Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được Đảng ta xác định là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối, quan điểm, chính sách phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự kế thừa và
phát triển về tư duy, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, có tính khái quát cao, là kết tinh trí tuệ và sức sáng tạo của toàn dân tộc, vừa có tính tổng kết lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn, phản ánh ý chí và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta về phát triển đất nước nhanh và bền vững.Tuy nhiên, bất chấp
thực tế đó cũng như những thành tựu Việt Nam đã đạt được sau hơn 35 năm đổi
mới, các thế lực thù địch vẫn không ngừng tuyên truyền những luận điểm sai trái,
xuyên tạc bác bỏ kinh tế thị trường định hướng XHCN của Việt Nam. Thực tế này
đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh chống lại những quan
điểm sai trái về vấn đề này.
Phát triển kinh tế thị
trường định hướng XHCN - bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng ta thời kỳ
đổi mới, là sự lựa chọn khách quan, phù hợp xu thế vận động chung của nền kinh
tế thế giới. Tuy nhiên, đề cập đến mô hình kinh tế này, một số luận điểm cho
rằng, kinh tế thị trường và định hướng XHCN như "nước và lửa" không
thể kết hợp được với nhau, kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản (CNTB),
Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN là trái quy luật... Đây
đều là sự xuyên tạc vô căn cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, kể từ khi xã
hội có sự phân chia thành giai cấp và sự xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế
ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định hướng chính trị của một giai cấp
nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay quyền lực nhà nước, thông
qua nhà nước, giai cấp cầm quyền sẽ đề ra những chủ trương, chính sách nhằm bảo
vệ tối đa cho quyền và lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Do đó,
điểm khác nhau cơ bản giữa kinh tế thị trường TBCN và kinh tế thị trường định
hướng XHCN là ở chỗ chúng được định hướng bởi những nền chính trị của các giai
cấp cầm quyền khác nhau và phát triển theo những mục tiêu khác nhau. Nếu kinh
tế thị trường TBCN được định hướng bởi nền chính trị, nhà nước của giai cấp tư
sản, hướng tới mục tiêu tăng trưởng tối đa nhằm phục vụ tốt nhất cho lợi ích
của giai cấp tư sản thì kinh tế thị trường định hướng XHCN được định hướng bởi
nền chính trị của giai cấp công nhân - giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất
với lợi ích của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc. Vì vậy, những đường lối,
chính sách phát triển kinh tế mà nhà nước xã hội chủ nghĩa đưa ra trong khi
phục vụ, bảo vệ cho lợi ích của giai cấp công nhân cũng đồng thời phục vụ, bảo
vệ lợi ích của các giai tầng khác trong xã hội. Bởi thế, một trong những nét
đặc trưng mang bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN là không hy sinh
tiến bộ, công bằng xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn
thuần, trái lại, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội trong từng bước đi, từng chính sách và suốt quá trình phát
triển.
Lịch sử hình thành và
phát triển của xã hội loài người chứng minh: kinh tế thị trường không phải là
sản phẩm riêng có của CNTB, đó là thành tựu phát triển cao của nền văn minh
nhân loại, không thể và cũng chưa bao giờ là độc quyền của CNTB. Điều đó đồng nghĩa
với việc các nước XHCN đều có thể sử dụng mô hình kinh tế này để thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển theo mục đích của mình.
Hiện đang xuất hiện
một số luận điểm tập trung chứng minh: khi xác định kinh tế tư nhân là một động
lực quan trọng của nền kinh tế nghĩa là Việt Nam đang "xoay trục"
sang phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN, định hướng XHCN chỉ là mị
dân, hình thức. Đây hoàn toàn là ý kiến xuyên tạc, bịa đặt. Có thể thấy, trong
thời kỳ quá độ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng quan hệ sản xuất
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế (kinh tế nhà nước; kinh tế tập
thể, kinh tế hợp tác; kinh tế tư nhân; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phù hợp
trình độ không đồng đều của lực lượng sản xuất, nhằm huy động tối đa sức mạnh
của mọi thành phần kinh tế, mọi giai tầng xã hội vào phát triển kinh tế, bảo
đảm kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tốc độ tăng trưởng cao.
Đảng, Nhà nước ta xác
định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, do đó sẵn sàng
tạo mọi điều kiện thuận lợi, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển ở tất cả
các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm để tạo đà cho sự phát triển chung
của nền kinh tế. Nhờ đó, thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam đang có những
bước phát triển mạnh mẽ. Qua 35 năm đổi mới "kinh tế tư nhân liên tục duy
trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỷ trọng từ 39-40% GDP; thu hút khoảng 85%
lực lượng lao động của nền kinh tế, tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp
chiếm khoảng 34,1%,... góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội
cho đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân
dân, bảo đảm an sinh xã hội". Đại hội XIII của Đảng đề ra mục tiêu: phấn
đấu đến năm 2030, tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60
đến 65%.
Tuy nhiên, coi kinh tế
tư nhân là một động lực quan trọng không đồng nghĩa với việc chúng ta "tư
nhân hóa" nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế theo con đường tư bản
chủ nghĩa. Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng nhưng kinh tế nhà nước
mới là thành phần giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà
nước ổn định kinh tế vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy sự phát triển của các
thành phần kinh tế (trong đó có kinh tế tư nhân) theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo đảm tăng trưởng kinh
tế gắn liền với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Như vậy, bản thân
kinh tế tư nhân ở Việt Nam cũng được định hướng hoạt động và phát triển phù hợp
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chung của Đảng và
Nhà nước chứ không phải phát triển một cách tự phát.
Thực tế cho thấy, dưới
sự định hướng theo những nguyên tắc thuộc về bản chất của chủ nghĩa xã hội,
phần lớn các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân ở Việt Nam luôn nêu
cao việc thực hiện đạo đức kinh doanh, trách nhiệm xã hội và xác định mục tiêu
phát triển của mình là góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhằm hiện thực hóa
những mục tiêu của CNXH: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Do
đó, trong những trường hợp cần thiết, họ có thể chấp nhận hy sinh lợi ích, lợi
nhuận trước mắt để bảo vệ cho lợi ích chung của nhân dân. Điều này có thể thấy
rất rõ trong thời gian chống dịch COVID-19 vừa qua, hưởng ứng chủ trương chung
của Đảng, Nhà nước sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế trước mắt để bảo vệ tốt
nhất sức khỏe và tính mạng cho nhân dân, nhiều doanh nghiệp tư nhân mặc dù sản
xuất, kinh doanh cũng đang chịu nhiều thiệt hại, thua lỗ bởi dịch bệnh nhưng
vẫn sẵn sàng đóng góp bằng nhiều hình thức khác nhau để phục vụ công tác chống
dịch.
Với chủ trương cổ phần
hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước Việt Nam, một số
quan điểm cho rằng, chủ trương này thực chất là việc tiến hành "tư nhân
hóa" nền kinh tế quốc dân, phát triển kinh tế thị trường theo hướng TBCN.
Song thực tế đã chứng minh, chủ trương này ra đời xuất phát từ thực tế một số
doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả, do đó cần cổ phần hóa, cấu trúc
lại nhằm huy động vốn đầu tư từ chủ thể của các thành phần kinh tế khác, qua
đó, nâng cao hiệu quả quản lý và hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước, góp
phần xây dựng thành phần kinh tế nhà nước phát triển vững mạnh, thật sự xứng
đáng trở thành nòng cốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Hầu
hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hóa đều có tốc độ tăng trưởng cao
hơn, hoạt động hiệu quả hơn. Chẳng hạn như trường hợp của Vinamilk sau khi cổ
phần hóa, thoái vốn nhà nước, quy mô tài sản liên tục gia tăng, khả năng tự chủ
tài chính được cải thiện. Tính đến hết năm 2020, Vinamilk đã xuất khẩu đến 55
quốc gia và vùng lãnh thổ với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 2,4 tỷ USD. Hay
Sabeco, việc tiến hành cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước, thay đổi toàn diện
chiến lược kinh doanh là nhân tố chính giúp Sabeco trở thành một trong những
công ty dẫn đầu ngành rượu, bia, nước giải khát tại thị trường Việt Nam và
trong khu vực...
Đặc biệt, trong chủ
trương cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước cũng có quy định
rõ về 13 ngành, lĩnh vực Nhà nước giữ 100% vốn điều lệ; bảy ngành, lĩnh vực,
Nhà nước nắm từ 65% vốn điều lệ trở lên(4). Đây đều là những lĩnh vực then
chốt, thiết yếu liên quan trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
thực hiện nhiệm vụ chính trị, quốc phòng - an ninh để giữ vững vai trò chủ đạo,
định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường của kinh tế nhà nước.
Những luận điệu phê phán,
phủ nhận, xuyên tạc bản chất của mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở
Việt Nam hiện nay của các thế lực thù địch đều nhằm hướng đến một đích đến duy
nhất là làm chệch hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị trường, từ đó làm
chệch quỹ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, cần hết sức tỉnh táo
nhận diện và kiên quyết đấu tranh, phản bác các quan điểm sai lầm, phi lý và vô
căn cứ này; tiếp tục giữ vững niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét