Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2022

Quan tâm thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng

 Ưu đãi người có công (NCC) với cách mạng là một chính sách đặc biệt của Đảng, Nhà nước nhằm tri ân, tôn vinh NCC với cách mạng. Thực hiện chính sách ưu đãi NCC với cách mạng là trách nhiệm, là tình cảm của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với những người đã không tiếc thân mình hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc với các thương binh nặng tiêu biểu nhân kỷ niệm Ngày Thương binh - Liệt sĩ 27-7 

THỰC HIỆN CÁC CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI NCC

Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng được ban hành năm 1994, đến nay, đã 8 lần sửa đổi, bổ sung. Để quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành hành Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng, Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và và các Bộ đã ban hành các văn bản gồm: Nghị định, Quyết định, Thông tư, Thông tư liên tịch để triển khai toàn diện chính sách ưu đãi đối với NCC với cách mạng. Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng là văn bản pháp lý quan trọng, thể chế hóa chủ trương, đường lối chỉ đạo của Đảng về công tác NCC với cách mạng, là nền tảng pháp lý cho các cấp chính quyền tổ chức triển khai việc xác nhận, công nhận NCC và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của NCC và thân nhân NCC với cách mạng.

Pháp lệnh đã bổ sung các nguyên tắc thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi NCC với cách mạng theo tinh thần Chỉ thị số 14-CT/TW ngày 19/7/2017 của Ban Bí thư về “Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác NCC với cách mạng” như: Chăm lo sức khỏe, đời sống vật chất, tinh thần của NCC với cách mạng và thân nhân của NCC với cách mạng; chế độ ưu đãi NCC với cách mạng và thân nhân của NCC với cách mạng được xác định và điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước trong từng thời kỳ, bảo đảm mức sống của NCC với cách mạng bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cộng đồng dân cư nơi cư trú.

Một số đối tượng NCC với cách mạng được bổ sung như: Mở rộng đối tượng người bị địch bắt tù, đày do trực tiếp hoạt động cách mạng trực tiếp chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế sau năm 1975; mở rộng đối tượng người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc; người được Nhà nước khen tặng Huân chương Chiến thắng, Huy chương Chiến thắng; bổ sung đối tượng hưởng ưu đãi về chính sách bảo hiểm y tế đối với vợ hoặc chồng liệt sĩ lấy chồng hoặc vợ khác mà nuôi con liệt sĩ đến tuổi trưởng thành hoặc chăm sóc cha đẻ, mẹ đẻ liệt sĩ khi còn sống hoặc vì hoạt động cách mạng mà không còn điều kiện chăm sóc cha đẻ, mẹ đẻ liệt sĩ khi còn sống.

Các chế độ ưu đãi NCC, các chế độ về chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp nhà ở, ưu đãi giáo dục và các phong trào đền ơn đáp nghĩa luôn được Nhà nước và nhân dân thường xuyên quan tâm, thực hiện. Cụ thể, thực hiện cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và trợ cấp ưu đãi người có công, chế độ trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đã qua nhiều lần điều chỉnh, từng bước khắc phục những hạn chế về mức, về nguyên tắc và phương thức điều chỉnh độc lập với chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, phù hợp với điều kiện của ngân sách Nhà nước, góp phần từng bước cải thiện nâng cao đời sống của NCC. Mức chuẩn để xác định mức trợ cấp ưu đãi NCC năm 2012 là 1.110.000 đồng, đến năm 2019 mức chuẩn là 1.624.000 đồng (cao hơn mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng của cán bộ, công chức hiện nay).

Các phong trào Đền ơn đáp nghĩa được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các bộ, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, các tổ chức và cộng đồng xã hội tích cực hưởng ứng, trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc.

Bằng các nguồn xã hội hóa, với nhiều hình thức phong phú, thiết thực, tính từ năm 2012 - 2021, tổng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa cả nước huy động được gần 7.370 tỷ đồng, trong đó quỹ Trung ương đạt gần 45 tỷ đồng, quỹ địa phương đạt hơn 7.320 tỷ đồng. Về hỗ trợ nhà tình nghĩa, cả nước đã vận động được trên 13.000 tỷ đồng để hỗ trợ cho gần 153.300 hộ gia đình NCC xây dựng mới trên 84.000 căn nhà và sửa chữa trên 69.000 căn nhà. Tặng gần 126.000 sổ tiết kiệm cho gia đình chính sách với tổng số tiền trên 1.000 tỷ đồng và hỗ trợ một số trường hợp đặc biệt khó khăn. Hiện nay, còn 3.625 Bà mẹ Việt Nam anh hùng còn sống được các tổ chức nhận chăm sóc, phụng dưỡng suốt đời.

Cùng với chế độ chính sách của Đảng, Nhà nước, sự chung tay góp sức của cộng đồng xã hội đã góp phần tích cực động viên, khích lệ tinh thần, đồng thời, giúp một bộ phận gia đình NCC với cách mạng cải thiện cuộc sống. Đến nay, 98,6% hộ NCC có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú, 99% xã phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ. Phấn đấu năm 2025, đạt 100% hộ gia đình NCC với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống của người dân địa phương nơi cư trú.

Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng tạo điều kiện thuận lợi để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công _Ảnh: Trịnh Hải

Những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng tạo điều kiện thuận lợi để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần đối với người có công 

THỰC HIỆN ĐỒNG BỘ CÁC CHẾ ĐỘ ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NCC

Qua các lần sửa đổi bổ sung, Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng và các văn bản hướng dẫn đã kịp thời điều chỉnh các vấn đề bất cập, tồn tại. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, mặc dù hệ thống văn bản pháp luật về NCC ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn không bao quát, giải quyết triệt để được những tình huống, trường hợp cụ thể, cá biệt trong quá trình xem xét, công nhận NCC với cách mạng tại các địa phương.

Thứ nhất, việc giải quyết hồ sơ xác nhận NCC không còn lưu giữ giấy tờ gốc là vấn đề phức tạp. Phần lớn trường hợp tồn đọng là các đối tượng hoạt động cách mạng thời chống Pháp, chống Mỹ, hồ sơ, thủ tục không đầy đủ, nhiều hồ sơ không có thông tin liên quan đến việc hy sinh hoặc bị thương, bị bệnh của các đối tượng; nhiều trường hợp đã có kết luận của các cơ quan có thẩm quyền không đủ cơ sở để xem xét, giải quyết nhưng vẫn tiếp tục gửi đề nghị, kiến nghị giải quyết chính sách. Vì vậy, trong quá trình xem xét xác nhận, cán bộ làm công tác giải quyết hồ sơ NCC luôn thận trọng, nghiên cứu, tìm đọc các sự kiện lịch sử liên quan, tìm nhân chứng qua nhiều nguồn nhằm tránh xảy ra sai sót trong việc xác nhận NCC. Do vậy, quá trình xem xét, giải quyết từng hồ sơ cụ thể nhiều khi kéo dài, không đáp ứng được yêu cầu và mong mỏi của đối tượng.

Thứ hai, công tác kiểm tra, thanh tra việc thực hiện chính sách ưu đãi NCC cho thấy tại một số địa phương đã phát hiện một số trường hợp lập hồ sơ giả trong việc khám giám định, di chuyển để thụ hưởng chính sách ưu đãi NCC.

Thứ ba, hằng năm, cả nước có gần 600 nghìn NCC với cách mạng được hưởng chế độ điều dưỡng, tuy nhiên số giường điều dưỡng tại các Trung tâm điều dưỡng NCC mới đáp ứng được gần 110 nghìn lượt người điều dưỡng, chưa đạt mục tiêu đề ra. Cơ sở vật chất tại các trung tâm còn nhiều hạn chế.

Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, thực hiện Đề án hỗ trợ NCC với cách mạng về nhà ở theo Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 của Thủ tướng Chính phủ, qua 2 giai đoạn triển khai (giai đoạn 2013-2017 và giai đoạn 2017-2019), việc hỗ trợ nhà ở đối với NCC với cách mạng trên địa bàn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã cơ bản hoàn thành, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Tuy nhiên, đến nay tại các địa phương vẫn còn phát sinh các hộ NCC có khó khăn về nhà ở. Về việc này, Chính phủ đã ban hành nghị quyết giao cho các địa phương chủ động bố trí từ nguồn ngân sách của địa phương. Hai năm qua, do ảnh hưởng của dịch bệnh COVID-19, các địa phương chưa bố trí được nguồn vốn, do đó, việc triển khai hỗ trợ nhà ở đối với các hộ phát sinh chưa đáp ứng được nguyện vọng của NCC.

Công tác xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, do các thông tin về liệt sĩ, thân nhân liệt sĩ, nơi an táng ban đầu, nơi quy tập không đầy đủ. Hài cốt liệt sĩ chôn cất đã lâu, thân nhân liệt sĩ để lấy mẫu không còn thân nhân trực tiếp, chất lượng giám định AND còn hạn chế… Do vậy, đã ảnh hưởng đến kết quả và tiến độ triển khai Đề án xác định danh tính hài cốt liệt sĩ.

Để các chính sách ưu đãi NCC với cách mạng được nghiên cứu xây dựng và ban hành đầy đủ, kịp thời, tạo cơ sở pháp lý cho việc triển khai thực hiện đồng bộ các chế độ ưu đãi đối với NCC và thân nhân NCC với cách mạng, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ sau:

Một là, thực hiện đầy đủ, hiệu quả, bảo đảm công khai, minh bạch chính sách ưu đãi NCC với cách mạng; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, trục lợi chính sách. Tiếp tục rà soát, giải quyết trường hợp NCC với cách mạng còn tồn đọng.

Hai là, Bộ Lao động - Thương bình và Xã hội phối hợp với các bộ, ngành địa phương triển khai Quy hoạch hệ thống cơ sở xã hội nuôi dưỡng, điều dưỡng NCC với cách mạng thời kỳ 2021- 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt). Chú trọng việc tu bổ, tôn tạo, nâng cấp các công trình ghi công liệt sỹ.

Đoàn viên, thanh niên đến viếng và thắp hương tri ân các anh hùng liệt sĩ tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang _Ảnh: S.T

Đoàn viên, thanh niên đến viếng và thắp hương tri ân các anh hùng liệt sĩ tại thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang

Ba là, thực hiện hiệu quả các phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sỹ, NCC” nhằm huy động mọi nguồn lực trong xã hội, cộng đồng cùng nhà nước chăm sóc tốt hơn đời sống vật chất, tinh thần của NCC với cách mạng; tăng cường vận động, hỗ trợ NCC về nhà ở…. Phấn đấu để không còn hộ NCC thuộc diện hộ nghèo, đẩy mạnh công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đáp ứng tốt cho hoạt động quản lý, chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ về NCC.

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật, xác định các vướng mắc, bất cập, chồng chéo và kịp thời sửa đổi, bổ sung. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chính sách pháp luật và nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật về NCC.

Năm là, triển khai có hiệu quả Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ và xác định danh tính hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin đến năm 2030 và những năm tiếp theo đã được Thủ tướng Chính phủ phê quyệt tại Quyết định số 1515/QĐ-TTg ngày 14/9/2021; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, địa phương triển khai công tác xác định danh tính hài cốt liệt sĩ bằng phương pháp thực chứng và giám định gen./.

Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu NCC. Trong đó, có khoảng trên 1,2 triệu liệt sĩ; hơn 140.000 Bà mẹ Việt Nam anh hùng; trên 800.000 thương binh; người hưởng chính sách như thương binh, trên 320.000 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học… Trong đó, có gần 1,2 triệu người NCC đang hưởng chế độ ưu đãi hằng tháng. Tổng kinh phí thực hiện Pháp lệnh Ưu đãi NCC với cách mạng hằng năm khoảng 31.000 tỷ đồng (bao gồm trợ cấp 1 lần, trợ cấp hằng tháng, bảo hiểm y tế, công tác mộ, nghĩa trang liệt sĩ, đền ơn đáp nghĩa,...).


Vận dụng quan điểm của V.L. Lê-nin về xây dựng tổ chức cơ sở đảng vào thực tiễn Việt Nam

 Theo V.I. Lê-nin, tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị lãnh đạo hoạt động của cơ quan, đơn vị. Sự vững mạnh của các tổ chức cơ sở đảng là điều kiện bảo đảm cho sự vững mạnh của toàn Đảng. Những quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng là kinh nghiệm quý để Đảng ta vận dụng trong giai đoạn hiện nay.

Quan điểm của V.I. Lê-nin về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng

Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tụ

Tổ chức cơ sở đảng là nơi nắm vững và bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở tuân thủ đúng chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần cụ thể hóa nghị quyết của Đảng, đấu tranh về quan điểm và rèn luyện đảng viên; gắn kết Đảng với quần chúng, vận động quần chúng thực hiện tốt chủ trương của Đảng. Thực hiện tốt công tác xây dựng tổ chức đảng ở cơ sở là điều kiện tiên quyết để Đảng vững mạnh. Theo V.I. Lê-nin, việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng là công việc thường xuyên, liên tục và phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Đó là:

Thứ nhất, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành hạt nhân chính trị lãnh đạo thực hiện đường lối của Đảng ở cơ sở. Trong tác phẩm Làm gì?, V.I. Lê-nin cho rằng, để sự nghiệp cách mạng thành công “đòi hỏi phải có cho toàn nước Nga một tổ chức thống nhất gồm những người cách mạng, một tổ chức có khả năng đảm nhiệm việc lãnh đạo các tổ chức nghiệp đoàn của công nhân trong phạm vi toàn Nga”(1). Đặc biệt, khi đề cập đến vấn đề xây dựng đảng kiểu mới, V.I. Lê-nin khẳng định cần thành lập tổ chức đảng ở các công xưởng, nhà máy, các địa phương theo chế độ phân cấp rõ ràng. “Ở tất cả các tổ chức, các hội, các hiệp hội, không trừ một loại nào... phải tổ chức những tiểu tổ hay những chi bộ Cộng sản... những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với Trung ương Đảng”(2). Sau khi thành lập, các chi bộ phải thực hiện cổ động, tuyên truyền,... thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với mọi tầng lớp quần chúng lao động. Thông qua thực tiễn ở cơ sở để kiểm nghiệm chủ trương, đường lối và bổ sung, phát triển đường lối của Đảng, lấy kết quả hoạt động thực tế làm thước đo đánh giá sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đảng.

Thứ hai, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trở thành nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện, quản lý đội ngũ cán bộ, đảng viên; liên hệ chặt chẽ với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực hiện lý tưởng của Đảng. V.I. Lê-nin khẳng định: “Giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả những người lao động”(3). Trong đó, chất lượng đội ngũ đảng viên là nhân tố quan trọng tạo nên sức mạnh của Đảng, vì vậy, V.I. Lê-nin yêu cầu các chi bộ “thông qua công tác muôn hình, muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống”(4); qua lao động, thực tiễn đấu tranh cách mạng mà thử thách đảng viên để nâng cao uy tín của Đảng, tạo sự gắn bó, tin tưởng của nhân dân với Đảng. Trong bài viết Nhà nước của công nhân và Tuần lễ Đảng, V.I. Lê-nin cho rằng, cần “quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào Đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải là quan tâm làm tăng thêm số lượng đảng viên”(5).

Thứ ba, bảo đảm tính đảng của tổ chức cơ sở đảng. Tính đảng được hiểu là sự thừa nhận một cách tự nguyện và trung thành tuyệt đối với nền tảng tư tưởng, mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng đã lựa chọn; tuân thủ một cách nghiêm ngặt tính tổ chức, tính kỷ luật của Đảng; là những chuẩn mực giữa lời nói và hành động trong các hoạt động xã hội. Trong bài viết Về việc phá hoại sự thống nhất, che đậy bằng những lời kêu gào thống nhất, V.I. Lê-nin chỉ rõ: “Ở nơi nào mà đa số công nhân giác ngộ đoàn kết xung quanh những nghị quyết rõ ràng và chính xác, thì ở đó có sự nhất trí về tư tưởng và hành động, ở đó có tính đảng và đảng”(6). Tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên phải nhận thức sâu sắc nghị quyết, thấm nhuần tư tưởng của Đảng, bền bỉ phấn đấu, đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lên trên lợi ích cá nhân.

Thứ tư, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức đảng ở cơ sở. Theo V.I. Lê-nin, tập trung dân chủ nghĩa là kết hợp lãnh đạo, quản lý tập trung với tinh thần tích cực sáng tạo của quần chúng. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước Nga, V.I. Lê-nin luôn nhất quán quan điểm: “Chế độ tập trung dân chủ, một mặt, thật khác xa chế độ tập trung quan liêu chủ nghĩa, và, mặt khác, thật khác xa chủ nghĩa vô chính phủ”(7). Nguyên tắc tập trung dân chủ không chỉ là phương pháp và tác phong công tác của chính đảng vô sản cầm quyền, mà trước hết chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hữu cơ giữa hai mặt dân chủ và tập trung; tập trung và dân chủ vừa đối lập nhau, vừa liên kết với nhau, mặt này là tiền đề, điều kiện cho mặt kia và ngược lại. Tập trung và dân chủ kết hợp với nhau tạo thành một chỉnh thể không thể thiếu của nguyên tắc tổ chức đảng vô sản, trong đó dân chủ là cơ sở của tập trung, còn tập trung là điều kiện để bảo đảm cho dân chủ được thực hiện. Phủ định hay loại trừ bất cứ mặt nào đều vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta hiện nay

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng làm việc với Ban thường vụ Tỉnh ủy Long An về tình hình thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020 - 2025 (Trong ảnh: Đồng chí Võ Văn Thưởng thăm Hợp tác xã rau an toàn Phước Thịnh tại xã Phước Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An)

Hiện nay, toàn Đảng ta có 52.125 tổ chức cơ sở đảng với 5.192.533 đảng viên. Trực thuộc đảng ủy cơ sở có 2.478 đảng bộ bộ phận và 227.328 chi bộ(8) thuộc các loại hình tổ chức cơ sở đảng xã, phường, thị trấn; cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội; đơn vị sự nghiệp; doanh nghiệp; đơn vị quân đội, công an; đơn vị ở ngoài nước.

Việc xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng luôn được Đảng ta đặc biệt quan tâm, thể hiện rõ qua các kỳ Đại hội. Những năm gần đây, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản xây dựng, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và hệ thống chính trị ở cơ sở; bổ sung, sửa đổi và ban hành các quy định về chức năng, nhiệm vụ, phương thức hoạt động của một số loại hình tổ chức cơ sở đảng(9). Đây là hệ thống những văn bản quan trọng, làm cơ sở để các cấp ủy, tổ chức đảng đề ra chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên.

Tại các cơ sở đảng, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đảng viên được cấp ủy, tổ chức đảng đề cao. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng thường xuyên đổi mới, tổ chức dưới hình thức trực tuyến từ Trung ương đến cơ sở đã nhanh chóng tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa các nghị quyết vào cuộc sống. Đơn cử, Hội nghị quán triệt Nghị quyết Trung ương 8 khóa XII được truyền hình trực tuyến với 2.700 điểm cầu, hơn 405.000 cán bộ, đảng viên tham dự(10); Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được kết nối với 67 điểm cầu các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và đường truyền mở rộng đến hơn 7.400 điểm cầu cơ sở với gần 1 triệu đảng viên tham gia(11). Công tác tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” dần đi vào nền nếp; cấp ủy cấp trên gương mẫu thực hiện nghiêm túc, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, chú trọng gợi ý, dự chỉ đạo kiểm điểm đối với những tập thể, cá nhân thuộc quyền quản lý; coi trọng kiểm tra việc sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm của cấp dưới. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị được đẩy mạnh, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên với nhiều cách làm hay, sáng tạo đem lại hiệu quả thiết thực.

Quán triệt Nghị quyết 18-NQ/TW về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Nghị quyết 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”, ngày 25-10-2017, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức đảng được thực hiện đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Qua sắp xếp đã giảm trên 3.000 tổ chức cơ sở đảng ở các loại hình, trong đó giảm 565 đảng bộ xã, phường, thị trấn và giảm trên 10.000 chi bộ trực thuộc đảng ủy xã, phường, thị trấn do sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã, sáp nhập thôn, tổ dân phố, góp phần tinh gọn hệ thống chính trị ở cơ sở, giảm chi ngân sách nhà nước cho hoạt động của các tổ chức đảng(12). Chú trọng nâng cao chất lượng cấp ủy cơ sở, bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho đội ngũ cấp ủy viên, cán bộ chuyên trách công tác đảng. Giai đoạn 2015 - 2020, đã tổ chức trên 3.000 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác đảng cho trên 325.000 lượt cấp ủy viên, bí thư cấp ủy và cán bộ chuyên trách làm công tác đảng.

Chất lượng sinh hoạt chi bộ từng bước được nâng lên; nhiều cấp ủy đã hướng dẫn nội dung sinh hoạt đối với từng loại hình chi bộ, ban hành tiêu chí cụ thể đánh giá chất lượng sinh hoạt chi bộ; tăng cường kiểm tra, giám sát chuyên đề việc chấp hành nền nếp, đổi mới nội dung, nâng cao chất lượng sinh hoạt. Hầu hết các chi bộ đều đưa việc tự phê bình và phê bình, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào nội dung sinh hoạt hằng tháng. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, tập trung nhiều hơn cho sinh hoạt chính trị tư tưởng, công tác đảng, từng bước khắc phục tình trạng đơn điệu, hình thức trong sinh hoạt đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã cụ thể hóa các tiêu chí đánh giá phù hợp với từng loại hình tổ chức đảng, từng đối tượng đảng viên. Đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thực chất hơn, sát với kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, công tác xây dựng Đảng của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc xây dựng đội ngũ đảng viên mới cho tổ chức đảng ở cơ sở được nâng lên cả về số lượng và chất lượng. Trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Đảng ta đã kết nạp được 880.155 đảng viên, trình độ chuyên môn của đảng viên mới kết nạp được nâng lên, có đến 41,5% đảng viên có trình độ từ đại học trở lên, trong đó có 3% là thạc sĩ và 0,15% là tiến sĩ, cơ cấu hợp lý theo hướng trẻ hóa và tăng tỷ lệ nữ với 67,67% là đoàn viên, 43,72% là nữ(13). Đặc biệt, thành công trong việc thí điểm kết nạp 6.652 chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng(14).

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, Đảng ta cũng thẳng thắn nhìn nhận một số yếu kém nhất định trong công tác xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng, đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở đảng còn thấp, nhất là khả năng dự báo, đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết những vấn đề phát sinh ở cơ sở. Công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các đơn vị kinh tế tư nhân, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo còn nhiều khó khăn, hạn chế. Sinh hoạt chi bộ ở một số nơi vẫn còn hình thức, sinh hoạt chuyên đề chưa được xem trọng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu. Công tác kết nạp đảng viên ở một số nơi còn chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng; động cơ vào Đảng của một số quần chúng chưa đúng đắn. Tính tiên phong, gương mẫu và phẩm chất đạo đức của một bộ phận đảng viên giảm sút. Việc xét miễn, giảm công tác và sinh hoạt đảng chưa chặt chẽ, việc quản lý đảng viên đi làm ăn xa nơi cư trú còn khó khăn, phức tạp; số đảng viên xin ra khỏi Đảng, bỏ sinh hoạt đảng phải xóa tên có xu hướng tăng lên; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa được tiến hành thường xuyên(15).

Tiếp tục nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng

Buổi sinh hoạt chi bộ của Chi bộ 4, xã Đường Hoa, huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh được tổ chức trên chính phương tiện khai thác của bà con ngư dân trong những chuyến vươn khơi bám biển

Quán triệt quan điểm “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; phát huy tính tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân của cán bộ, đảng viên”(16), cùng với vận dụng quan điểm của V.I. Lê-nin, hướng tới xây dựng các tổ chức cơ sở đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, cần triển khai đồng bộ một số nhiệm vụ cơ bản sau:

Một là, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, vai trò, trách nhiệm của đảng viên trong nghiên cứu, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tích cực đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác những luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động của các thế lực thù địch. Nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa” và đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””. Phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; kịp thời phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực để khuyến khích, tạo động lực cho mọi đảng viên ra sức phấn đấu, học tập, cống hiến vì sự nghiệp chung.

Hai là, thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh gắn với quan tâm chấn chỉnh tổ chức cơ sở đảng yếu kém. Tiếp tục sắp xếp, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức đảng đồng bộ với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, nhất là đổi mới bộ máy bên trong. Rà soát, bổ sung, sửa đổi hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của một số tổ chức cơ sở đảng. Nghiêm túc thực hiện quy chế làm việc cấp cơ sở.

Ba là, thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Bên cạnh việc nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo, kỹ năng và nghiệp vụ công tác Đảng cho đội ngũ cán bộ cấp ủy ở cơ sở thì cần từng bước thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân ở những nơi đủ điều kiện; bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận.

Bốn là, tăng cường sự lãnh, chỉ đạo của cấp ủy tại chi bộ để nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các loại hình chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu là việc làm trọng yếu, thường xuyên. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ; chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời xử lý các chi bộ, đảng viên vi phạm quy định, nguyên tắc sinh hoạt đảng. Chú trọng việc thực hiện các Nghị quyết và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và gương mẫu thực hiện tốt trách nhiệm nêu gương, nhất là người đứng đầu các cấp.

Năm là, nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên, khắc phục tình trạng chạy theo số lượng, chưa coi trọng đúng mức chất lượng, xem nhẹ tiêu chuẩn, điều kiện. Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên hợp lý cả về lượng và chất, cơ cấu phù hợp với thực tế của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, nghiên cứu khoa học, trong lực lượng vũ trang. Sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định, hướng dẫn để quản lý chặt chẽ đội ngũ đảng viên; thường xuyên rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng./.

---------------------

(1) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, t. 6, tr. 193
(2) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 232
(3) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 33
(4) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 41, tr. 233
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 255
(6) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 25, tr. 223
(7) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 36, tr. 185
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021,
t. II, tr. 185

(9) Kết luận số 18-KL/TW, ngày 22-9-2017, của Ban Bí thư, “Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW, của Ban Bí thư khóa X, “Về nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ” trong tình hình mới”; Kết luận số 38-KL/TW, ngày 13-11-2018, của Bộ Chính trị Về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TW, ngày 2-2-2008, của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”; Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019, của Ban Bí thư “Về nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”; Chỉ thị số 33-CT/T, ngày 18-3-2019, của Ban Bí thư “Về tăng cường công tác xây dựng Đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân”...
(10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 171
(11) Thiên Bình: “Bế mạc Hội nghị trực tuyến học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII”, báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 28-3-2021, https://www.vov.vn/chinh-tri/dang/be-mac-hoi-nghi-truc-tuyen-hoc-tap-quan-triet-nghi-quyet-dai-hoi-xiii-846389.vov
(12) Hà Ban: “Nhìn lại một nhiệm kỳ công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên”, Tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 14-10-2020, http://www.xaydungdang.org.vn/Home/Dai-hoi-dang/2020/14293/Nhin-lai-mot-nhiem-ky-cong-tac-xay-dung-to-chuc-co.aspx
(13), (14), (15) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 188, 189, 189 – 190
(16) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 229 - 230

Phát huy giá trị văn hóa đạo đức của con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng

 Phát huy giá trị văn hóa đạo đức của con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng được nhấn mạnh ở các nội dung: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân; nguồn lực con người và lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; tinh thần đại đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng và đoàn kết quốc tế cao cả; sự khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo...

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc thăm và tặng quà Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Giới tại huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam

Giá trị văn hóa đạo đức là bộ phận của hệ giá trị văn hóa, biểu hiện ở hành vi đạo đức của con người. Giá trị văn hóa đạo đức là hệ thống chuẩn mực được xã hội thừa nhận và được biểu hiện trong hành vi ứng xử của con người, với tự nhiên, với xã hội (giữa con người với con người). Giá trị văn hóa đạo đức trước hết là một bộ phận của hệ giá trị văn hóa.

Xét ở góc độ giá trị, đây là một hệ thống các giá trị được hình thành và phát triển trong suốt quá trình sinh sống, hoạt động của con người. Đó là, lý tưởng nhân đạo, lối sống nhân đạo; hòa bình, hòa hợp, dân chủ, công bằng; bình đẳng, công lý, nhân quyền, dân quyền; lòng nhân ái, vị tha, tính lương thiện; sáng tạo, tự giác, tự trọng, thận trọng; vẻ đẹp tâm hồn, yêu thiên nhiên, bảo vệ môi trường,...

Xét ở góc độ truyền thống, giá trị văn hóa đạo đức là hồn cốt dân tộc, là lương tri, đạo lý, là tuyên ngôn, tiếng nói, chữ viết riêng của một dân tộc; là vẻ đẹp đạo đức của mỗi cá nhân trong tổng thể môi trường chung sống hòa bình, hòa hợp và hạnh phúc của đất nước. Giá trị đó không hòa tan khi hội nhập quốc tế, mà vẫn giữ được cốt cách, hồn cốt truyền thống văn hóa của dân tộc.

Xét ở góc độ lịch sử, là đặc tính dân tộc được hình thành và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước cho đến ngày nay. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Các em cảm tử để cho Tổ quốc quyết sinh. Các em là đại biểu cái tinh thần tự tôn tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại, cái tinh thần quật cường đó đã kinh qua Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, truyền lại cho các em. Nay các em gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”(1). Đây là một giá trị văn hóa đạo đức xã hội cao quý xuất phát từ truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Chính vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”(2). Sự nghiệp bảo vệ nền độc lập, tự do của đất nước là động lực to lớn của mỗi người dân Việt Nam, bởi mỗi người dân “đã hy sinh tiểu gia đình của họ, họ đã không ngại rời cha mẹ, bỏ quê hương, ra xông pha bom đạn, để phụng sự đại gia đình dân tộc gồm cả gia đình của mỗi đồng bào”(3). Chính vì thế, Đảng ta khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(4).

Trước tình hình mới và trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, giá trị văn hóa đạo đức càng cần được quan tâm bồi dưỡng, giáo dục để phát triển, hội nhập nhưng không hòa tan, không làm mất đi bản sắchồn cốt truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Vì thế, phát huy giá trị văn hóa đạo đức con người Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, cần tập trung vào một số vấn đề:

Một là, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân.

Yêu nước là lý tưởng thiêng liêng, lẽ sống cao đẹp, là tình cảm chủ đạo và định hướng giá trị cho hành động và cách ứng xử của con người Việt Nam. Đây là giá trị tiêu biểu hàng đầu trong giá trị văn hóa đạo đức của dân tộc ta.

Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cần nhìn nhận từ phương diện giá trị văn hóa đạo đức thì mới thấy hết được lương tri của cả dân tộc trong đó. Chủ nghĩa yêu nước phản ánh truyền thống yêu nước của dân tộc Việt Nam, là hệ thống quan điểm, tư tưởng, tình cảm tốt đẹp, yêu mến và gắn bó tha thiết với quê hương; ý chí và hành động của con người Việt Nam đối với đất nước; lòng tự hào, tự tôn dân tộc được hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; biểu hiện ở tình yêu quê hương, xứ sở, sự cống hiến sức lực, trí tuệ, trở thành động lực tinh thần to lớn thúc đẩy mỗi người dân Việt Nam phấn đấu vì sự trường tồn, phồn vinh của đất nước.

Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh phải “giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ”(5). Vì vậy, muốn phát huy giá trị văn hóa đạo đức con người Việt Nam cần phải khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước của nhân dân ta.

Giáo dục tinh thần yêu nước, truyền thống và lịch sử dân tộc cho thế hệ trẻ (Trong ảnh: Chiến sĩ Điện Biên kể chuyện)

Ngày nay, yêu nước phải gắn với yêu chủ nghĩa xã hội, phải thể hiện ở lòng tự hào, tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam, dù có đi đâu, ở đâu, cũng luôn có tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước và đều có tinh thần kiên quyết, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Giá trị đó không phai mờ, không hề mất đi cùng với thời gian và không bị “hòa tan” trong quá trình hội nhập quốc tế. Do vậy, cần phải bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống, niềm tin, ý chí quyết tâm, tình cảm, thôi thúc người dân hành động tự giác, thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng.

Hai là, khơi dậy tối đa nguồn lực con người Việt Nam, nhất là nguồn lực cán bộ, đảng viên.

Để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phải khơi dậy tối đa nguồn lực con người, coi con người là trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, cần phải khơi dậy các nguồn lực, tiềm năng sáng tạo, quyền làm chủ của nhân dân và phát huy tối đa dân chủ xã hội chủ nghĩa. Theo đó, một mặt, phải đổi mới mạnh mẽ giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, để thực sự trở thành động lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, phải đẩy mạnh công tác tư tưởng, vừa kịp thời, chính xác, định hướng dư luận xã hội, vừa mang tính thuyết phục cao, giải đáp kịp thời, sáng tỏ và khoa học những vấn đề thực tiễn đặt ra, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Tuyệt đối trung thành đối với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ nhân dân, quên mình vì quê hương, vì nhân dân, vì đất nước là một trong những giá trị văn hóa đạo đức. Lòng trung thành đó được biểu hiện ở sự giác ngộ sâu sắc và quyết tâm phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, lấy đó làm mục đích hoạt động của mình, suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân; thương yêu, giúp đỡ đồng chí, đồng đội; luôn có ý thức cộng đồng, đặt lợi ích của Đảng của Tổ quốc, lên trên lợi ích cá nhân; kiên quyết chống bệnh quan liêu, gia trưởng, cửa quyền, thói kiêu ngạo, ức hiếp quần chúng và cấp dưới; hy sinh lợi ích cá nhân phục vụ cho lợi ích chung; có lối sống “mình vì mọi người”; gương mẫu trước quần chúng. Lòng trung thành đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát: “Trung với nước, hiếu với dân”; “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, biết yêu thương con người, có tình cảm quốc tế trong sáng...”(6).

Ba là, khơi dậy tinh thần đại đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng và đoàn kết quốc tế cao cả.

Đoàn kết dân tộc gắn bó cộng đồng là một trong những giá trị văn hóa đạo đức Việt Nam, phản ánh bản chất, truyền thống tốt đẹp trong đánh giặc, giữ nước của nhân dân ta, thể hiện thái độ, trách nhiệm của nhân dân trước vận mệnh của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do... Vậy nay ta phải biết đoàn kết, đoàn kết mau, đoàn kết chắc chắn”(7). Chỉ có đoàn kết mới giành được thắng lợi, càng gặp kẻ thù lớn, càng khó khăn, gian khổ bao nhiêu lại càng cần phải đoàn kết chặt chẽ, rộng rãi và vững chắc bấy nhiêu; chỉ có đoàn kết dân tộc mới có sức sống bền vững và trường tồn, đưa đất nước phát triển. Không chỉ đoàn kết dân tộc trong đấu tranh giải phóng đất nước, mà phải đoàn kết trong mọi giai đoạn phát triển của cách mạng, tạo thành khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh huấn thị: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”(8).

Sau hơn 35 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, chính là do khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được phát huy. Nhờ xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, nhân dân ta đang vượt qua mọi khó khăn, thách thức, để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; kiên quyết bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, thềm lục địa, bảo vệ Đảng, Nhà nước, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ; thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại, Việt Nam luôn là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Một mặt, vừa tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam, mặt khác, phải kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục.

Bốn là, khơi dậy đức tính khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo của nhân dân và khát vọng phát triển đất nước.

Người Việt Nam có truyền thống khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, trong chiến đấu và lao động, sản xuất. Giá trị đó luôn được mỗi người dân phát huy trong cuộc sống thường ngày, trong sự nghiệp cách mạng chung, đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của nhân dân, của tập thể lên trên hết, trước hết; luôn sống “vì mọi người”, vì đồng chí, đồng đội; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ. Đúng như lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”(9).

Khát vọng chiến thắng

Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(10). Khát vọng đó càng trở nên mạnh mẽ, cháy bỏng hơn bao giờ hết trên cơ sở đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Mặt khác, trên thế giới, tình hình diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó lường; trong nước, bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. “Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, còn nhiều hạn chế, yếu kém, đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới do tác động của đại dịch COVID-19 và khủng hoảng kinh tế toàn cầu gây ra”(11). Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, khả thi, nổi bật là tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, ý chí tự cường, niềm tin, tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn để phấn đấu đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao như Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Để phát huy giá trị văn hóa đạo đức Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 8-5-2021, về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng có hiệu quả. Điều đó đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Tổ quốc, của Đảng, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết, trước hết. Hành động đúng tôn chỉ, mục đích của Đảng, để khi gặp khó khăn, gian khổ thì không nản chí, lùi bước; khi thuận lợi, thành công vẫn luôn giữ vững tinh thần khiêm tốn, luôn “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, góp phần xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. /.

------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 44
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 401
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 335
(4) Kết luận số 76-KL/TW, ngày 04/6/2020 của Bộ Chính trị Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 136
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1, tr. XXVII
(7) Hồ Chí Minh:  Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 256
(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 244
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 600
(11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 111, 107-108.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay


Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế bầu cử phù hợp với sự phát  triển của thực tiễn. 

Hoàn thiện quy định và lộ trình, bảo đảm tốt nhất điều kiện về nắm bắt  thông tin, nâng cao ý thức trách nhiệm về quyền làm chủ của nhân dân; lấy ý kiến cử tri về các ứng viên tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp trong quá trình bầu cử. 

Kết hợp chặt chẽ giữa định hướng chính trị, cơ cấu về tỷ lệ đại biểu với  quyền tự ứng cử, quyền đề cử của công dân; nâng cao số lượng cử tri tự ứng cử để phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. 

Tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong quá trình tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và giám sát hoạt động bầu cử, bảo  đảm dân chủ và đúng luật định; khắc phục mọi biểu hiện hình thức, xem xét tiêu chuẩn, lai lịch chính trị, uy tín của ứng viên chưa chặt chẽ; bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lựa chọn, giới thiệu được những đại biểu thật sự ưu tú tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. 

Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các ứng viên tham gia vận động, tiếp xúc cử tri, trình bày kế hoạch hành động sau khi trúng cử; phát huy vai trò của phương tiện thông tin, truyền thông về nhiệm vụ bầu cử, qua đó, cử tri ở từng địa bàn sẽ trực tiếp nắm được thông tin về năng lực, trình độ, phẩm chất, uy tín của các ứng viên, từ đó lựa chọn được những đại biểu ưu tú. 

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền bất tín nhiệm đại biểu của nhân dân.

Vấn đề bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân được quy định ở Điều 7 của Hiến pháp năm 2013, Điều 40 của Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Điều 41 của Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13, ngày 24-11-2015, theo đó, việc bảo đảm quyền bãi miễn của nhân dân đã được thực thi gián tiếp thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội, trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia có hiệu quả hơn vào việc bãi miễn đại biểu không xứng đáng. 

Thứ ba, bổ sung các chế định pháp lý để phát huy quyền làm chủ của nhân  dân trong tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. 

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý Nhà nước và xã hội là cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay. Thông qua việc góp ý, phê bình, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ ngăn ngừa được tình trạng lạm dụng quyền lực mưu lợi cá nhân của một bộ phận cán bộ, công chức. Các quyền này đã được chế định ở quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã  hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng”.

HAIVAN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước

 

Với cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, mà còn là người thầy vĩ đại trong việc phát huy vai trò của nhân dân - chủ thể cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi theo đúng tính chất quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Đến nay, việc phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, người dân về kiểm soát quyền lực nhà nước, cũng như cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước có lúc, có nơi vẫn còn bất cập. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề cấp thiết, nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 

Kiểm soát quyền lực nhà nước được bàn đến với nhiều định nghĩa khác nhau, song theo nghĩa chung nhất, đó là một hệ thống cơ chế, thể chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm xem xét, giám sát, phát hiện, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả.

Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân như chính cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực. Kế thừa và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những chức năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, V.I. Lê-nin cho rằng, nhân dân là chủ thể kiểm soát nên cần phải hết sức coi trọng và phát huy vai trò nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Người yêu cầu tổ chức cho toàn dân tham gia kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nhà nước, “tổ chức việc kiểm tra và kiểm soát từ dưới lên, một cách dân chủ, do chính nhân dân, các hội liên hiệp của nhân viên, của công nhân và của những người tiêu dùng, v.v., thi hành”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Những quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua vai trò nhân dân được Người vận dụng, phát triển, gồm một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách giám sát, phê  bình, giúp đỡ Chính phủ. 

Đề cao vai trò của nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp  cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người quan niệm, phải tổ chức sự kiểm soát quyền lực của nhà nước, mà muốn kiểm soát tốt thì phải có quần chúng giúp mới được. Người cho rằng, những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi theo cách từ trên xuống, nên bị hạn chế. Dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, trông thấy vấn đề theo cách từ dưới lên và cũng có hạn chế. Cho nên, Người lưu ý, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, thì tất yếu phải hợp kinh nghiệm cả hai bên lại. Tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Người đã nêu lên thực trạng tại một số nơi, ở cấp cơ sở, có những cán bộ phụ trách, do rơi vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, đã làm những điều đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Do vậy, Người luôn nhất quán khẳng định, chúng ta phải tin ở sự phê bình, kiểm soát của nhân dân. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết: “Để cho dân chúng phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Đồng thời, do sự dùi mài của dân chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến bộ, lại do đó, cán bộ và dân chúng đoàn kết chặt chẽ thêm”. Người luôn mong muốn nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc việc kiểm tra, kiểm soát nhà nước: “Chính phủ ta là Chính  phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”.  

Thứ hai, nhân dân kiểm soát quyền lực bằng quyền bầu cử, bất tín nhiệm và quyền khiếu tố với đại biểu do mình cử ra. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ở quần chúng, khai hội, phê bình và bày tỏ ý kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng, v.v.; đó là những cách quần chúng kiểm soát những người lãnh đạo”. Vậy nên, sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã chủ động đề xuất với Chính phủ tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước. Theo Người, tổ chức Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có đức, có tài, để gánh vác công việc nước nhà... Cũng từ Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội - cơ quan  đại biểu cao nhất của nhân dân. Khi Quốc hội ra đời, sẽ cử ra Chính phủ và Chính phủ do nhân dân cử ra chính là Chính phủ của toàn dân.  

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân trong chế độ mới. Điều này được Người khẳng định ở Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội, ra mắt cử tri ngày 24-4-1960. Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, việc lựa chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của cử tri. Người đề cao giá trị mà lá phiếu cử tri mang lại, bởi nó là một dấu hiệu để khẳng định một sự thật rằng nhân dân đã thật sự làm chủ nước nhà. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Người nhấn mạnh: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình”. 

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, với những đại biểu không xứng  đáng, nhân dân có quyền bất tín nhiệm. Trong bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa vào đầu năm 1947, Người nêu lên tinh thần xây dựng Chính phủ vì nhân dân phục vụ, rằng nếu Chính phủ đó làm hại dân, thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ. Quan điểm của Người về quyền bất tín nhiệm đã được cụ thể hóa tại Điều thứ 20, Hiến pháp năm 1946: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”. Điều này cũng được Người đề cập trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín  nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”. 

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến quyền khiếu tố của nhân  dân, coi đây cũng là cách thức để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong Thư gửi đồng bào Liên khu IV (năm 1950), Người viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp  nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ. Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền  ấy”.

Thứ ba, nhân dân kiểm soát quyền lực thông qua xây dựng thể chế dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ của ta là chế độ dân chủ, vì nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ, còn Chính phủ là đày tớ của nhân dân... Theo đó, mọi công việc của Chính phủ từ việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người đề xuất “xây dựng hiến pháp dân chủ” để thể chế hóa quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc - được Quốc hội khóa I thông qua ngày 9-11-1946, là thành quả kết tinh trí tuệ của Ban dự thảo do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban, đã nêu rõ, nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ. Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946 còn ghi nhận quyền lực nhà nước cao nhất thuộc về nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. 

Đánh giá về vai trò của Hiến pháp năm 1946 trong thể chế hóa chế độ dân chủ ở Việt Nam, Người khẳng định: “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã đảm bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng thể chế dân chủ nhằm huy động vai trò của nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, ngày 18-12-1959, Người nêu rõ: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. 

HAIVAN

Giải pháp phát huy vai trò giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới

 

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy để phát huy vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, MTTQ Việt Nam sớm hoàn thiện Đề án trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới. Đây là văn bản quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp tăng cường hoạt động giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức, cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực sự hiệu quả.

Thứ hai, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động nghiên cứu kỹ các văn bản của Đảng, quy định của Nhà nước để từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới. Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là việc khó; vì vậy, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải quy định toàn diện, đầy đủ, cụ thể và rõ ràng các vấn đề liên quan. Yêu cầu này tạo cơ sở pháp lý không chỉ cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mà còn là cơ sở để các cơ quan, tổ chức, nhất là những đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện nghiêm.

Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ. Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam chỉ có thể phát huy hiệu quả tốt khi có sự phối hợp và thực hiện một cách đồng bộ với các hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần tăng cường kết hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên với hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp... Như vậy, sẽ góp phần làm cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam ngày càng hiệu quả, huy động được các cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia, sẽ tạo sức mạnh trong giám sát.

Thứ tư, việc giám sát công tác tổ chức, cán bộ và giám sát đối với cán bộ, đảng viên phải được thực hiện thường xuyên; cần sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc triển khai các hoạt động giám sát công tác tổ chức cán bộ trong thời gian qua để lựa chọn những nội dung giám sát sao cho sát - đúng, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với điều kiện thực tế của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ năm, để thực hiện tốt việc giám sát công tác cán bộ, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát. Tăng cường các biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo mặt trận các cấp, có chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức để thực hiện giám sát. Tập hợp, phát huy tối đa tiềm năng to lớn của các tổ chức thành viên và các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học, các hội đồng tư vấn để họ cùng tham gia các hoạt động giám sát, giúp nâng cao chất lượng giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với các địa phương, cần quan tâm đẩy mạnh công tác tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về phương pháp, cách làm hiệu quả, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; các cán bộ làm công tác mặt trận ở cơ sở cần được trang bị tốt kiến thức về chính sách, pháp luật để thực hiện giám sát có hiệu quả.

HAIVAN