Mác - Ăngghen chỉ rõ: “sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện
của sự nghèo nàn hiện thực vừa là sự phản kháng chống lại sự nghèo nàn hiện
thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của
thế giới không có trái tim, cũng như nó là tinh thần của những trật tự không có
tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”[1].
Theo quan
điểm của Mác thì chính con người đã sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo
sinh ra con người. Tôn giáo giống như “thuốc phiện” - bởi cả hai tác dụng của
chất này: gây nghiện và giảm đau. Tôn giáo dễ làm đầu óc nhân dân mụ mị, mê
muội song nó cũng là “chất giảm đau” xoa dịu nỗi thống khổ của nhân dân.
Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh” Ăngghen
khẳng định: tất cả mọi tôn giáo chẳng
qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người-những lực lượng ở bên
ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó các lực
lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật - lịch sử,
có thể hiểu tôn giáo là trên phương diện nghĩa rộng và nghĩa hẹp
- Theo nghĩa rộng: Tôn
giáo là một hình thái ý thức xã hội, gồm những quan niệm dựa trên cơ sở tin và
súng bái những lực lượng siêu tự nhiên"
Tôn giáo là
một hình thái ý thức xã hội; sinh ra từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Tôn giáo phản ánh xã hội một cách hư ảo, sùng bái
lực lượng siêu tự nhiên.
Các hiện tượng sấm, chớp, mây mưa được thần thánh
hóa.
Đạo Phật cho rằng vạn vật biến đổi theo chu trình
bất tận:sinh-trụ-dị-diệt, bất tận không có điểm khởi đầu không có điểm kết
thúc, giống như một vòng tròn luân hồi. Do vậy chết không phải là hết mà
là một sự tái sinh, đầu thai ở một kiếp khác theo vòng luân hồi.
Công giáo cho rằng con người là do Chúa tạo ra.
Con người có hai phần, thể xác và linh hồn. Thể xác là tạo vật như mọi tạo vật
khác, linh hồn là phần sinh khí do Thiên chúa giáo truyền vào. Con người khi
chết đi về với cát bụi, linh hồn tồn tại vĩnh viễn.
- Theo nghĩa hẹp: Tôn
giáo là hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức về lực lượng siêu
nhiên và tổ chức, hoạt động tôn thờ lực lượng siêu nhiên.
Tôn giáo là một thực thể xã hội, một thiết chế xã
hội- một lực lượng xã hội có tổ chức. Nó có hệ thống giáo lý, giáo luật, cơ sở
thờ tự, giáo dân, tín đồ....
Chú ý phân biệt:
Tín ngưỡng: Có nghĩa là sự ngưỡng mộ, niềm tìn đến
mức sùng bái vào một hay một số đấng siêu nhiên, lực lượng siêu tự nhiên nào đó
và những sức mạnh có thể thu nhận được từ các đấng siêu nhiên được tin tưởng,
ngưỡng mộ đến mức sùng tín.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu,
thờ các vị anh hùng có công với dân tộc, cộng đồng…
Tín ngưỡng gồm có: tín ngưỡng dân tộc (truyền
thống) là loại hình tín ngưỡng của từng dân tộc hoặc quốc gia dân tộc, hoặc
vùng miền, địa phương; và tín ngưỡng tôn giáo là một loại hình tín ngưỡng phát
triển đến trình độ cao, thể hiện ở chỗ có hệ thống giáo lý, hệ thống tổ chức,
lễ nghi và hệ thống cơ sở vật chất phục vụ các sinh hoạt tôn giáo.
Mê tín dị đoan: Mê tín là niềm tin mê muội, viển
vông quá mức, không dựa trên một cơ sở khoa học nào. Dị đoan là sự suy đoán một
cách nhảm nhí, tùy tiện, sai lệch những điều xảy ra trong cuộc sống. Mê tín dị
đoan là chỉ những hành động sai lệch quá mức, gây tổn hại cho cá nhân và cộng
đồng, được tạo ra bởi niềm tin mù quáng, nhảm nhí, mê muội… Đây là một biến
tướng của tín ngưỡng.
Các hiện tượng: bói toán, lên đồng, gọi hồn, chữa
bệnh bằng gọi thầy cúng, trừ tà ma…
Như vậy, tín ngưỡng tôn giáo và mê tín dị đoan đều là
niềm tin vào những lực lượng siêu nhiên, là vấn đề thuộc về đời sống tâm linh
của con người. Nhưng đây là các
hiện tượng tâm linh có nội dung, hình thức, đặc điểm và vai trò xã hội khác
nhau, cần phải được phân biệt để có chính sách, biện pháp phù hợp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét