luôn được Người quan tâm đặc biệt, thường xuyên nhắc nhở, rèn luyện cán bộ, chiến sĩ trong quân đội. Lời căn dặn của Bác ngắn gọn nhưng sâu sắc, là sự nhắc nhở ân cần về trách nhiệm, nghĩa vụ và tình cảm của quân đội đối với nhân dân. Thấm nhuần lời căn dặn của Hồ Chủ tịch, hơn 76 năm qua, những thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã kế tiếp chăm lo xây dựng, giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp, đoàn kết quân dân; gắn bó máu thịt với nhân dân, hết lòng thương yêu dân, quý trọng dân, giúp đỡ dân, bảo vệ dân; ngược lại, nhân dân cũng hết lòng yêu thương, đùm bọc, chăm sóc, giúp đỡ quân đội. Trong thời chiến cũng như trong thời bình, trong khó khăn cũng như hoạn nạn, mối quan hệ quân dân “cá - nước”, đoàn kết gắn bó keo sơn đó đã phát huy được sức mạnh hiệu quả của nó, làm cho tình đoàn kết giữa nhân dân và quân đội ngày càng thêm bền vững.

Hiện nay, trước sự tác động của tình hình thế giới, khu vực, trong nước, trước những tác động của điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, nhất là những tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế, cũng như sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch bằng chiến lược “diễn biến hòa bình” với những thủ đoạn, biện pháp hết sức thâm độc nhằm chia rẽ quân đội với nhân dân, làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong lòng nhân dân, tiến tới làm suy yếu, vô hiệu hóa sức mạnh chiến đấu của quân đội. Lời căn dặn của Bác vẫn giữ nguyên giá trị, góp phần quan trọng định hướng nhận thức, tư tưởng và hành động của mỗi cán bộ, chiến sĩ trong củng cố, tăng cường mối quan hệ đoàn kết với nhân dân.

Thực hiện tốt lời dạy của Bác, mỗi cán bộ, chiến sĩ quân đội phải luôn có ý thức sâu sắc về nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm đối với nhân dân; tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua rèn luyện phẩm chất cao đẹp “Bộ đội cụ Hồ” trong thời kỳ mới. Ra sức thực hiện lời dạy của Bác về “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan hệ chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền, nhân dân địa phương nơi đóng quân, tăng cường các hoạt động giao lưu, kết nghĩa giữa đơn vị quân đội với địa phương; tích cực giúp đỡ nhân dân phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào công cuộc xoá đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đời sống văn hóa mới; đặc biệt, luôn chủ động, dũng cảm, kịp thời giúp dân phòng, chống thiên tai, bão lũ, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn.../.
Môi trường ST.

Thứ Sáu, 1 tháng 12, 2023

CÁN BỘ VÀ CHIẾN SĨ ĐOÀN KẾT CHẶT CHẼ, THÌ CHÚNG TA NHẤT ĐỊNH VƯỢT ĐƯỢC KHÓ KHĂN, SỬA ĐƯỢC SAI LẦM, GIÀNH ĐƯỢC THẮNG LỢI!

     Đây là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện tại “Hội nghị cán bộ trung, cao cấp Quân đội”, tháng 11 năm 1956!

Lời dạy của Bác là sự nhắc nhở sâu sắc đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ Quân đội trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, lúc thường cũng như khi ra trận phải đoàn kết chặt chẽ, nêu cao tình thương yêu đồng chí, đồng đội, giúp đỡ nhau như ruột thịt; chỉ có đoàn kết mới có được sức mạnh để hoàn thành mọi nhiệm vụ, vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù... Thực tiễn hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta đã cho thấy, cán bộ và chiến sĩ thực sự đoàn kết trên cơ sở tình cảm cách mạng, tình thương yêu giai cấp, tình đồng chí, đồng đội thân thiết, cởi mở, chân thành; thực sự thương yêu, gắn bó, coi cơ quan, đơn vị như gia đình, đồng chí, đồng đội là anh em. Đặc biệt, cán bộ luôn đồng cam cộng khổ, sẵn sàng nhận khó khăn, gian khổ, hy sinh về mình, nhường cơm, sẻ áo cho chiến sĩ; sống với nhau có nghĩa, có tình, tin tưởng, tôn trọng, quan tâm giúp đỡ nhau để cùng tiến bộ và hoàn thành tốt nhiệm vụ. Xây dựng tinh thần đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, cùng chung mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; toàn tâm, toàn ý phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; cùng phấn đấu xây dựng Quân đội Nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa...

Phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội trong thời kỳ mới, cán bộ, chiến sĩ luôn khắc ghi lời dạy của Bác về xây dựng mối quan hệ đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ và chiến sĩ. Biểu hiện nổi bật của sự đoàn kết đó được thể hiện ở tinh thần phát huy dân chủ, đoàn kết hiệp đồng, lập công tập thể, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Quân đội, đơn vị. Cán bộ phải có trách nhiệm chăm lo mọi mặt cho chiến sĩ; ngược lại, cấp dưới phải tôn trọng, phục tùng mệnh lệnh cấp trên, chiến sĩ tin cậy, bảo vệ cán bộ. Trên dưới đồng lòng, toàn quân thành một khối vững chắc, thống nhất ý chí và hành động, vì mục đích chung của cách mạng, của Quân đội, của đơn vị và sự tiến bộ của mỗi người. Mỗi cơ quan, đơn vị thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở; bảo đảm để mọi cán bộ, chiến sĩ, cấp trên, cấp dưới đều bình đẳng về chính trị, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; phát huy đầy đủ dân chủ về chính trị, quân sự, kinh tế, đi đôi với giữ vững và tăng cường kỷ luật tự giác, nghiêm minh. Đoàn kết chặt chẽ giữa cán bộ và chiến sĩ phải gắn với đấu tranh, thực hiện tự phê bình và phê bình chân thành, thẳng thắn, nhằm giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, trong đó cần kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện quan liêu, quân phiệt, vi phạm dân chủ, vi phạm nhân cách quân nhân./.


Yêu nước ST.

ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ LÀ THƯỚC ĐO CỦA SỰ TIẾN BỘ!

         Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định, đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số là thước đo của sự tiến bộ và phát triển xã hội, coi đó là một nội dung quan trọng luôn được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội!

Ngày 29/11, đoàn đại biểu Việt nam lên đường đến Thụy Sỹ nhằm bảo vệ Báo cáo quốc gia thực thi Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (CERD) lần thứ 5 tại Kỳ họp thứ 111 của Ủy ban Công ước ở Geneve. Công ước CERD ra đời năm 1965, là một trong 9 Công ước quốc tế cơ bản nhằm bảo đảm quyền con người, quy định các thành viên phải bảo đảm quyền bình đẳng, không phân biệt đối xử đối với mọi thành viên bao gồm cả sự khác biệt về chủng tộc. Hiện đã có 181 quốc gia trên thế giới là thành viên của Công ước này.

Bà Trần Chi Mai - Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Ủy ban Dân tộc cho biết, Báo cáo công ước CERD lần thứ 5 của Việt Nam tiếp tục khẳng định chủ trương, đường lối nhất quán của Đảng, Chính phủ Việt Nam về các dân tộc thiểu số như đã được ghi rõ trong Điều 5, Hiến pháp năm 2013 hoàn toàn phù hợp với định nghĩa về chống phân biệt chủng tại Điều 1 Công ước CERD; Chia sẻ những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong công tác dân tộc giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2023; Khẳng định cam kết của Việt Nam trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước qua những thành tựu Việt Nam đã đạt được trong công tác hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam phù hợp với các quy chuẩn, tiêu chuẩn quốc tế và bảo vệ giá trị phổ quát về quyền con người nói chung, và những nỗ lực của Việt Nam trong việc góp phần xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, phân biệt đối xử nói riêng.

Đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số là thước đo của sự tiến bộ
Năm 1982, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Công ước CERD, từ đó đến nay đã có 4 lần bảo vệ thành công Báo cáo quốc gia thực thi Công ước CERD vào các năm 1983, 1993, 2000 và 2012 và nhận được sự đồng thuận, đánh giá cao của các quốc gia thành viên. Việt Nam cũng nghiêm túc ghi nhận các khuyến nghị phù hợp với điều kiện, tình hình thực tế và lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Trên cơ sở này, Việt Nam đã nội luật hóa, bổ sung nhiều quy định pháp luật cụ thể, xây dựng, hoạch định chính sách tạo ra một hành lang pháp lý tương đối hoàn chỉnh nhằm bảo đảm quyền dân sự chính trị; quyền kinh tế, xã hội, văn hóa của người dân tộc thiểu số.

Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số là thước đo của sự tiến bộ và phát triển xã hội, coi đó là một nội dung quan trọng luôn được ưu tiên hàng đầu trong hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đóng góp vào thành tựu chung của đất nước.

Trong những năm qua, ấn tượng nhất trong những thành tựu đảm bảo quyền của người dân tộc thiểu số ở Việt Nam là thành tựu bao phủ bảo hiểm y tế với gần 100% và đây là một chính sách tốt đẹp, chỉ ở Việt Nam mới có. Bên cạnh đó là các chính sách trong đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ người dân tộc thiểu số; quyết định của Thủ tướng Chính phủ chuyển 5 trường dự bị đại học về Uỷ ban Dân tộc quản lý nhằm tạo điều kiện đầu tư cơ sở vật chất cho các trường này để thu hút học sinh dân tộc thiểu số theo học. Việt Nam có hệ thống gần 400 trường phổ thông dân tộc nội trú, phổ thông dân tộc bán trú, mở ra cơ hội phát triển giáo dục đào tạo cho con em đồng bào dân tộc thiểu số…

Ông Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội cho biết: "Quốc hội nhiệm kỳ khóa XV hiện nay có 89/499 đại biểu của 32 dân tộc thiểu số, đạt 17,8 % cao nhất so với các khóa Quốc hội và cao hơn tỷ lệ người dân tộc thiểu số trong tổng số dân (14,6%). Đến nay đã có tổng số 52/54 dân tộc có đại diện tham gia Quốc hội qua các khóa. Đáng chú ý, Quốc hội khóa XIV ghi nhận lần đầu tiên có đại diện dân tộc Mảng (dân số dưới 5.000 người) và khóa XV ghi nhận lần đầu tiên có đại diện của dân tộc Brâu (dân số dưới 1.000 người) và dân tộc Lự (dân số 6.000 người).

Ở Việt Nam không có khái niệm dân tộc bản địa
Việt Nam là quốc gia thống nhất với 54 dân tộc, trong đó có 53 dân tộc thiểu số với hơn 14,1 triệu người, sống chủ yếu ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao. Khác với nhiều quốc gia đa dân tộc, các dân tộc thiểu số Việt Nam không có khu vực lãnh thổ riêng, sống xen kẽ với nhau. Trình độ phát triển về KT - XH của các dân tộc thiểu số thường thấp hơn, khó khăn hơn so với dân tộc Kinh. Đây là một vấn đề do địa bàn cư trú và lịch sử để lại. Mục tiêu của Việt Nam là bảo đảm quyền của các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, đoàn kết, giải quyết hài hòa quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ, Duyên hải miền Trung.

Việt Nam nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ, phá hoại chính sách đoàn kết dân tộc hoặc kích động thù hằn dân tộc. Những hành vi phân biệt chủng tộc hoặc hỗ trợ các hoạt động gây chia rẽ, kỳ thị và phân biệt chủng tộc đều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, trừng trị nghiêm khắc (Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật công chức, Luật viên chức, Luật Lao động, NĐ88/2015/ND-CP,…)

Ông Nguyễn Văn Kỷ, Phó Chánh văn phòng thường trực về nhân quyền của Chính phủ cho biết, ở Việt Nam không có khái niệm dân tộc bản địa mà chỉ có có các khái niệm phổ biến là dân tộc thiểu số, dân tộc thiểu số rất ít người. Những nội dung này đã được thể hiện rất rõ trong Điều 5, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013; và tại các văn bản luật: Luật Bầu cử Quốc hội, Luật Quốc tịch, Bộ luật Hình sự; Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bộ luật Dân sự…

“Thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, nhiều chương trình mục tiêu quốc gia lớn, dành ưu tiên cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa được triển khai và đã đem lại thành quả to lớn, hiệu quả thiết thực như: Chương trình 134 hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở; Chương trình 135 phát triển KT - XH cho các xã đặc biệt khó khăn, cho đồng bào dân tộc ở vùng sâu, vùng xa; Chương trình KT - XH thực hiện Nghị quyết 30a thực hiện giảm nghèo nhanh, bền vững cho 62 huyện nghèo trong toàn quốc… Nhờ những chính sách và chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, tình hình kinh tế, xã hội ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được cải thiện rõ rệt”- ông Nguyễn Văn Kỷ cho hay.

Có thể nói, việc tham gia Công ước CERD là cơ hội để Việt Nam trao đổi, hợp tác với các quốc gia, tổ chức liên chính phủ, tổ chức phi chính phủ hướng đến mục tiêu tất cả dân tộc đều được thụ hưởng các quyền cơ bản của con người gồm các quyền dân sự-chính trị và quyền kinh tế-xã hội-văn hóa.

Bên cạnh đó, lợi ích của Việt Nam khi tham gia công ước CERD là được Ủy ban Công ước hỗ trợ giám sát. Thông qua “kết luận quan sát”, Nhà nước Việt Nam có thể tham khảo, áp dụng các trí thức, luật pháp quốc tế, kinh nghiệm, thực tiễn của các quốc gia thành viên trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam, tăng cường hiểu biết giữa các quốc gia và nâng cao vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG, CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH, CHÍ CÔNG VÔ TƯ!

     Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, với nội dung cốt lõi là trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người; cẩn, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng; nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức; xây đi đôi với chống; tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời!
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng của người cách mạng, ví như gốc của cây, ngọn nguồn của dòng sông: “Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có dạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”. Với cán bộ, đảng viên, càng phải yêu cầu cao về đạo đức, bởi: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh dược nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. Đạo đức cách mạng sẽ giúp cán bộ, đảng viên vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ; khắc phục bệnh kiêu ngạo, quan liêu, xa dân, khinh dân, lên mặt “quan cách mạng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, nó quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc. Nhờ đó mà đạo đức góp phần to lớn vào việc quyết định sự thành bại của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức cho con người, trước hết là cho cán bộ, đảng viên.
Trung với nước, hiếu với dân là nội dung cơ bản, đầu tiên của đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, người cách mạng không gì hạnh phúc hơn là được phục vụ nhân dân; cái gì lợi cho dân thì phải hết sức làm, cái gì hại đến dân thì phải hết sức tránh. Người cách mạng phải trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc lập dân tộc, làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”. Theo Người: “Nói một cách vắn tắt, thì đạo đức cách mạng là quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”. “Trung với nước hiếu với dân, suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc vì chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Câu nói đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị đạo đức cho mỗi người Việt Nam không phải chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng trước mắt, mà còn lâu dài về sau.

Hai là, Yêu thương con người
Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện và độc đáo. Hồ Chí Minh đã xác định tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ. Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta: "Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời".

Ba là, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.
Đức tính “cần” của người cách mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: phải lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, năng suất, hiệu quả cao, không lười biếng; “kiệm” là phải tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tài sản, tiền bạc của dân, của nước, của bản thân mình, không xa xỉ, phô trương, hình thức...; “liêm” là phải luôn tôn trọng giữ gìn của công, không tham địa vị, tiền tài, danh vọng...; “chính” là không tà, thẳng thắn, đúng đắn, chân thành, khiêm tốn, không tự cao, tự đại, không dối trá, lừa lọc; “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng tránh”. Người cách mạng phải chí công vô tư, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết, “Dĩ công vi thượng”, "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ", “thiết diện vô tư”. Không “tư thù, tư oán”, không “kéo bè, kéo cánh”, không “ưa người nịnh bợ mình, ghét người không hợp với mình”... Trong Di chúc, Người căn dặn: “Mỗi đảng viên và cán bộ phải... thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch...”.

Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
Đoàn kết quốc tế trong sáng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đoàn kết với nhân dân lao động; là đoàn kết quốc tế giữa những người vô sản toàn thế giới; là đoàn kết với các dân tộc vì mục tiêu chung: đấu tranh giải phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, vì hòa bình, công lý và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế gắn liền với chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước chân chính sẽ dẫn đến chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Người đã trở thành người chiến sĩ cộng sản quốc tế lỗi lạc, góp phần cống hiến cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. 
Dưới tác động của nhiều yếu tố: sự cám dỗ của lợi ích vật chất, mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, sự kiểm tra, giám sát của tổ chức chưa chặt chẽ, việc tự rèn luyện kém… làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc… Trước những nguy cơ đó mỗi cán bộ đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Do đó, việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi cán bộ đảng viên vừa phải tích cực, thường xuyên, liên tục, đồng thời phải được gắn liền với mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng và kết quả hoàn thành nhiệm vụ của mỗi người trên cương vị, chức trách được giao./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHẬN DIỆN BẤT LIÊM ĐỂ "XÂY" ĐỨC LIÊM!

     Cần, kiệm, liêm, chính được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc tháng 5, 6 năm 1949. 70 năm đã qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về đức LIÊM vẫn nguyên giá trị!

BIỂU HIỆN CỦA BẤT LIÊM
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Liêm là trong sạch, không tham lam”; liêm ngày nay rộng hơn ngày xưa, không chỉ gồm những người làm quan không đục khoét dân mà “mọi người đều phải Liêm”. Người cán bộ, người buôn bán, người có tiền, người cày ruộng,… đều phải có đức liêm. 

Trái với đức liêm là bất liêm. “Tham địa vị, tham tiền của, tham danh tiếng, tham ăn ngon là BẤT LIÊM”. Người buôn bán mà mua gian, bán lận là bất liêm; người có tiền mà cho vay cắt cổ, bóp họng đồng bào là bất liêm; người làm nghề mà nhân lúc khó khăn bắt chẹt đồng bào là bất liêm; người làm ruộng mà lấy cắp nước của láng giềng là bất liêm;…

Đối với người cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút, trộm của công làm của tư là bất liêm; dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình, gặp việc phải mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm đều trái với LIÊM. Như thế, bất LIÊM của người cán bộ, theo tư tưởng Hồ Chí Minh có nội dung rộng, nó không chỉ là hành vi “đục khoét dân”, “ăn của đút lót”, “trộm của công” mà còn bao gồm các hành vi “lộng quyền”, “dìm người giỏi”, “háo danh”, “ngại khó ngại khổ” trong công việc. Hành vi bất liêm của người cán bộ là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thói quan liêu, hách dịch, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái. Xem thế, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên là trái với liêm; sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên là bất liêm. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Do BẤT LIÊM mà đi đến tội ác trộm cắp. Công khai hay bí mật, trực tiếp hay gián tiếp, bất liêm tức là trộm cắp”. Người dẫn lời Khổng Tử: “Người mà không liêm, không bằng súc vật” và dẫn lời Mạnh Tử: “Ai cũng tham lợi, thì nước sẽ nguy”. Những cán bộ dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm để có dịp là đục khoét, ăn của đút, lộng quyền, “dĩ công vi tư” sẽ có hại cho Đảng, cho dân, cho nước. Hành vi của những cán bộ bất liêm làm suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, với Nhà nước, với chế độ mà nhân dân ta đang xây dựng, theo đó việc khơi dựng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc cho xây dựng và bảo vệ Tổ quốc bị suy giảm.

Những cán bộ đục khoét của dân, tham ô, tham nhũng rất khó nhận diện nhưng không khó để vạch mặt chỉ tên, nếu thanh tra, kiểm tra được tiến hành tốt. Kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng thời gian vừa qua đã cho thấy rõ điều đó. Song những cán bộ ngại khó ngại khổ, thiếu trách nhiệm trong thực thi chức trách, tham danh tiếng (háo danh), không minh bạch trong công tác cán bộ,… sẽ khó nhận diện dẫn đến khó xử lý. “Ăn của đút lót” là một hành vi mà cho đến nay việc nhận diện, xử lý chưa cho kết quả nhiều. Cần nhận rõ rằng, những hành vi đó trái với đức LIÊM, những cán bộ đó là BẤT LIÊM nên cần phải đấu tranh như đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng và nên xác định nó là một nội dung quan trọng trong đấu tranh phòng chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. 

Để làm trong sạch đội ngũ, để làm lành mạnh nền hành chính quốc gia, để cho người dân “bớt khổ” trong quá trình làm ăn, sinh sống của mình. cần đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống “ăn của đút lót” - “tham nhũng vặt” Một nền hành chính minh bạch, với đội ngũ cán bộ thanh liêm, “không đòi bôi trơn” sẽ tạo ra môi trường xã hội thuận lợi cho việc phát huy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nếu “tham nhũng vặt” không được đấu tranh, ngăn chặn sẽ làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

XÂY ĐỨC LIÊM, ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BẤT LIỆM
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, để xây dựng đức liêm, phòng chống bất liêm, “cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”. 

Nghĩa là, cán bộ phải gương mẫu, đi đầu trong việc tu dưỡng, rèn luyện và phát huy đức liêm ở mọi lúc, mọi nơi, trong mọi công việc. Cán bộ luôn liêm khiết sẽ là tấm gương sáng để mọi người noi theo tu dưỡng, rèn luyện đức liêm để cả xã hội đều liêm. “Cán bộ thi đua thực hành liêm khiết, thì sẽ gây nên tính liêm khiết trong nhân dân”. Lời chỉ dạy của Người về nêu gương trong thực hành đức liêm càng làm cho thấy tầm quan trọng của việc nêu gương đối với cán bộ, đảng viên mà Đảng ta đang khơi dựng hiện nay. Cán bộ, đảng viên cần nhận rõ trọng trách chính trị xã hội của mình để chú tâm gương mẫu tu dưỡng, rèn luyện đức liêm.

Nhưng cũng có khi “quan tham vì dân dại”. Nếu dân hiểu biết, nêu cao liêm chính, không chịu đút lót, thì quan “dù không liêm cũng phải hóa ra LIÊM”. Như thế, góp phần để cán bộ liêm chính thì mỗi công dân phải thực hành chữ LIÊM, thực hành liêm chính trong thực hiện chức phận công dân, trong các quan hệ xã hội của mình, nhất là trong quan hệ với những người có chức quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “mọi người đều phải Liêm”, người buôn bán, người có tiền, người cày ruộng, người làm nghề, người cờ bạc,… đều phải có đức liêm. Người không tham lam thì mới có thể ngăn chặn người khác không tham, mình không liêm sao có thể đòi hỏi người khác phải liêm. Nếu mọi người làm việc gì cũng dùng phong bì, phong bao để nhanh được việc thì khó có thể loại bỏ được sự bất liêm trong cán bộ, công chức, viên chức. Vì thế, để cuộc đấu tranh phòng chống sự tha hóa về đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên đạt hiệu quả cao, cần phải loại bỏ hành vi “đút lót”, “chạy chọt” trong đời sống xã hội nước ta hiện nay. Đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp bởi vì đút lót, bôi trơn đang như là một “thói quen” trong đời sống xã hội và những cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống đã, đang lợi dụng thói quen xã hội này để trục lợi, làm giàu. Người dân không đút lót sẽ góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ liêm chính và cán bộ thực hành liêm chính sẽ loại bỏ thói quen đút lót của người dân. Một nhà nước của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân, một chính phủ kiến tạo phải là một nhà nước, một chính phủ mà tất thảy mọi cán bộ, công chức phải liêm chính.

Để đấu tranh phòng chống sự bất liêm trong cán bộ, đảng viên phải dựa vào dân, phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm tra, giám sát, “phải biết kiểm soát cán bộ, để giúp cán bộ thực hiện chữ LIÊM”. Muốn thế, cần không ngừng nâng cao ý thức về quyền lợi và nghĩa vụ công dân, bồi dưỡng và phát huy năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội, ý thức dân chủ xã hội của nhân dân để trên cơ sở đó mà tổ chức và phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đức liêm cho cán bộ. Để phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng đức liêm cho cán bộ, đội ngũ cán bộ phải tin dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, trước hết cấp ủy đảng phải có những biện pháp cụ thể, phù hợp để nhân dân bày tỏ chính kiến của mình. Gần dân, sát dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân về đức liêm của đội ngũ cán bộ là quán triệt quan điểm “dân là gốc”. 

Bên cạnh đó, chú trọng xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi, những con người bất liêm, cho dù họ là ai. Qua đó, cảnh tỉnh mọi người tránh xa hành vi bất liêm, đồng thời tạo dựng niềm tin xã hội. Kết quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thời gian gần đây đã làm gia tăng niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý xã hội của Nhà nước. Khi niềm tin được củng cố thì đồng thuận xã hội gia tăng, đó là một trong những điều kiện phát huy sức mạnh của dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đồng thời, để mọi người đều liêm, trước hết cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi người nhận thức rõ rằng bất liêm là “ăn cắp”, là xấu, để mà tránh xa nó. Bằng mọi cách làm cho mọi người dân, trong đó có cả cán bộ hiểu rõ rằng lòng tự hào, tự tôn dân tộc phải thể hiện ở sự liêm chính. Quá trình phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước loại bỏ hành vi trái với liêm, đấu tranh không khoan nhượng với những con người bất liêm như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một dân tộc biết cần, kiệm, biết liêm là một dân tộc giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh, tiến bộ”./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: BỒI DƯỠNG THẾ HỆ TRẺ LÀ VIỆC QUAN TRỌNG!

         “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Đó không chỉ là sự quan tâm chăm lo cho sự nghiệp cách mạng, vun trồng cái gốc để sự nghiệp của cha anh luôn được phát triển mà còn là tầm nhìn sâu sắc của Hồ Chí Minh đối với hiện tại và tương lai bền vững của nước nhà!

THẾ HỆ TRẺ LÀ LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH, TƯƠNG LAI CỦA NƯỚC NHÀ
Nhận thức sâu sắc rằng, “Một năm khởi đầu từ mùa Xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa Xuân của xã hội”, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ - những người mang trong mình bầu nhiệt huyết, sức sống tràn trề, năng lực sáng tạo, v.v.. đối với sự trường tồn của đất nước. Vì vậy, xuyên suốt, nhất quán trong tư tưởng và hành động, Hồ Chí Minh không chỉ cuốn hút họ bằng chính những năm tháng tuổi trẻ đầy nhiệt huyết cách mạng của mình mà còn kêu gọi, đánh thức, giác ngộ và cổ vũ họ tham gia cách mạng; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, sẵn sàng giao nhiệm vụ và tạo điều kiện để họ được học tập, lao động, cống hiến… 

Hướng vào tuổi trẻ, đưa họ đến với cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiến hành tổ chức, giáo dục, rèn luyện thế hệ trẻ để họ phát huy vai trò của mình, góp sức vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng; đó là thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (6-1925) mà nòng cốt là Cộng sản đoàn; ra báo Thanh niên; mở lớp huấn luyện chính trị, đào tạo nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước trở thành những cán bộ cốt cán của Đảng và của phong trào cách mạng cả nước. Người cũng gửi thư cho Ủy ban Trung ương thiếu nhi Liên Xô và đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản (7-1926) đề nghị giúp đỡ, để gửi một số thiếu niên Việt Nam do Người nuôi ở Quảng Châu sang Liên Xô học tập, “để trở thành những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính”, làm hạt nhân cho Đoàn Thanh niên cộng sản sau này. Đặc biệt, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, vấn đề thanh niên, bồi dưỡng lực lượng thanh niên đã được đặc biệt quan tâm khi thông qua Án nghị quyết của Đảng Cộng sản Đông Dương (1931) về việc tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản theo đề nghị của Hồ Chí Minh...

Tiếp đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng, lòng yêu nước, tinh thần cách mạng, sự nhiệt tình, gan dạ và những tấm gương hy sinh dũng cảm của tuổi trẻ nước nhà (thông qua Đoàn Thanh niên cứu quốc, Đội Thiếu nhi cứu quốc, Đội Nhi đồng cứu quốc) đã góp phần không nhỏ vào thành công của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, sáng lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trang sử mới, một kỷ nguyên mới đã mở ra khi nước nhà giành được độc lập và cùng với đó là một tiền đồ rực rỡ gắn liền với những nhiệm vụ nặng nề của thế hệ trẻ. Khi ấy, tràn đầy niềm tin tưởng, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã không chỉ khích lệ học sinh cả nước nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập: “Nước nhà mong chờ ở các em rất nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” mà còn khẳng định thế hệ trẻ, trước hết là thanh niên chính là đội dự bị, lực lượng kế cận hùng hậu của cách mạng, những người chủ tương lai của nước nhà. 

Theo Người, vận mệnh của quốc gia, dân tộc thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do thanh niên - những người có trách nhiệm thực hiện sứ mệnh lịch sử vẻ vang mà các thế hệ cha anh đã chuyển giao vào tay mình. Do đó, nhất định thanh niên phải trở thành một lực lượng to lớn, vững chắc; phải là những người không chỉ gánh vác mà phải còn vượt lên những gì thế hệ trước mong muốn nhưng chưa thực hiện được do những hạn chế, những điều kiện lịch sử quy định… Để hoàn thành sứ mệnh đó, muốn trở thành những con người đủ đức, đủ tài, có thể gánh vác được những trọng trách mà cách mạng giao phó và làm chủ tương lai một cách xứng đáng, mỗi người ngay từ khi còn trẻ đã luôn phải tự giác rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải tích cực làm việc để chuẩn bị cho tương lai. Đó là, phải ra sức học tập trong nhà trường, ở gia đình và ngoài xã hội; học tập qua sách vở và trau dồi tri thức từ chính thực tiễn cuộc sống và khắc phục những nhược điểm: nóng vội, thiếu thực tế, hình thức, chủ quan…; phải cố gắng học tập chính trị, văn hóa, nghề nghiệp theo phương châm học “để phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, làm cho dân giàu, nước mạnh, tức là để làm trọn nhiệm vụ người chủ của nước nhà”. Đặc biệt, đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên phải xung phong trong mọi công tác, đi trước, làm trước, phải có tinh thần sẵn sàng dấn thân “đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh niên làm”; “phải rèn luyện thân thể cho khỏe mạnh, khỏe mạnh thì mới đủ sức để tham gia một cách dẻo dai, bền bỉ những công việc ích nước lợi dân”, phải đoàn kết chặt chẽ, kiên trì phấn đấu, vượt mọi khó khăn, thi đua học tập và lao động sản xuất…, để góp sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc như chỉ dẫn của Người tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đoàn (1956). 

Thấm nhuần và thực hiện những chỉ dẫn của Người, lớp lớp thế hệ trẻ Việt Nam đã nỗ lực học tập, lao động, phấn đấu xứng đáng với niềm tin yêu, sự khen ngợi và kỳ vọng của cha anh. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, thế hệ trẻ Việt Nam thực sự là lực lượng xung kích trong sự nghiệp cách mạng; là rường cột, đội hậu bị xứng đáng với sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Thế hệ trẻ Việt Nam - thế hệ nọ nối tiếp thế hệ kia, tre già măng mọc trưởng thành từ những Đội Cứu quốc, Tổng hội sinh viên, Hội truyền bá quốc ngữ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Đoàn quân Nam tiến đến phong trào “Thanh niên ba sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Năm xung phong”,v.v. đã góp sức mình vào chiến thắng chung của dân tộc trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm để bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, thống nhất Tổ quốc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 

TIẾP TỤC BỒI DƯỠNG ĐỘI NGŨ KẾ CẬN THEO DI CHÚC
Tiếp bước cha anh, thế hệ trẻ nước nhà đã và đang tích cực “xây dựng lại đất nước ta to đẹp hơn, đàng hoàng hơn” như mong ước Hồ Chí Minh đã dặn lại trong Di chúc. Những tấm gương, điển hình tiên tiến, xung kích, đi đầu trong chiến đấu, lao động, học tập và công tác, nhất là trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế đã tiếp tục khẳng định vị thế và vai trò quan trọng của thế hệ trẻ. Trên cơ sở quán triệt quan điểm “xây dựng Đoàn là xây dựng Đảng trước một bước”, các tổ chức cơ sở Đoàn đã phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của đoàn viên, thanh niên, sinh viên trong thi đua thực hiện các nghị quyết của Đảng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Thông qua đó, tạo môi trường thuận lợi để thế hệ trẻ trải nghiệm, tự rèn luyện mình, trưởng thành, phấn đấu, bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Nỗ lực học tập, lao động để trau dồi, nâng cao tri thức, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng sống và làm việc trong bối cảnh toàn cầu hóa; tích cực tham gia các hoạt động xã hội, các chương trình hành động: “Lập thân, lập nghiệp, xây dựng đất nước phồn vinh”, “Bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự, an ninh”, “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng tài năng trẻ, phát triển văn hóa, thể thao”, “Công tác xã hội, bảo vệ môi trường”, “Thắp sáng ước mơ tuổi trẻ Việt Nam”, “Tuổi trẻ Việt Nam - Câu chuyện hòa bình”, “Đoàn viên phấn đấu trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam”…
 
Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường, do thiếu bản lĩnh và không nghiêm túc trong rèn luyện, phấn đấu, một bộ phận thanh niên đã phai nhạt lý tưởng, sống buông thả, lười học tập và tu dưỡng đạo đức, thậm chí có người đã vi phạm pháp luật,v.v. Thực trạng này, một mặt ảnh hưởng đến tương lai của chính họ, gây cản trở sự phát triển lành mạnh của xã hội, bền vững của đất nước; mặt khác dễ bị các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng để tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình”, hòng chống phá và ngăn chặn sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Hơn bao giờ hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân càng phải thấm nhuần lời căn dặn đầy tâm huyết của Người trong Di chúc: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa “hồng” vừa “chuyên””.

Thực hiện di huấn của Người và để thực hiện tốt chiến lược “trồng người”, nhằm bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau đạt hiệu quả; đảm bảo xây dựng đội ngũ kế cận tài đức, hoàn thành tốt trọng trách mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng từ Trung ương đến địa phương cần tập trung thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, quán triệt sâu sắc chủ trương của Đảng, Nhà nước về vị trí, vai trò của thế hệ trẻ, về “đổi mới nội dung, phương thức chính trị, tư tưởng, truyền thống, bồi dưỡng lý tưởng, lòng yêu nước, xây dựng đạo đức lối sống lành mạnh, ý thức tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật cho thế hệ trẻ… Phát huy vai trò của thế hệ trẻ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” theo Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Chỉ thị số 42-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ, giai đoạn 2015-2030”. Đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình - nhà trường - Đoàn Thanh niên - xã hội trong đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ toàn diện về mọi mặt; trong đó, chú trọng nguyên tắc đào tạo gắn với bồi dưỡng, tin tưởng giao việc, tạo điều kiện để tuổi trẻ được trải nghiệm, phấn đấu và trưởng thành; xây dựng nguồn cán bộ trẻ, đảm bảo quy hoạch cho trước mắt và lâu dài, “phải khéo léo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ”, “không nên coi thường cán bộ trẻ” như Hồ Chí Minh đã căn dặn.

Hai là, mỗi cơ quan, đơn vị trong từng kế hoạch, chương trình hành động phải gắn bồi dưỡng lý tưởng cách mạng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, tri thức lý luận với rèn luyện đạo đức cách mạng, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, theo chủ đề hằng năm nói riêng thành nhu cầu tự thân của mỗi người, mỗi tổ chức cơ sở Đoàn gắn với thực hiện nhiệm vụ chính trị, với phòng chống suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, góp phần xây dựng Đoàn, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh... Tích cực đấu tranh phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, phê phán những thói hư, tật xấu, lối sống vị kỷ và cổ vũ lối sống trong sạch, có chí tiến thủ, tinh thần đoàn kết, thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình để giúp nhau cùng tiến bộ, để tuổi trẻ vững tin thực hiện ước mơ, hoài bão của mình, kiên định mục tiêu cách mạng. 

Ba là, chú trọng học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tế trong đào tạo, bồi dưỡng văn hóa, khoa học - kỹ thuật, công nghệ, quân sự, ngoại ngữ, v.v. và thường xuyên bồi dưỡng thể chất, rèn luyện thân thể cho thế hệ trẻ, để “mỗi một người dân mạnh khỏe, tức là cả nước mạnh khỏe”. Cụ thể, theo Hồ Chí Minh, ở cấp “- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà. - Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế. - Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công”. Bốn là, gắn bồi dưỡng thế hệ trẻ với các phong trào thực tiễn, nhất là tiếp tục triển khai hiệu quả ba phong trào hành động cách mạng: “Thanh niên tình nguyện”, “Tuổi trẻ sáng tạo”, “Tuổi trẻ xung kích bảo vệ Tổ quốc” trong từng nhóm đối tượng và duy trì các phong trào đặc thù. Từ đó, xây dựng, nhân rộng các mô hình hay, cách làm sáng tạo của các gương điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trong cha mẹ, thầy cô, nhân dân và trong chính thế hệ trẻ để “làm gương mẫu cho các em trước mọi việc”. Đồng thời, bản thân mỗi người trẻ cũng phải tự học tập, tự tu dưỡng, phấn đấu ở mọi nơi, mọi lúc và suốt đời, để xây dựng tương lai cho chính mình và đi tiên phong trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc giàu mạnh, bền vững.

Có quá trình chuẩn bị, bồi dưỡng thường xuyên về đức và tài cho thế hệ trẻ; có sự chuẩn bị chu đáo, thận trọng, chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ như Hồ Chí Minh đã căn dặn, đất nước Việt Nam sẽ có đủ sức mạnh nội lực, trí tuệ, đạo đức để tự tin, kiên định, vững vàng trên con đường đổi mới, hội nhập và phát triển bền vững./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỌC VÀ LÀM THEO BÁC VỀ CHĂM LO ĐỜI SỐNG NHÂN DÂN!

     Hồ Chí Minh từng nói rằng: “Ở đời và làm người phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức” và Người đã không chỉ cống hiến trọn cuộc đời mình cho độc lập dân tộc và tự do, ấm no và hạnh phúc của nhân dân Việt Nam mà còn góp sức mình vào sự nghiệp giải phóng nhân loại bị áp bức, bất công trên toàn thế giới!

NHẤT QUÁN TRONG TƯ TƯỞNG VÀ HÀNH ĐỘNG
Trả lời phỏng vấn của các nhà báo nước ngoài ngày 21-1-1946, Hồ Chí Minh đã nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Đó không chỉ là khát khao, hy vọng mà còn là sự nhất quán trong tư tưởng và hành động của Người từ khi rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945, giành lại độc lập dân tộc đến 24 năm ở vị thế một nguyên thủ thế nguyên thủ quốc gia (1945-1969).

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Ðảng là đội tiền phong của giai cấp và dân tộc; Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, không có lợi ích nào khác ngoài mục tiêu phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cán bộ, đảng viên từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà tận tâm, tận lực phục vụ, nên ở đâu và lúc nào cũng phải luôn rèn luyện, phấn đấu để xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân. Chăm lo đời sống nhân dân, theo Hồ Chí Minh, chính là làm cho nhân dân được thực hiện nghĩa vụ và thụ hưởng quyền lợi trong một xã hội tiến bộ và công bằng, với hành lang pháp lý đầy đủ và ngày càng hoàn thiện, để nhân dân thực sự là người chủ trong xã hội mới và ngày càng được thụ hưởng đầy đủ về vật chất và tinh thần. Vì thế, khi đất nước vừa giành được độc lập, Người cùng Chính phủ đã xác định rõ những nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ lâm thời; trong đó việc chống nạn đói, nạn dốt và xóa các tệ nạn xã hội; bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò; thực hiện quyền tự do, dân chủ; lương giáo đoàn kết... là những nội dung, biện pháp và bước đi quan trọng để từng bước chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Giữa bộn bề khó khăn, thử thách của thù trong và giặc ngoài những ngày đầu nước nhà mới giành được độc lập, Chủ tịch nước Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Không dừng ở đó, để cấp bách cứu đói dân nghèo, Người kêu gọi sẻ cơm nhường áo trên tinh thần lá lành đùm lá rách và gương mẫu thực hiện trước, “cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Ðem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”. Đặc biệt, khi nhấn mạnh: “Chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Ðảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Ðảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện tinh thần, trách nhiệm của người đứng đầu Đảng, Nhà nước, Chính phủ mà còn khẳng định mục tiêu phấn đấu, chăm lo cho nhân dân của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Vì thế, trên tinh thần các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, Hồ Chí Minh và Chính phủ “hứa với dân, sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”. Trong việc kiến thiết nước nhà, sửa sang mọi việc, phải làm dần dần, không thể một tháng, một năm mà làm được hết, “song ngay từ bước đầu, chúng ta phải theo đúng phương châm... Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn, xác định công việc cụ thể, bước đi thích hợp để chăm lo đời sống nhân dân, góp phần từng bước đẩy lùi nạn đói và mang lại quyền lợi dân chủ cho nhân dân, trước hết là nông dân.

Sau đó, khi miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, xây dựng và trở thành hậu phương của tiền tuyến lớn miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh việc chăm lo đời sống, hạnh phúc của nhân dân là một trong những mục tiêu quan trọng của đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước. Rất ngắn gọn và giản dị, Hồ Chí Minh khẳng định: Mục đích của chủ nghĩa xã hội nói một cách đơn giản và dễ hiểu là: không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động.

Mục tiêu cốt lõi để nhân dân không còn đói nghèo, được bảo đảm về an sinh xã hội: việc làm, y tế, giáo dục, nhà ở, v.v. là các chủ trương, chính sách kinh tế của Đảng và Chính phủ phải luôn luôn hướng tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người; phải được thực thi hiệu quả mới góp phần làm ổn định xã hội, phát huy nguồn lực tài dân, sức dân, khả năng sáng tạo của nhân dân để mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Đặc biệt, các chủ trương và các chính sách đó phải trở thành một động lực to lớn để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tạo cơ sở vững chắc để ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Chừng nào cuộc sống của nhân dân còn đói nghèo, chưa được no ấm, hạnh phúc thì chừng đó, các cấp ủy đảng, chính quyền nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên nói riêng chưa hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ của mình trước nhân dân.

KHÔNG NGỪNG NÂNG CAO ĐỜI SỐNG CHO NHÂN DÂN
Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: xây dựng và phát triển đất nước sau kết thúc chiến tranh luôn là một nhiệm vụ to lớn, nặng nề và phức tạp mà cũng rất vẻ vang. Đó là một cuộc chiến đấu khổng lồ, đầy khó khăn, vất vả để chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng; để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Ðể giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu ấy, Đảng và Chính phủ không chỉ cần tiến hành “khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế”; “phát triển công tác vệ sinh, y tế”; “sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân”; “củng cố quốc phòng”... mà còn phải động viên toàn dân, tổ chức, giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân và tạo điều kiện cho nhân dân tự xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc của mình.

Hàm chứa triết lý phát triển bền vững, Hồ Chí Minh dặn lại trong bản Di chúc lịch sử: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. Vì “đầu tiên là công việc đối với con người”, nên Người căn dặn phải chăm lo cho các đối tượng “cán bộ, binh sĩ, dân quân du kích, thanh niên xung phong” để họ có nơi ăn chốn ở yên ổn đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mọi người; quan tâm đến “cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu”, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét; có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả công việc lãnh đạo. Cùng với đó, Nhà nước và các cấp chính quyền phải vừa dùng giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo và giúp “những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu... trở nên những người lao động lương thiện”; miễn thuế nông nghiệp một năm cho nông dân để đồng bào thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất… Những điều Người dặn, những quyết sách Người cùng Đảng và Chính phủ đã nỗ lực thực hiện đã góp phần chăm lo đời sống nhân dân, thể hiện chiều sâu tư tưởng nhân văn của chế độ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục được thực hiện trong thời kỳ cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

Quan điểm Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống nhân dân đã được Đảng và Nhà nước Việt Nam vận dụng, cụ thể hóa trong Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1991 và năm 2011 (bổ sung và phát triển) về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm, 5 năm và kế hoạch hằng năm; thể hiện trong từng cơ chế, chính sách phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, xã hội của đất nước, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực tế cho thấy, các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước trong hơn 30 năm đổi mới đã luôn hướng tới mục tiêu không ngừng “nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” như văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng định. Theo đó, đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội đạt được những kết quả tích cực; công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng; chính sách dân tộc, tôn giáo được quan tâm và đảm bảo,v.v. Đến nay, tỷ lệ nghèo trong đồng bào các dân tộc thiểu số tiếp tục giảm là kết quả rất đáng khích lệ, góp phần từng bước đặt nền móng cho sự phát triển bền vững của Việt Nam trong tương lai.

Chăm lo đời sống nhân dân là nhiệm vụ chính trị trung tâm, là thước đo và tiêu chí đánh giá sự hoàn thành trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với nhân dân. Vì vậy, để tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, các cấp ủy đảng, ban, ngành chức năng cần tập trung thực hiện tốt những nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức; đồng thời, cụ thể hóa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh nói chung, về chăm lo đời sống nhân dân nói riêng với nhiệm vụ chính trị của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân. Đưa nội dung này vào chương trình, kế hoạch cụ thể của cơ quan, địa phương, đơn vị và cá nhân hằng năm, hằng quý, nhất là thành chuyên đề sinh hoạt tại chi bộ gắn với nhiệm vụ chuyên môn, đảm bảo sự thống nhất trong nhận thức và hành động của mỗi cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên.

Hai là, gắn thực hiện nội dung chăm lo đời sống nhân dân với việc tập trung giải quyết những vấn đề trọng tâm, cấp bách tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng và các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước nhằm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Ba là, đi đôi với việc lựa chọn, xây dựng những cá nhân, tập thể điển hình, những cách làm hay trong học tập và làm theo Bác về sự tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân, chăm lo đời sống nhân dân; tuyên truyền sâu rộng để tạo sự lan tỏa trong cộng đồng là phải tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát và có hình thức kỷ luật nghiêm những cơ quan, địa phương, đơn vị, cá nhân không hoàn thành nhiệm vụ chăm lo đời sống nhân dân, gây bức xúc, phiền hà, nhũng nhiễu,v.v. cho nhân dân, làm xói mòn lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ./.
Yêu nước ST.

Việt Nam chủ động, tích cực trong triển khai thực thi Công ước chống tra tấn

Nhận thức vai trò, vị trí quan trọng của Công ước Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (Công ước chống tra tấn hoặc Công ước CAT), Việt Nam không ngừng nỗ lực triển khai tổng thể các biện pháp để thực hiện có hiệu quả công ước, từ đó, đạt được những thành tựu được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Ngày 20/11, tại TP Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, Ban soạn thảo Báo cáo quốc gia lần thứ hai của Việt Nam về thực thi Công ước CAT (Báo cáo CAT 2) tổ chức Hội thảo Tham vấn ý kiến rộng rãi của các cơ quan Chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ và người dân về dự thảo Báo cáo CAT 2. Thiếu tướng Nguyễn Văn Kỷ, Phó Cục trưởng Cục Đối ngoại, Bộ Công an chủ trì hội thảo. Hội thảo thu hút sự tham dự của đại diện các bộ, ban, ngành Trung ương như Bộ Ngoại giao, Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Viện KSND tối cao, Liên đoàn luật sư Việt Nam, TAND và Viện KSND các tỉnh, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam; đại diện nhiều sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị – xã hội, các tổ chức quốc tế…. Công ước CAT chính thức có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 7/3/2015. Từ đó đến nay, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi công ước và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc bảo đảm các quyền con người được cộng đồng quốc tế công nhận, trong đó có Báo cáo quốc gia về thực thi Công ước CAT. Từ khi trở thành thành viên đến nay, Việt Nam đã nộp 2 báo cáo lên Ủy ban Chống tra tấn (Ủy ban CAT), đó là Báo cáo CAT 1 (nộp năm 2017) và Báo cáo giữa kỳ (nộp năm 2020). Phát biểu khai mạc hội thảo, Thiếu tướng Nguyễn Văn Kỷ nêu rõ, nhận thức vai trò, vị trí quan trọng của Công ước CAT, Việt Nam không ngừng nỗ lực triển khai tổng thể các biện pháp để thực hiện có hiệu quả công ước, từ đó đạt được những thành tựu được cộng đồng quốc tế ghi nhận, trong đó bao gồm cả việc Báo cáo về thực thi công ước. Theo Thiếu tướng Nguyễn Văn Kỷ, để chuẩn bị cho kỳ báo cáo lần này, Ban soạn thảo báo cáo do Bộ Công an chủ trì hoàn thiện dự thảo báo cáo và nhiều lần lấy ý kiến của các bộ, ngành, đơn vị, tổ chức, cá nhân có liên quan cập nhật thông tin, số liệu và các nội dung của báo cáo. Đến nay, dự thảo báo cáo và các phụ lục cơ bản hoàn thiện, đáp ứng các yêu cầu về nội dung và hình thức. Báo cáo đã được Cục Pháp chế và cải cách hành chính, tư pháp (Bộ Công an) đăng công khai trên Cổng Thông tin điện tử của Bộ Công an từ tháng 9/2023. Trình bày tóm tắt nội dung của dự thảo báo cáo, đại diện Tổ Thư ký xây dựng Báo cáo CAT 2 chỉ ra rằng, trên cơ sở nghiên cứu kỹ các khuyến nghị của Ủy ban Chống tra tấn (Ủy ban CAT), Việt Nam đã ban hành Kế hoạch hành động quốc gia để tăng cường thực hiện hiệu quả Công ước CAT trên phạm vi toàn quốc. Việt Nam đã ban hành hơn 56 luật và các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tốt hơn quyền con người nói chung và ngăn ngừa, trừng trị các hành vi liên quan đến tra tấn nói riêng. Để triển khai thi hành các luật, Việt Nam tiếp tục ban hành hơn hàng trăm văn bản hướng dẫn nhằm chuẩn hóa các quy trình, công khai các quy định, bổ sung các chế định nhằm ngăn ngừa các hành vi tra tấn, bảo vệ những người có nguy cơ bị tra tấn cũng như hỗ trợ tốt hơn cho những nạn nhân của hành vi tra tấn. Bên cạnh đó, Việt Nam đã tổ chức hàng trăm lớp tập huấn, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, cuộc thi tìm hiểu về Công ước CAT và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn; mở nhiều chuyên mục, đăng tải nhiều tin, bài, phóng sự tuyên truyền, phổ biến, giải đáp pháp luật liên quan đến nội dung Công ước CAT và pháp luật Việt Nam về phòng, chống tra tấn trên các phương tiện thông tin truyền thông, các chương trình phát thanh, truyền hình, mạng xã hội… Tại hội thảo, các đại biểu đã tập trung thảo luận, tham gia ý kiến về: Bố cục, cách thức trình bày Báo cáo CAT 2; viện dẫn các quy định của các bộ luật, các luật và các văn bản dưới luật, các thông tin, số liệu liên quan; chia sẻ các nội dung, số liệu trong dự thảo báo cáo cần sửa đổi, bổ sung; cung cấp các nguồn thông tin, số liệu để Ban Soạn thảo CAT 2 bổ sung, chỉnh lý, hoàn thiện. Hội thảo lần này nhằm tham vấn ý kiến của các chuyên gia để việc xây dựng Báo cáo CAT 2, vừa đáp ứng các yêu cầu về chính trị, đối nội vừa phù hợp với các yêu cầu của quốc tế; đồng thời để các đại biểu hiểu rõ hơn về các nỗ lực của Việt Nam trong triển khai Công ước CAT.

Lại giở trò vu cáo, bôi nhọ từ vụ án liên quan ông Lưu Bình Nhưỡng

Thông tin ông Lưu Bình Nhưỡng bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội “Cưỡng đoạt tài sản” được các cơ quan báo chí đưa khách quan, kịp thời. Tuy nhiên, các thế lực chống phá đã cố tình đánh tráo bản chất vụ án, định hướng dư luận theo hướng tiêu cực, biến một vụ án hình sự được điều tra như một vụ “tấn công” mang màu sắc khác. Theo thông tin từ Công an tỉnh Thái Bình, ngày 14/11/2023, ông Lưu Bình Nhưỡng (nguyên Phó trưởng Ban Dân nguyện của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét nơi ở, nơi làm việc để điều tra về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, quy định tại Điều 170, Bộ luật Hình sự. Ông Lưu Bình Nhưỡng từng là đại biểu Quốc hội Khóa XIV, được biết đến là người hay có những phát biểu tranh luận tại nghị trường, đặc biệt liên quan đến các vấn đề “nóng” của xã hội. Nhiều phát biểu trong đó đã bị số đối tượng chống đối lợi dụng bôi nhọ cơ quan Đảng, Nhà nước, trở thành “chất liệu” chống phá. Đặc biệt, ông Lưu Bình Nhưỡng cũng từng có những phát biểu trước Quốc hội về đạo đức, công lý và những thế lực xấu đã lợi dụng tung hô, lấy cớ xuyên tạc. Vì vậy không ngạc nhiên khi tin ông Lưu Bình Nhưỡng bị bắt, lập tức các đối tượng chống đối, phản động đã lợi dụng vu cáo. Tổ chức khủng bố Việt Tân cho rằng, vì ông Lưu Bình Nhưỡng hay nói động chạm đến các vấn đề xã hội, động chạm cả đến cơ quan tiến hành tố tụng mà dẫn tới bị xử lý hình sự. Chúng còn thần thánh hóa rằng, với việc ông Nhưỡng bị bắt, dân mất chỗ dựa, mất nơi “gửi đơn kêu oan”! Có thể nói, đây là luận điệu kích động, xuyên tạc thường thấy của các thế lực xấu nhằm đánh tráo bản chất vấn đề. Vụ án mà cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình đang điều tra không phải là điều tra trực tiếp, từ đầu đối với ông Lưu Bình Nhưỡng. Đây là kết quả điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường (37 tuổi, thường gọi là Cường “quắt”, trú tại xã Thụy Xuân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) về tội “Cưỡng đoạt tài sản” quy định tại khoản 4, Điều 170, Bộ luật Hình sự. Trước đó ngày 17/5/2023, cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Minh Cường về tội danh trên. Theo tài liệu điều tra, khi biết thông tin một số doanh nghiệp được UBND tỉnh Thái Bình cấp phép cho khai thác cát tại mỏ cát ven biển xã Thụy Trường, huyện Thái Thụy, Cường cùng đồng bọn đã tự ý xác lập quyền sử dụng trái phép các bãi triều nhằm gây sức ép, buộc các doanh nghiệp phải trả tiền theo khối lượng cát khai thác được, hoặc bán lại một phần cho Cường với giá rẻ hơn giá thị trường. Cơ quan điều tra nhận định, đây là vụ án đặc biệt nghiêm trọng, số tiền chiếm đoạt lớn, gây bức xúc trong nhân dân, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hình ảnh, môi trường đầu tư của tỉnh. Công an tỉnh Thái Bình đã mở rộng điều tra vụ án, tập trung làm rõ các đối tượng có hành vi tiếp tay, giúp sức cho bị can thực hiện hành vi phạm tội để xử lý theo quy định của pháp luật. Trước đó, vào năm 2022, Cường “quắt” từng bị Công an tỉnh Thái Bình khởi tố và bắt giam về tội “Cố ý gây thương tích”, “Gây rối trật tự công cộng”. Quá trình bắt, khám xét đối với bị can Lưu Bình Nhưỡng, cơ quan CSĐT Công an tỉnh Thái Bình cũng đã thu giữ nhiều đồ vật, tài liệu có dấu hiệu vi phạm pháp luật phục vụ công tác điều tra, mở rộng vụ án. Với các tài liệu có liên quan đến vụ án thu được, việc ông Nhưỡng bị bắt, khởi tố để điều tra mở rộng vụ án Phạm Minh Cường là đảm bảo đúng quy trình tố tụng. Tính chất, mức độ vi phạm, sự liên quan của bị can Lưu Bình Nhưỡng trong vụ án “Cường quắt” như thế nào, hành vi cưỡng đoạt tài sản ra sao, cơ quan CSĐT đang tiếp tục làm rõ và sẽ có kết luận cụ thể. Tại cuộc họp báo mới đây, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên cho biết, vụ ông Lưu Bình Nhưỡng chưa thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chỉ đạo, xem xét. Hiện các cơ quan chức năng đang thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, theo đúng thẩm quyền. Ông Nguyễn Văn Yên cho biết, đối với trường hợp của ông Lưu Bình Nhưỡng, là người có nhiều ý kiến đóng góp ở các diễn đàn, những đóng góp tốt của ông Lưu Bình Nhưỡng chúng ta cần ghi nhận nhưng những vi phạm của ông Nhưỡng cũng phải xử lý nghiêm. “Khi các cơ quan bảo vệ pháp luật đã quyết định xử lý thì phải có căn cứ. Pháp luật của chúng ta rất chặt chẽ, nhất là pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự. Vì vậy, để quyết định khởi tố một vụ án, một bị can, đặc biệt là áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt tạm giam là đã đầy đủ tài liệu, chứng cứ. Bộ luật Tố tụng hình sự quy định hết sức chặt chẽ, không một cơ quan nào có thể tự ý thực hiện. Toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra được VKSND cùng cấp kiểm sát trực tiếp, toàn diện và chịu trách nhiệm về việc phê chuẩn” – ông Nguyễn Văn Yên nêu rõ. Theo Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương Nguyễn Văn Yên, khi người dân chưa hiểu thì có thể còn băn khoăn nhưng hãy tin vào kết quả điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Việc một số tổ chức, cá nhân thù địch, phản động cố tình đánh tráo bản chất vụ án liên quan ông Lưu Bình Nhưỡng là thủ đoạn không mới. Các đối tượng cố tình định hướng dư luận theo hướng tiêu cực, biến một vụ án hình sự được điều tra như một vụ “tấn công người bảo vệ công lý”, miệt thị rằng “sống dưới chế độ độc tài cộng sản thì không có quyền cất lên tiếng nói tự do ngôn luận”; “lợi dụng pháp luật để áp tội tùy tiện, trù dập những người khiến họ không hài lòng”… Các đối tượng tung hô cá nhân vi phạm, miệt thị cơ quan tiến hành tố tụng để chống phá, hạ bệ, bôi nhọ hệ thống pháp luật Việt Nam; làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cơ quan công quyền, tiến tới quy kết, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc ở Việt Nam. Những luận điệu trên vốn dĩ không phải là thủ đoạn mới bởi từ trước đến nay, lợi dụng nhiều đối tượng bị bắt, các tổ chức, hội nhóm phản động như Việt Tân, Hội Anh em dân chủ, các hãng truyền thông hải ngoại thù địch với Việt Nam như RFA, RFI, VOA… đã đưa ra nhiều bài viết, hình ảnh có nội dung xuyên tạc, cố tình công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chức năng. Do vậy, người dùng mạng xã hội phải thật tỉnh táo trước những luận điệu xuyên tạc bởi mạng xã hội là miếng đất màu mỡ để các thế lực thù địch, phản cách mạng, phần tử cơ hội chính trị sử dụng thực hiện những thủ đoạn xấu chống phá Đảng, Nhà nước. Qua việc khởi tố ông Lưu Bình Nhưỡng một lần nữa cho thấy việc xử lý vi phạm không có vùng cấm, dù đó là người có chức vụ, quyền hạn hay một người dân bình thường. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chia sẻ khi tiếp xúc với cử tri rằng, không hay ho gì khi phải xử lý cán bộ, đồng chí của mình nhưng vì sự tồn vong của chế độ, của Đảng, đòi hỏi phải làm nghiêm, xử lý nghiêm. Đây cũng là một bài học đối với các cán bộ, đảng viên có chức quyền dù to hay nhỏ đều phải sống và làm theo pháp luật. Mọi sai phạm đều sẽ bị xử lý nghiêm, công bằng trước pháp luật, không có ngoại lệ.

TRUY NÃ ĐẶC BIỆT THÊM 6 NGHI CAN VỤ KHỦNG BỐ Ở ĐẮK LẮK!

     Các nghi phạm bị truy nã đặc biệt gồm:

Y Quynh Bdap (31 tuổi, ngụ huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk), có đặc điểm nhận dạng là sẹo 1 cm trên sau mép phải. Trước khi bỏ trốn, người này sinh sống tại huyện Krông Pắk, Đắk Lắk.

Y Chanh Byă (40 tuổi), trú xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, có đặc điểm nhận dạng là nốt ruồi 1,5 cm sau đầu mắt trái.

Y Bút Êban (39 tuổi), cùng trú xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông, có đặc điểm sẹo dài 1,5 cm cách 2 cm sau đầu mắt trái.

Y Niên Êya (45 tuổi, trú xã Tâm Thắng, huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông), có đặc điểm sẹo chấm cách 1 cm trên sau đầu mày phải.

Y Chik Niê (55 tuổi, trú xã Ea Yông, huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk).

Y Mut Mlô (63 tuổi, trú thị trấn Pơng Đrang, huyện Krông Búk, tỉnh Đắk Lắk), có nốt ruồi 2,5 cm trên trước dái tai trái.

Cơ quan an ninh điều tra nêu rõ: Bất cứ người nào phát hiện nhóm nghi can này cũng có thể bắt ngay và đưa đến cơ quan công an gần nhất./.

Theo: Thông tin Chính phủ.
Yêu nước ST.

Thứ Năm, 30 tháng 11, 2023

TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI THÙ ĐỊCH, BẢO VỆ VỮNG CHẮC NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG NHẰM XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ “THẾ TRẬN LÒNG DÂN”

 

 


Tăng cường hoạt động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, phòng, chống và làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Đây là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách hàng đầu trong các nhiệm vụ quốc phòng, an ninh của mọi tổ chức, mọi lực lượng, các cấp, các ngành, các địa phương, là giải pháp góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh. Theo đó, cần chủ động nghiên cứu, dự báo, đánh giá và nhận diện đúng về “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ; đồng thời, luôn kiên quyết đấu tranh, kiên trì quán triệt, thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ, quan điểm, phương châm, giải pháp đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của Đảng và Nhà nước.

Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động và đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là vấn đề mang tính nguyên tắc, giữ vai trò quyết định trong xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân”. Gắn nhiệm vụ này với đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo điều kiện để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.