Giữ vững chính quyền cách mạng - nhân tố quyết định đến thắng lợi của của cách mạng Việt Nam
Trong bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
"Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một
nước Việt Nam ngày càng giàu ạnh, văn minh và anh hùng" đã khái quát vai
trò lãnh đạo của Đảng, tập trung nêu bật một số thành tựu mà Việt Nam đạt được
từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo cách mạng 94 năm qua.
Bài viết này đề cập đến sự lãnh đạo sáng suốt tài
tình của Đảng đã đưa cách mạng ta vượt qua muôn vàn khó khăn, giữ vững chính
quyền cách mạng, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã phải đương đầu với muôn vàn khó khăn,
thử thách: giặc đói, giặc dốt và giặc ngoai xâm. Chưa bao giờ đất nước ta cùng
một lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù hung bạo và xảo quyệt như lúc này, trong
đó, nguy hiểm nhất là thực dân Pháp. Ngày 23-9-1945, quân Pháp nổ súng đánh
chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược nước ta lần thứ hai. Vận mệnh nước Việt Nam
mới “như ngàn cân treo sợi tóc”.
Trước tình hình đó, ngày 03-9-1945, trong phiên họp
đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nêu 6 nhiệm vụ cấp
bách, để củng cố chính quyền cách mạng. Đồng thời, chỉ rõ ba nhiệm vụ lớn: diệt
giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Ngày 25/11/1945, Thường vụ Trung
ương Đảng ra Chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”, cùng với xác định tính chất, kẻ
thù và lực lượng cách mạng, Chỉ thị chỉ rõ 4 nhiệm vụ cấp bách của cách mạng
Việt Nam: "Củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng; chống thực dân Pháp
xâm lược; bài trừ nội phản; cải thiện đời sống nhân dân".
Trong 4 nhiệm vụ trên, nhiệm vụ củng cố, giữ vững
chính quyền cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm, bao trùm, là nhiệm vụ hết sức khó
khăn, nặng nề và có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cách mang. Bởi vì, theo lý
luận chủ nghĩa lý luận chủ nghĩa Mác- Lênin:
“Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc
cách mạng”. Lênin chỉ rõ “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó
hơn”. Phát triển tư tưởng của Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: “Giành chính
quyền càng dễ bao nhiêu thì giữ chính quyền càng khó bấy nhiêu”. Thực tế cách
mạng thế giới và Việt Nam đã chứng minh: Chính quyền còn là còn tất cả, mất
chính quyền là mất tất cả!
Vì vậy, chỉ đạo xây dựng, củng cố chính quyền nhà
nước, Chính phủ ban hành Sắc lệnh Tổng tuyển cử trong cả nước để bầu Quốc dân
Đại hội và ấn định Hiến pháp của nước Việt Nam mới. Trong hoàn cảnh vô cùng
phức tạp, bọn đế quốc, phản động ra sức quấy phá, Chính phủ kiên quyết lãnh
đạo, tổ chức cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên của nước Việt Nam mới. Nhân dân cả
nước nô nức đi bầu cử. Những đại biểu do Mặt trận Việt Minh giới thiệu đều đạt
được sự tín nhiệm tuyệt đối. Chủ tịch Hồ Chí Minh trúng cử với số phiếu cao nhất
98,4%. Nhân dân cả nước đã bầu 333 đại biểu vào Quốc hội đầu tiên của nước Việt
Nam mới. Tại Kỳ họp thứ nhất, Quốc hội nhất trí tuyên bố “Chủ tịch Hồ Chí Minh
xứng đáng với Tổ quốc” và trao cho Người quyền thành lập Chính phủ mới. Chính
phủ mới - Chính phủ Liên hiệp kháng chiến được Quốc hội thông qua, do Hồ Chí
Minh làm Chủ tịch. Từ đây, quyền làm chủ nước nhà, quyền và nghĩa vụ của công
dân, hệ thống chính quyền nhà nước các cấp được thể chế trong Hiến pháp.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước ta phát động chiến
dịch tăng gia sản xuất và cứu đói. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân và
Người đã gương mẫu thực hiện “nhường cơm sẻ áo” bằng cách “cứ 10 ngày nhịn ăn
một bữa”, đem gạo đó để cứu dân nghèo. Nhà nước còn tiến hành tịch thu ruộng
đất của đế quốc, Việt gian chia cho nông dân nghèo, chia lại ruộng đất công một
cách công bằng, hợp lý và ra Thông tư giảm tô 25% cho nông dân; mở lại các nhà
máy do Nhật bỏ lại, tiến hành khai thác mỏ, khuyến khích kinh doanh... Nhà nước
xây dựng “Quỹ độc lập”, tổ chức “Tuần lễ vàng”, kết quả đồng bào cả nước đã góp
được 370 kg vàng, 60 triệu đồng... tạo ra niềm tin của Đảng, Nhà nước với nhân
dân.
Đặc biệt, để có thêm thời gian chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến mà dân tộc ta không tránh khỏi, Đảng, Nhà nước ta đành phải nhân
nhượng, tránh đối đầu cùng lúc với các lực lượng quân đội đang có mặt trên đất
nước ta, qua đó, lợi dùng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù và sự nhân nhượng có
nguyên tắc để từng bước đánh bại chúng.
Hoà với Tưởng để đánh Pháp ở Nam Bộ, Đảng ta cung
cấp lương thực cho quân Tưởng (mặc dù dân tộc ta đang ra cứu cứu đói), cho bọn
tay sai của Tưởng 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, Đảng ta tự giải thể,
chỉ để lại bộ phận nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin (Đảng ta đi vào hoạt động bí
mật, cương quyết không chia sẻ quyền lãnh đạo... ). Từ nhân nhượng ấy, ta không
chỉ từng bước phá được âm mưu thủ đoạn của Tưởng và tay sai mà còn có thời gian
đánh Pháp ở Nam bộ.
Còn hòa với Pháp là hòa với kẻ thù chính để loại
Tưởng - bớt một kẻ thù trực tiếp nguy hiểm và tranh thủ trạng thái không có
chiến tranh để xây dựng đất nước, chuẩn bị lực lượng đối phó với một cuộc chiến
tranh lớn nếu kẻ thù cố tình gây ra. Đó là một điều khá đặc biệt được đặt ra và
giải quyết trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt! Vì vậy, sự hoà hoãn giữa ta và
Pháp được ký kết bằng Hiệp định Sơ bộ 6/3 và Tạm ước ngày 14/9. Đây không chỉ
được xem là giải pháp tình thế, những phương thuốc hồi sinh cho Nam Bộ và miền
Nam Trung Bộ, mà còn là thời gian vàng để chúng ta chuẩn bị mọi mắt, sẵn sàng
bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Vì vậy, sau khi Hiệp định Sơ bộ 6/3, theo quy định,
Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra thay Tưởng ở miền, sau 5 năm phải rút
hết quân. Hai bên đình chiến ở Nam bộ để đi đến đàm phán chính thức, tìm kiếm
một giả pháp hòa bình... Thế nhưng, lời dụng nội dung này, các lực lượng phản
động lên tiếng xuyên tạc tinh thần, nội dung của Hiệp định, vu cáo Đảng và Chủ
tịch Hồ Chí Minh bán nước, rước quân xâm lược vào miền Bắc. Một bộ phận cán bộ,
đảng viên, quần chúng không nắm rõ tình hình, cũng cho là Đảng hữu khuynh, nhân
nhượng Pháp quá nhiều…
Song, sự thật không phải như vậy! Phát biểu ngay
sau khi ký Hiệp định, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ: “Chúng tôi không thoả mãn
vì chúng tôi chưa giành được hoàn toàn độc lập, nhưng rồi chúng tôi sẽ giành
được độc lập hoàn toàn” . Ngày 7/3/1946, phát biểu với nhân dân Thủ đô, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã giải thích rõ thêm về Hiệp định; nêu bật ý nghĩa, lợi ích
của việc ký Hiệp định, yêu cầu đồng bào bình tĩnh, đoàn kết, đề cao cảnh giác
để tránh mắc mưu kẻ thù.
Như vậy, trong điều kiện vô cùng khó khăn và trong
thời gian rất ngắn, Đảng, Nhà nước, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với chủ
trương sáng suốt, vừa vững vàng về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách lược, đã
tăng cường được thực lực cách mạng, xây dựng, củng cố và giữ vững chính quyền
cách mạng, bảo vệ thành quả của cuộc Cách mạng Tháng Tám, đưa con thuyền cách
mạng Việt Nam vượt qua thác ghềnh hiểm trở trong những năm 1945-1946, chuẩn bị
điều kiện và lực lượng bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. “Những
biện pháp cực kỳ sáng suốt đó đã được ghi vào lịch sử cách mạng nước ta như một
mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít” , để rồi 9 năm sau, dân tộc Việt Nam
đã làm nên một Điện Biên Phủ "nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng",
lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Hiện nay, cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để nâng cao hiệu, hiệu lực quản lý của chính quyền từ
Trung ương đến địa phương, bên cạnh tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính
quyền các cấp cần thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng", phát huy triệt để quyền làm
chủ của nhân dân. Đồng thời, không ngừng đẩy mạnh các hoạt động ngoại giao Nhà
nước trên cơ sở "ngoại giao cây tre Việt Nam" - "Dĩ bất biến,
ứng vạn biến", góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu của Đảng, Nhà nước đề
ra.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét