Vào cuối năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược đang diễn ra trong tình thế “châu chấu đá voi”, đất nước giữa lúc nước sôi, lửa bỏng, Đảng, Chính phủ ngập trong bộn bề công việc, dốc sức lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân và dân ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc... thì Chủ tịch Hồ Chí Minh dành thời gian, trí tuệ, tâm sức để viết và cho ra đời tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”.
Sự ra đời của tác phẩm hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà là vì tình hình thực tế cách mạng Việt Nam lúc đó đặt ra cấp bách vấn đề phải đổi mới lối làm việc trên cơ sở sửa chữa, chấn chỉnh những lề lối làm việc cũ, lạc hậu, sai sót của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng theo những chuẩn mực, nguyên tắc, quy định làm việc của một đảng cầm quyền.
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh hoàn thành trong tháng 10-1947, ký bút danh X.Y.Z. Đây là tác phẩm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp trình bày một cách hệ thống tư tưởng đổi mới về xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, trong đó “Vấn đề cán bộ” của Đảng có nội dung, ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Vấn đề này bao gồm những việc Đảng phải tập trung giải quyết là: Huấn luyện cán bộ; dạy cán bộ và dùng cán bộ; lựa chọn cán bộ; cách đối với cán bộ; chính sách cán bộ. Tuy nhiên, với góc độ “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm và cách thức khắc phục nhằm làm cho đội ngũ cán bộ của Đảng ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “vấn đề cán bộ là một vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp”. Để giải quyết vấn đề này, có nhiều việc phải làm đồng bộ theo những nguyên tắc, yêu cầu và bằng cách thức hợp lý, khoa học, cụ thể, trong đó “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng” đặt lên trước. Tuy nhiên, cho đến thời điểm cuối năm 1947, đa số cán bộ vì nhiều lý do khác nhau mà chưa được huấn luyện chu đáo. Một số nơi có mở được lớp huấn luyện, nhưng còn quá nhiều khuyết điểm.
Đó là nội dung huấn luyện không sát với đối tượng, lý luận không ăn khớp với thực tế, dạy theo cách học thuộc lòng... nên “học rồi” mà “không dùng được”. Không chỉ nhìn thấy hạn chế, bất cập trong công tác huấn luyện mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn hướng dẫn một cách rất thấu đáo, cụ thể việc sửa chữa khuyết điểm.
Người đặt ra yêu cầu: “Những cơ quan lãnh đạo và những người phụ trách phải có kế hoạch dạy cho cán bộ một cách toàn diện cả về chuyên môn nghiệp vụ, văn hóa, chính trị, lý luận... nhưng phải gắn với yêu cầu công việc của từng cán bộ mà lựa chọn nội dung phù hợp, sao cho huấn luyện phải thiết thực và “Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy”.
Trong vấn đề cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới việc xem xét, cất nhắc cán bộ. Người nhận thấy: “Từ trước đến nay, Đảng ta chưa thực hành cách thường xem xét cán bộ. Đó là một khuyết điểm to. Kinh nghiệm cho ta biết: Mỗi lần xem xét lại nhân tài, một mặt thì tìm thấy những nhân tài mới, một mặt khác thì những người hủ hóa cũng lòi ra”.
Người chỉ rõ, trước khi cất nhắc cán bộ phải biết rõ cán bộ, “Biết rõ ràng cán bộ, mới có thể cất nhắc cán bộ một cách đúng mực”. Để “biết rõ” cán bộ thì phải xem xét cán bộ một cách thật sự khoa học, chu đáo, cẩn trọng. Theo Người, việc xem xét để “hiểu biết cán bộ” cố nhiên là việc khó và người đi xem xét cán bộ “càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”.
Từ thực tế, Người đã chỉ ra 4 chứng bệnh thường phạm phải trong xem xét cán bộ mà chỉ phạm một trong những chứng bệnh đó thì cũng như “mắt đã mang kính màu” không bao giờ hiểu đúng cán bộ. 4 chứng bệnh cần phải khắc phục đó là: Tự cao, tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu ghét của mình mà đối với người; đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau.
Điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm trong xem xét cán bộ không chỉ là phẩm chất đạo đức, phong cách mà còn đồng thời là phương pháp, trình độ năng lực xem xét cán bộ. Người đã vận dụng nhuần nhuyễn “phương pháp làm việc biện chứng” mà theo Người vốn là ưu điểm lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào xem xét cán bộ.
Người chỉ rõ “cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa”. Về thực chất cách xem xét này là đặt cán bộ trong trạng thái “động” với những biến đổi có thể xảy ra theo những khuynh hướng và biểu hiện đa dạng, không nhất thành bất biến, không theo đường thẳng, không giống nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai...
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, xem xét cán bộ phải dựa vào hiện tượng, nhưng phải đi từ nhiều hiện tượng “ngoài mặt” mà đi sâu tìm ra tính chất của cán bộ. Điều chỉ dẫn này thật sâu sắc, vì không phải bao giờ bản chất và hiện tượng cũng thống nhất hoàn toàn, cũng sáp nhập vào nhau làm một. Xem xét cán bộ phải toàn diện và cụ thể, “không chỉ xem xét một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ”.
Như thế, xem xét cán bộ là một quá trình liên tục, đòi hỏi phải sử dụng nhiều phương pháp khoa học, trong đó không thể thiếu phương pháp lịch sử và logic. Điểm rất đáng chú ý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra là nếu xem xét cán bộ một cách toàn diện, đi từ hiện tượng đến bản chất thì thấy được có những cán bộ “tuy họ làm được việc cũng không phải là cán bộ tốt” và có cán bộ “dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”.
Tư tưởng, đạo đức, phong cách, năng lực, nhân cách của cán bộ không chỉ biểu hiện trong công tác mà còn biểu hiện trong sinh hoạt, không chỉ trong nói, viết mà trong hành động, không chỉ trong một quan hệ mà nhiều quan hệ, với cả những ưu điểm và khuyết điểm.
Chính vì thế, Người yêu cầu trong xem xét cán bộ: “Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối với người khác thế nào.
Ta nhận họ tốt, còn phải xét số nhiều đồng chí có nhận họ tốt hay không...”. Liên hệ vào thực tế, chúng ta không khó nhận thấy những biểu hiện xem xét cán bộ chưa quán triệt đầy đủ, sâu sắc những yêu cầu này nên đã dẫn đến đánh giá, cất nhắc, sử dụng cán bộ không đúng.
Thiết nghĩ, để thực hiện tốt những yêu cầu trong xem xét cán bộ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra thì người đi xem xét cán bộ phải khắc phục bệnh chủ quan, hẹp hòi, phiến diện... không được rơi vào chủ nghĩa chiết trung và thuật ngụy biện.
Trên cơ sở xem xét cán bộ thì việc “cần kíp” cần giải quyết là “cất nhắc cán bộ”. Yêu cầu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra là phải cất nhắc một cách cho đúng và “phải có gan cất nhắc cán bộ. Cất nhắc cán bộ, phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái”. Người cảnh báo rằng, “nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang, nhất định không ai phục, mà gây thêm mối lôi thôi trong Đảng.
Như thế là có tội với Đảng, có tội với đồng bào”. Theo Người, việc cất nhắc cán bộ phải tiến hành “cẩn thận”, “đúng mực”, đúng người, đúng việc dựa trên cơ sở “biết rõ ràng cán bộ”. Người yêu cầu, khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người cán bộ đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng Nhân dân tin cậy và mến phục không, đồng thời phải xem người cán bộ ấy xứng đáng, phù hợp với công việc gì; nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ thì cũng “không được việc”.
Điều thể hiện giá trị nhân văn sâu sắc trong cất nhắc cán bộ mà Người chỉ ra là: “Cất nhắc cán bộ, không nên làm như “giã gạo”. Nghĩa là trước khi cất nhắc không xem xét kỹ. Khi cất nhắc rồi không giúp đỡ họ. Khi họ sai lầm thì đẩy xuống, chờ lúc họ làm khá, lại cất nhắc lên.
Một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần như thế là hỏng cả đời. Đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét rõ ràng trước khi cất nhắc. Mà sau khi đã cất nhắc phải giúp đỡ họ, khuyên gắng họ, vun trồng lòng tự tin, tự trọng của họ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu “phải khéo dùng cán bộ”. Người phê phán những chứng bệnh là: “Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn người ngoài. Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét những người chính trực. Ham dùng những người tính tình hợp với mình, mà tránh những người tính tình không hợp với mình”.
Những chứng bệnh đó đã đưa đến làm hỏng cả công việc của Đảng, hỏng cả danh giá của người lãnh đạo. Quá trình sử dụng cán bộ dù họ là người trong hay ngoài Đảng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đều phải thực hiện tốt 5 cách: “Chỉ đạo”, “Nâng cao”, “Kiểm tra”, “Cải tạo” và “Giúp đỡ”.
5 cách này phải được kết hợp chặt chẽ, vận dụng linh hoạt, không cứng nhắc, máy móc, “thả cho họ làm” để phát huy tinh thần sáng tạo; “tìm cách cho họ học thêm lý luận và cách làm việc” để họ ngày càng tiến bộ; gắn với “kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm”; khi vấp phải sai lầm thì thuyết phục giúp họ sửa chữa; và “phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà làm việc”...
75 năm đã trôi qua, nhưng những nội dung căn cốt về “vấn đề cán bộ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh viết trong “Sửa đổi lối làm việc” vẫn đang là một vấn đề thời sự hết sức nóng hổi và là “vấn đề rất trọng yếu, rất cần kíp” của Đảng ta hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang tiếp tục thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về “vấn đề cán bộ” trong tác phẩm này và những chỉ dẫn quý giá của Người trong hơn 20 năm sau vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo đó, Đảng luôn coi trọng đổi mới lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Song, công tác cán bộ vẫn còn hạn chế cần phải khắc phục.
Nổi lên là “việc thể chế hóa, cụ thể hóa chủ trương của Đảng về một số nội dung trong công tác cán bộ còn chậm, còn một số ít nội dung chưa thống nhất giữa pháp luật của Nhà nước với quy định của Đảng. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, mặc dù đã có nhiều đổi mới nhưng vẫn còn không ít trường hợp chưa phản ánh đúng thực chất. Việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử có nơi chưa bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, quy trình, cá biệt có nơi bố trí người nhà, người thân chưa đủ uy tín. Chính sách cán bộ chưa thực sự tạo động lực để cán bộ toàn tâm, toàn ý với công việc”.
Để khắc phục những hạn chế đó, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp mà Đảng ta đã chỉ ra, trong đó cần: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế Đảng lãnh đạo công tác cán bộ, cải cách thủ tục hành chính và đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ. Kiểm soát chặt chẽ quyền lực trong từng khâu của công tác cán bộ. Kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ. Xử lý nghiêm đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng với kỷ luật của Nhà nước”.
Đồng thời quán triệt và thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác cán bộ, “phải xác định đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là nhiệm vụ “then chốt” của “then chốt”, có liên quan đến sự sống còn của Đảng, vận mệnh của chế độ, sự phát triển, vững mạnh của đất nước... nhưng cũng “cực kỳ phức tạp, khó khăn, vì nó liên quan đến con người, là “công tác con người”.
Vì thế công tác cán bộ nói chung, công tác nhân sự nói riêng “phải được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, khoa học và nhất quán, bảo đảm thật sự công tâm, thật sự trong sáng, khách quan, đặc biệt phải “có con mắt tinh đời” trong việc đánh giá, giới thiệu, lựa chọn; lấy tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và hiệu quả công tác, uy tín của bản thân và gia đình làm thước đo chủ yếu.
Phải trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn, tiêu chí để đánh giá đúng cán bộ, lựa chọn đúng người, sắp xếp đúng việc, bố trí đúng chỗ”. Điều quan trọng nhất hiện nay là “nói phải đi đôi với làm” trên cơ sở nhận thức đầy đủ, sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về công tác cán bộ và triển khai một cách chủ động, khoa học, quyết liệt với đủ dũng khí, niềm tin thì việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng mới có thể đạt hiệu quả như Đảng và nhân dân ta mong muốn.
ST (Theo QĐND)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét