Thứ Sáu, 2 tháng 7, 2021

Tổ chức thực hiện tốt chính sách, chiến lược, chương trình liên quan đễn lĩnh vực dân tộc.

 


- Cùng với sự phát triển của đất nước, cơ chế, chính sách cho vùng dân tộc thiểu số đang có sự thay đổi căn bản, ngày càng sát thực tế hơn; từ chỗ chính sách cho vùng dân tộc thiểu số chủ yếu là hỗ trợ trực tiếp cho người dân, chuyển sang chính sách vừa đầu tư phát triển vừa hỗ trợ trực tiếp.

- Công tác tổ chức thực hiện chính sách dân tộc cũng được quan tâm phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương; phát huy được vai trò của người dân và các đối tượng thụ hưởng. Nhờ vậy, tạo ra sự đồng thuận từ Trung ương đến địa phương trong các khâu xây dựng, thực hiện, kiểm tra và đánh giá chính sách. Đảng ta đã đánh giá: “Đã thực hiện có hiệu qủa nhiều chính sách đối với … đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa…”[1].

- Tập trung mọi nguồn lực, đa dạng hóa nguồn lực đầu tư cho vùng dân tộc và miền núi; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng, giải quyết những vấn đề bức xúc tại các địa bàn vùng dân tộc thiểu số như: vấn đề đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt cho các địa bàn khó khăn; phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí gắn với đào tạo nghề, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Ví dụ: Một số chính sách lớn được triển khai thực hiện có hiệu quả như:  

+ Chương trình 135 (năm 1998):

+ Các chính sách cho một số dân tộc rất ít người

+ Với nhiều cơ chế, chính sách giảm nghèo được ban hành trong giai đoạn vừa qua, bình quân tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2018 ở các huyện nghèo giảm xuống còn dưới 35% (giảm khoảng 5% so với cuối năm 2017); tỷ lệ hộ nghèo ở các xã ĐBKK giảm 3-4%/năm. Có 8 huyện thoát khỏi huyện nghèo theo Quyết định 30a của Thủ tướng Chính phủ; 14 huyện ra khỏi diện hưởng chính sách như huyện nghèo[2]. Hiện nay theo báo cáo của các địa phương, 124 xã, 1.298 thôn đủ điều kiện để xét hoàn thành mục tiêu Chương trình 135.

+ Công tác giáo dục ở vùng dân tộc thiểu số đã có nhiều tiến bộ.

   + Mạng lưới y tế ở vùng dân tộc thiểu số phát triển, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện và trạm y tế xã đã được quan tâm đầu tư, 99,39% xã có trạm y tế, 77,8% xã đạt chuẩn quốc gia về y tế.

+ Hệ thống chính trị vùng dân tộc thiểu số thường xuyên được xây dựng, củng cố và ngày càng phát triển, nhất là hệ thống chính trị cơ sở.

Tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội cơ bản được ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững. Đồng bào các dân tộc đoàn kết, tin tưởng vào đưng lối đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.

- Các địa phương vùng DTTS đã quan tâm tới công tác quy hoạch, bố trí, sắp xếp dân cư, thực hiện phát triển sản xuất bền vững; lồng ghép các nguồn vốn để đầu tư có trọng điểm, xây dựng các mô hình về phát triển sản xuất, bảo vệ môi trường.

 



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016, tr.133

[2]. 8 huyện thoát khỏi huyện nghèo: Huyện Ba Bể (Bắc Kạn), Tân Sơn (Phú Thọ), Tân Uyên (Lai Châu), Than Uyên (Lai Châu), Quỳnh Nhai, Phù Yên (Sơn La), Như Xuân (Thanh Hóa), Sơn Hà (Quảng Ngãi). 14 huyện ra khỏi diện thực hiện chính sách như huyện nghèo: Bát Xát, Văn Bàn, tỉnh Lào Cai; Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình; Huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên; Vũ Quang, Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh; Sông Hinh, Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên; Đăk Glei, Sa Thầy, Kon Rẫy, tỉnh Kon Tum; KBang, Krong Pa, La Pa, tỉnh Gia Lai.

Phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Trong Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, một trong những thủ đoạn hết sức thâm hiểm của chúng là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, nhằm tha hóa nhận thức của cán bộ, từ đó dẫn đến những thay đổi về đường lối, chính sách-những biểu hiện của chuyển hóa chế độ XHCN ở nước ta sang một quỹ đạo khác. Tọa đàm khoa học "Kinh nghiệm về đấu tranh chống diễn biến hoà bình và phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hoá trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá ở Việt Nam hiện nay". Ảnh minh họa/ Nguồn: QĐND Đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, khi tổ chức đảng các cấp đang tiến hành đại hội để tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thì việc chống phá càng ráo riết. Các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn sử dụng đủ mọi chiêu trò, kể cả những việc có tính xảo trá như: Dựng chuyện, làm giả công văn giấy tờ, gửi đơn nặc danh tới các cơ quan công quyền để khiếu nại, tố cáo... Tất cả những hành động ấy là nhằm mục đích gây chia rẽ nội bộ, làm cho cán bộ, đảng viên nghi kỵ lẫn nhau, đảng viên phai nhạt niềm tin, quần chúng thiếu tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền. Nhìn nhận một cách xác đáng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, song quá trình và mức độ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chủ yếu do nguyên nhân bên trong, nguyên nhân chủ quan, tức là do chính chúng ta quyết định. Điều này đã được V.I.Lê-nin cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta… Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”(1). Vì vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải kịp thời phát hiện và triệt tiêu các mầm mống, khả năng gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị. Thực tế cho thấy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mỗi con người, mỗi tổ chức trước hết và chủ yếu là về tư tưởng chính trị. Lĩnh vực này diễn ra hết sức phức tạp, đa dạng, với nhiều cấp độ, dần dần, nhỏ nhặt, mà biểu hiện cao nhất đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị trên các khía cạnh như: Phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi Đảng phải từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử cách mạng Việt Nam một cách thiếu khách quan; đòi xét lại con đường đi lên CNXH ở nước ta, kêu gọi thay bằng chế độ TBCN; xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Thực tiễn cách mạng thế giới đã cho thấy, nếu tư tưởng chính trị chệch hướng sẽ làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước bị chia rẽ, dẫn đến hệ lụy là nguy cơ “tự sụp đổ” chế độ chính trị khó tránh khỏi. Vì vậy, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm thúc đẩy "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” nhằm vào các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, là nơi hoạch định ra đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển đất nước. Tùy theo từng đối tượng và phạm vi tác động mà các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn, nội dung, hình thức, biện pháp để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị khác nhau. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực kinh tế. Biểu hiện đó là sự phủ nhận đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay; hạ thấp, đi đến làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN; đòi tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu để thay thế bằng chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN... Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực kinh tế càng trở nên nguy hiểm trong điều kiện các thế lực thù địch có tiềm lực kinh tế rất mạnh. Chúng tìm mọi cách lợi dụng những kẽ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, khoét sâu vào hạn chế, khuyết điểm của ta để cổ súy, thúc đẩy tư nhân hóa nền kinh tế, nhằm đến một lúc nhất định, khi sở hữu tư nhân TBCN đã giữ vai trò chi phối cơ sở hạ tầng kinh tế, thực chất là chuyển hóa thành kinh tế TBCN, thì kiến trúc thượng tầng XHCN chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa và “đổi màu”. Khi đó, chế độ kinh tế XHCN được thay thế bằng chế độ kinh tế TBCN. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống. Biểu hiện của quá trình này ở việc sùng bái, chạy theo văn hóa, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc; thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách thái quá, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, sống xa hoa, xa rời quần chúng... Nhận rõ tính chất nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”(2). Vì vậy, chúng ta cần làm tốt việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trước hết chú trọng vào một số biện pháp chủ yếu sau: Thứ nhất, phải luôn giữ vững bên trong đi đôi với chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến", “tự chuyển hóa”. Giữ vững bên trong là giữ vững ổn định chính trị, xã hội; kiên định mục tiêu, lý tưởng XHCN; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc... Đồng thời, chủ động đấu tranh vạch rõ âm mưu, thủ đoạn hiểm độc của các thế lực thù địch tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta ở mọi nơi, mọi lúc. Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy "xây" làm cơ sở quyết định để “chống”. Trước hết, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tập trung xây dựng, củng cố hệ thống chính trị luôn trong sạch, vững mạnh để bảo đảm sự “miễn dịch” trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Phát hiện kịp thời các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ khi còn ở dạng mầm mống, khả năng để làm cơ sở đấu tranh, phê phán, ngăn chặn hữu hiệu. Đồng thời, đấu tranh kiên quyết và triệt để với tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, coi đó như một thứ “giặc nội xâm”, không khác gì cuộc đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Thứ ba, phải coi trọng công tác tổ chức, cán bộ kết hợp với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cần làm tốt công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chủ trì các cấp trong hệ thống chính trị, không để các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Vì thế, phải coi trọng gắn kết chặt chẽ công tác tổ chức, cán bộ với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ lý luận cách mạng, năng lực công tác, trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, để mỗi người không dao động tư tưởng trước những tình huống khó khăn, phức tạp. Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn nham hiểm để hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Song, mọi mưu đồ của chúng có thực hiện được hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta. Vì vậy, cần khẳng định, khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam luôn nhận rõ mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay; đồng thời, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng luôn vững niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự quản lý của Nhà nước, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, thì sẽ góp phần phòng ngừa, đẩy lùi được nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Quan điểm của Hồ Chí Minh về giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân

Trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân. Điều này, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với cách mạng nước ta, góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Lợi ích theo Từ điển Tiếng Việt, là “điều có lợi, có ích cho một đối tượng nào đó, trong mối quan hệ với đối tượng ấy”[1]. Theo đạo đức học Mác - Lênin, “lợi ích là những điều kiện vật chất, tinh thần có tính khách quan đối với sự tồn tại và phát triển bình thường của các cá nhân, các cộng đồng người, các giai cấp và của xã hội nói chung”[2]. Với ý nghĩa đó, lợi ích cá nhân được hiểu là những điều có lợi, có ích cho cá nhân nói chung. Lợi ích cách mạng được hiểu là lợi ích chung của toàn dân tộc qua từng thời kỳ lịch sử. Trong đó, xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam là xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, giành độc lập dân tộc và xây dựng thành công xã hội mới đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Trong bối cảnh đất nước bị xâm lược thì mục tiêu hàng đầu mà Hồ Chí Minh quan tâm đó là đánh đuổi chủ nghĩa thực dân, giành độc lập, tự do cho dân tộc. Độc lập cho dân tộc là điều kiện để nhân dân được tự do, đồng bào được hạnh phúc. Nếu không có độc lập dân tộc thì không thể nói tới phát triển đất nước. Khi đất nước bị mất chủ quyền thì tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong xã hội đều phải chịu chung số phận của người nô lệ, đều phải chịu chung nỗi nhục mất nước. Người nhận thức sâu sắc rằng, độc lập dân tộc là cái trước hết, trên hết nhưng sau khi giành được độc lập rồi, thì đất nước sẽ phát triển theo con đường nào? Từ thực tiễn phong trào cứu nước của ông cha và lịch sử nhân loại, Hồ Chí Minh khẳng định phương hướng phát triển của dân tộc trong bối cảnh thời đại mới đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc, phù hợp với xu thế thời đại và phù hợp với nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta. Mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân luôn tiềm tàng một mâu thuẫn, quan hệ giữa chúng là quan hệ giữa cái chung và cái riêng nên mâu thuẫn này là mâu thuẫn giữa cái chung và cái riêng, chứ không phải là mâu thuẫn đối kháng. Do đó, xã hội và cá nhân cần có sự điều chỉnh mối quan hệ giữa hai lợi ích trên. Với tư duy chính trị sắc bén, Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân. Nó góp phần khơi dậy, phát huy sức mạnh của cá nhân và cộng đồng trong sự nghiệp cách mạng chung. Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Hồ Chí Minh là phải đặt lợi ích của cách mạng, lợi ích của Tổ quốc lên trên lợi ích cá nhân. Điều này, được Người giải thích rất rõ trong “Bài nói tại buổi bế mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính các cơ quan trung ương” như sau: “Mọi người nhận rõ lợi ích chung của dân tộc phát triển và củng cố thì lợi ích riêng của cá nhân mới có thể phát triển và củng cố. Cho nên lợi ích cá nhân ắt phải phục tùng lợi ích của dân tộc, chứ quyết không thể đặt lợi ích cá nhân trên lợi ích dân tộc. Đó là một tiến bộ”[3]. Vì “tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ chung của dân tộc”[4]. Sau này, trong tác phẩm “Đạo đức cách mạng”, Người khẳng định: “Trong chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ, thì mỗi người là một bộ phận của tập thể, giữ một vị trí nhất định và đóng góp một phần công lao trong xã hội. Cho nên lợi ích cá nhân là nằm trong lợi ích của tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được bảo đảm thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thoả mãn. Lợi ích của cá nhân gắn liền với lợi ích của tập thể. Nếu lợi ích cá nhân mâu thuẫn với lợi ích tập thể, thì đạo đức cách mạng đòi hỏi lợi ích riêng của cá nhân phải phục tùng lợi ích chung của tập thể”[5]. Trong bối cảnh đất nước mất chủ quyền, thực hiện giải phóng dân tộc trước hết đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp. Vì thế, lợi ích của giai cấp, của cá nhân phải phục tùng lợi ích của dân tộc. Tại Hội nghị lần thứ 8, của Ban chấp hành Trung ương Đảng (5/1941), Người khẳng định: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại lại được”. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam được tự do, nông dân có ruộng đất để cày cấy, trí thức được tự do sáng tạo… các giai cấp, tầng lớp trong xã hội từ thân phận của người nô lệ trở thành người chủ nước nhà. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh rất coi trọng công tác nêu gương, vì đối với người phương Đông “Một tấm gương sống còn giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người nêu những tấm gương sáng của các vị anh hùng dân tộc và những cử chỉ tốt đẹp của Việt Minh đã luôn đặt lợi ích cách mạng, lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích cá nhân để mọi người noi theo. Trong “Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng”, Người khẳng định: “Các đồng chí ta như đồng chí Trần Phú, đồng chí Ngô Gia Tự, đồng chí Lê Hồng Phong, đồng chí Nguyễn Thị Minh Khai, đồng chí Hà Huy Tập, đồng chí Nguyễn Văn Cừ, đồng chí Hoàng Văn Thụ, và trăm nghìn đồng chí khác đã đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết. … Khi tổ chức Chính phủ lâm thời, có những đồng chí trong Uỷ ban Trung ương do Quốc dân đại hội bầu ra, đáng lẽ tham dự Chính phủ, song các đồng chí ấy đã tự động xin lui, để nhường chỗ cho những nhân sĩ yêu nước nhưng còn ở ngoài Việt Minh. Đó là một cử chỉ vô tư, tốt đẹp, không ham chuộng địa vị, đặt lợi ích của dân tộc, của đoàn kết toàn dân lên trên lợi ích cá nhân. Đó là một cử chỉ đáng khen, đáng kính mà chúng ta phải học”[6]. Bên cạnh đó, Người còn dùng hình ảnh sinh động của “tàu điện” để phân tích một cách dễ hiểu về biểu hiện của việc chỉ chăm lo cho lợi ích cá nhân mình, tách cá nhân ra khỏi cộng đồng. Trong bài “Nói chuyện tại hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục”, Người nhấn mạnh: “…Trong khi kinh tế tài chính của ta có khó khăn lại muốn một mình ăn no mặc ấm. Ví dụ, ngoài đường kia có tàu điện chạy qua. Trong tàu điện có gái, trai, già, trẻ. Tàu điện đi đến đâu thì mọi người đi đến đó. Nhưng có người nói tàu điện chạy chậm quá muốn riêng mình đi cho mau, muốn nhảy ra khỏi tàu điện để chạy lên trước. Kết quả sẽ thế nào? Có thể là què chân, gãy tay. Vì vậy, không thể tách rời tiền đồ của cá nhân mình với tiền đồ của toàn dân, toàn Đảng”[7]. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như truyền thống của dân tộc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”. Nhưng quần chúng phải được giác ngộ, phải được tổ chức, được lãnh đạo theo một đường lối đúng đắn thì mới trở thành một lực lượng to lớn. Để làm được những việc có tầm rộng lớn ấy, Người thấy rõ phải đưa chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối cách mạng vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từ đó thành lập Đảng Cộng sản để lãnh đạo sự nghiệp cách mạng. Trong nhiều bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vấn đề phải đặt lợi ích cách mạng, lợi ích của Đảng lên trên hết. Bởi vì, Đảng chính là người lãnh đạo, dẫn dắt toàn dân thực hiện lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, của nhân dân, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích khác… Vì vậy, mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài…”[8]. Theo Người, đó là mục đích, lý tưởng cao cả của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” trung thành của nhân dân. Do đó, người dân Việt Nam luôn coi Đảng ta là của chính mình. Sau này, trong bài “Nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục”, Người đã khẳng định mục đích đấu tranh của Đảng ta: “là muốn cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm, được tự do”[9]. Mục đích của mỗi đảng viên đấu tranh cũng để mọi người được ăn no mặc ấm, được tự do. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân, đại diện cho ý chí, lợi ích của giai cấp công nhân, nhưng lợi ích của giai cấp công nhân về cơ bản là thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động. Người viết: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không phải mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào... Giai cấp công nhân chẳng những đấu tranh để tự giải phóng, mà còn để giải phóng cả loài người khỏi áp bức, bóc lột. Cho nên lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích của nhân dân là nhất trí. Đảng viên là người thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp”[10]. Có thể nói, những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân gắn liền với sự giải phóng nó về mặt kinh tế, chính trị và tinh thần, gắn liền với sự phát triển toàn diện và tự do của loài người. Theo Hồ Chí Minh, “đặt lợi ích của Đảng, tức là đặt lợi ích của nhân dân lên trên, lên trước hết”[11], biết đem lợi ích của cá nhân phục tùng lợi ích chung của cách mạng là một trong những tiêu chuẩn của người đảng viên Đảng Lao động Việt Nam. Một mặt, Hồ Chí Minh nêu lên những biểu hiện về sự thống nhất giữa lợi ích chính đáng của cá nhân với lợi ích của Đảng, mặt khác, Người cũng phê phán những biểu hiện cần tránh, đó là: “Nhiều khi lợi ích của cá nhân hợp với lợi ích của Đảng. Thí dụ đảng viên và cán bộ cẩn thận giữ gìn sức khoẻ của mình để làm việc. Ham học tập để nâng cao trình độ của mình. Làm đúng cần, kiệm, liêm, chính để cho dân tin, dân phục, dân yêu. Những lợi ích cá nhân đó rất chính đáng. Đảng mong cho đảng viên và cán bộ như thế. Song ngoài ra, như ham muốn địa vị, tìm cách phát tài, ra mặt anh hùng, tự cao tự đại, v.v.. Đó đều là trái với lợi ích của Đảng”[12]. Đồng thời, Người cũng lý giải tại sao mọi người lại lo nghĩ cho cá nhân trong bài “Nói chuyện tại hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục” như sau: “Có khi các cô, các chú lo nghĩ cho cá nhân, cái đó cũng dễ hiểu. Vì người ta không phải là thần thánh gì. Vả lại, khuyết điểm trong xã hội ảnh hưởng đến các cô, các chú”[13]. Có thể nói, dân tộc Việt Nam có truyền thống đề cao cộng đồng mà chưa có truyền thống và ý thức tôn trọng cá tính, nhân cách độc lập của mỗi người một cách đúng mức. Đây là mặt yếu, mà chúng ta đang dần dần khắc phục, để tạo ra một cuộc sống hài hòa giữa cộng đồng và cá nhân. Một mặt, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải đặt lợi ích cách mạng, lợi ích của Tổ quốc lên trên lợi ích cá nhân; mặt khác, Người cũng rất tôn trọng, quan tâm, chăm lo đến lợi ích cá nhân chính đáng. Người viết: “Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình. Nếu những lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích của tập thể thì không phải là xấu. Nhưng lại phải thấy rằng chỉ ở trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình. Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thoả mãn bằng chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”[14]. Đây là sự tiếp tục quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa tập thể. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã khẳng định rằng: Chỉ có chủ nghĩa xã hội và sau đó là chủ nghĩa cộng sản mới có điều kiện phát huy toàn diện năng lực bản chất của con người, tự do, nhu cầu, khát vọng, năng khiếu của con người, C.Mác viết rằng, trong chủ nghĩa xã hội “sẽ xuất hiện một liên hợp trong đó có sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”[15]. Bởi, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng triệt để, sự thay đổi các điều kiện kinh tế - xã hội một cách căn bản và tiến bộ đã dẫn đến sự thay đổi các mặt đời sống xã hội, đem giá trị của con người trả lại cho con người, coi con người là mục đích cao nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở, chống chủ nghĩa cá nhân nhưng “không giày xéo lên lợi ích cá nhân”. Điều này tưởng chừng đơn giản nhưng để nhận thức đầy đủ và thực hiện đúng lại không đơn giản chút nào. Bởi lẽ, nếu quá nhấn mạnh lợi ích cá nhân, con người sẽ dễ sa vào chủ nghĩa cá nhân và ngược lại, chống chủ nghĩa cá nhân không thận trọng sẽ “giày xéo” lên lợi ích chính đáng của cá nhân. Cả hai khuynh hướng trên đều dẫn tới những kết quả là cản trở sự nghiệp giải phóng cá nhân, khó thực hiện mục tiêu đem lại tự do, hạnh phúc cho mỗi người trong chế độ xã hội mới - xã hội chủ nghĩa. Ở đây, biểu hiện quan hệ giữa cá nhân và xã hội, lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội thống nhất với nhau. Ở đó, con người không chỉ nghĩ và hành động vì mình mà vì người khác, có tinh thần trách nhiệm và thái độ tôn trọng, chăm sóc lẫn nhau. Do đó, chúng ta phải chăm lo đến lợi ích vật chất, tác động vào các động lực chính trị - tinh thần như: phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội, bồi dưỡng các nhân tố đạo đức, văn hóa, pháp luật… để phát huy sức mạnh cá nhân. Để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân, theo Hồ Chí Minh, trước hết phải chiến thắng kẻ thù bên trong của mỗi chúng ta là “chủ nghĩa cá nhân”, phải biết đặt lợi ích của dân tộc, của giai cấp lên trên lợi ích cá nhân, phải biết quên mình cho nghĩa lớn. Vì vậy phải chống chủ nghĩa cá nhân. “Chủ nghĩa cá nhân” được hiểu là “cái gì cũng chỉ biết có mình và gia đình mình chứ ít khi nghĩ đến cái gia đình lớn là dân tộc, cái mình lớn hơn là phải hòa mình vào với dân tộc”[16]. Người ví chủ nghĩa cá nhân “như là một thứ vi trùng rất độc”, nó “đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phí... Nó trói buộc, nó bịt mắt những nạn nhân của nó, những người này bất kỳ việc gì cũng xuất phát từ lòng tham muốn danh lợi, địa vị cho cá nhân mình, chứ không nghĩ đến lợi ích của giai cấp, của nhân dân”[17]. Sau này, Người còn chỉ ra những tác hại của chủ nghĩa cá nhân khi đảng viên mắc phải, như: “Vì chưa rửa gột sạch chủ nghĩa cá nhân, cho nên có đảng viên còn “kể công” với Đảng. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thoả mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng, cho rằng họ “không có tiền đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính sách và kỷ luật của Đảng”[18]. Trong khi miền Bắc nước ta đang tiến lên chủ nghĩa xã hội - Đó là công trình tập thể của hàng chục triệu người lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, thì Người nhắc nhở: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”.[19] Vậy, “Chủ nghĩa xã hội là cái gì? Là mọi người được ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do. Nhưng nếu muốn tách riêng một mình mà ngồi ăn no, mặc ấm, người khác mặc kệ, thế là không tốt. Mình muốn ăn no mặc ấm, cũng cần làm sao cho tất cả mọi người được ăn no mặc ấm, như thế mới đúng. Muốn như vậy, phải ra sức công tác, ra sức lao động sản xuất”[20]. Đồng thời, với việc chống chủ nghĩa cá nhân, Người đặc biệt coi trọng nâng cao đạo đức cách mạng, bồi dưỡng tư tưởng tập thể, tinh thần đoàn kết, tính tổ chức và tính kỷ luật. Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải “hết lòng tôn trọng tập thể, phát huy dân chủ nội bộ”, “phải đi sâu, đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Phải cố gắng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ hiểu biết để làm tốt mọi nhiệm vụ…”[21] Có thể nói, tư tưởng và tấm gương đạo đức của chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá mà Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta. Đây là một trong những nhân tố góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cho đến nay, những quan điểm của Người về giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân vẫn còn giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đây cũng là nội dung, phương hướng rèn luyện đạo đức của mỗi người theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Nó là kim chỉ nam của Đảng ta trong việc xây dựng đạo đức mới trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Những quan điểm trên của Người vẫn tiếp tục chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Đặc biệt là trong bối cảnh, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên sa sút về phẩm chất đạo đức, phai nhạt lý tưởng cách mạng, quá coi trọng đến lợi ích cá nhân đã và đang làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ thì việc nắm vững những quan điểm của Người về giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân có giá trị thời sự sâu sắc. Hiện nay, vận dụng quan điểm của Người để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng với lợi ích cá nhân, đòi hỏi mọi suy nghĩ và hành động của cá nhân phải trên cơ sở lợi ích chung của tập thể, của Đảng, của đất nước, trong đó có quyền lợi của chính bản thân mình, đó là phấn đấu vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong từng nhiệm vụ cụ thể, phải đặt lợi ích chung của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích của cá nhân mình. Đồng thời, xã hội phải có những cơ chế đảm bảo lợi ích chính đáng của cá nhân. Trong cơ chế cũ, có lúc chúng ta đã tuyệt đối hóa tập thể, triệt tiêu cá nhân. Lợi ích xã hội nhiều khi được quan niệm rất trừu tượng, mơ hồ, biến lợi ích chung thành lợi ích của thứ “cộng đồng hư ảo” như Mác đã nói… Ngày nay, trong quá trình chuyển đổi cơ chế lại có một sự điều chỉnh, đánh giá lại mối quan hệ giữa cá nhân với tập thể và xã hội. Việc phát huy nhân tố con người trên cơ sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ; kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội; đáp ứng nhu cầu trước mắt với lợi ích lâu dài giữa cá nhân và cộng đồng là điều kiện đảm bảo tốt nhất vấn đề lợi ích, là cơ sở để đảm bảo sự gắn bó giữa Đảng với dân ở nước ta hiện nay. Như vậy, với nhãn quan chính trị sắc bén, Hồ Chí Minh đã giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích cách mạng và lợi ích cá nhân. Sự thống nhất, hài hòa các lợi ích này là động lực cho cá nhân hoạt động, là cơ sở cho sự gắn bó giữa cá nhân với tập thể và xã hội; đồng thời, phát huy được sức mạnh của cộng đồng cũng như sức mạnh cá nhân trong sự nghiệp cách mạng chung, góp phần đưa cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn.

Xây dựng "sức đề kháng" trước sự xâm nhập của thông tin xấu độc

Thông tin sai trái, độc hại do các thế lực thù địch chủ mưu thực hiện là sự phản ánh sai lệch sự thật, chủ ý bóp méo, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả, chân lý, sai lầm, nhằm lừa bịp, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Thông tin sai trái, độc hại do các thế lực thù địch chủ mưu thực hiện là sự phản ánh sai lệch sự thật, chủ ý bóp méo, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả, chân lý, sai lầm, nhằm lừa bịp, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân vào Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng. Tác hại của thông tin sai trái, độc hại là rất lớn, nó không chỉ gây bất lợi cho sự ổn định an ninh chính trị mà còn làm ô nhiễm môi trường thông tin xã hội. Nó tựa như bụi bẩn, khói đen trộn lẫn vào không khí, người đi đường hít thở phải nó, gây ngạt thở, giàn giụa nước mắt và ho sặc sụa hoặc ví như nước sạch bị ô nhiễm tanh hôi của phế thải, làm người dùng sinh bệnh hiểm nghèo, lây nhiễm ung thư. Vì lẽ đó, thông tin sai trái, độc hại không chỉ xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, kỷ luật của Quân đội, hạ thấp uy tín, danh dự của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội mà còn cố tình gây nhiễu loạn thông tin, tạo sự phân tâm trong xã hội, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan, chán nản, thất vọng, thậm chí mất phương hướng, mơ hồ về chính trị ở một bộ phận cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động, bọn cơ hội chính trị là đẩy mạnh việc tung tin xấu độc, làm ô nhiễm bầu không khí chính trị ở nước ta trước, trong và sau đại hội Đảng các cấp nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, lái nước ta đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Nham hiểm, ác độc hơn, chúng sử dụng mọi thủ đoạn có thể để cố tình gây mâu thuẫn trong nội bộ ta, chia rẽ sự đoàn kết thống nhất giữa Đảng với Nhà nước, giữa Đảng, Nhà nước với Quân đội và Nhân dân, làm rối loạn môi trường chính trị để dễ bề thúc đẩy "tự diễn biến","tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng, Nhà nước và Nhân dân, đòi “phi chính trị hóa” quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thủ tiêu thành quả cách mạng mà nhân dân ta bằng xương máu, mồ hôi, công sức của mình xây đắp nên; hướng lái nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Một trong những giải pháp quan trọng, góp phần tạo sức đề kháng trước thông tin xấu độc là chúng ta cần hết sức chủ động, tích cực ngăn chặn, đẩy lùi, bác bỏ các thông tin sai trái, độc hại do các thế lực thù địch gây ra với nhiều thể loại; đồng thời, đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục chính trị nhằm củng cố vững chắc trận địa tư tưởng, văn hóa của Đảng trong quân đội, đặc biệt chăm lo công tác xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, chiến sĩ quân đội ta hiện nay. Vì sao phải làm như vậy? Bởi lẽ, bản lĩnh chính trị vững vàng của cán bộ, chiến sĩ quân đội ta là thước đo phẩm chất chính trị, giá trị nhân cách Bộ đội Cụ Hồ với các thuộc tính bền vững: Kiên định nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó; là vũ khí sắc bén để cán bộ, chiến sĩ tự tin chiến đấu, hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn, suốt đời tận trung với nước, tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Các tín điều trong giáo lý Công giáo

 


(1) -Thiên Chúa và sự sáng tạo thế giới của Thiên Chúa:

+ Tin vào Thiên Chúa và sự màu nhiệm của Thiên Chúa là tín điều căn bản đầu tiên của Công giáo. Giáo lý Công giáo cho rằng Thiên Chúa là đấng thiêng liêng, sáng láng, có quyền phép vạn năng; Chúa là đấng hằng hữu có trước không gian và thời gian.

+ Thiên Chúa có ba ngôi, tuy là ba ngôi nhưng cũng cùng một bản thể - Thiên Chúa (tam vị nhất thể), mỗi ngôi có chức năng riêng: Ngôi thứ nhất là Cha - tạo dựng; Ngôi thứ hai là Con - cứu chuộc; Ngôi thứ ba là Thánh thần - thánh hóa.

 + Thiên Chúa là đấng sáng tạo: tạo dựng trời đất và muôn loài trong 6 ngày, ngày thứ bảy sau khi hoàn thành công việc tạo dựng thế giới, Thiên Chúa nghỉ ngơi và ngày đó được gọi là ngày Chúa nhật (Chủ nhật).

(2)- Con người và sự sa ngã của con người: Kinh Thánh cho rằng, con người do Thiên Chúa tạo ra theo hình ảnh của Ngài; được tạo dựng với mục đích là thờ phụng Thiên Chúa và tiếp tục kiến tạo thế giới. Con người, theo quan niệm của Công giáo có hai phần: phần xác hữu hình, mang tính phàm tục, có sinh có tử; còn phần hồn vô hình, thiêng liêng và bất tử. Con người sau khi chết, thể xác trở về với cát bụi còn phần hồn sẽ tồn tại vĩnh cửu theo sự phán xét của Thiên Chúa.

Giáo lý Công giáo đặc biệt nhấn mạnh đến tội lỗi, sự sa ngã của con người và coi đó thuộc về bản tính người. Chính vì những tội lỗi đó mà con người phải chết. Sau khi chết, linh hồn không được vào Thiên đường ngay mà phải chịu sự phán xét của Thiên Chúa.

(3)- Chúa Giêsu và công cuộc cứu chuộc: Công giáo cho rằng, ngôi hai Thiên Chúa (Chúa con) đã xuống trần làm người để cứu chuộc tội lỗi cho loài người (Đấng cứu thế). Sau khi chết 3 ngày, Chúa Giêsu sống lại, sống tiếp 40 ngày cùng các môn đệ cứu độ chúng sinh. Trước khi về trời, Chúa Giêsu đã lập 7 phép Bí tích.

(4)- Chúa Giêsu trở lại và sự phán xét cuối cùng. Đây cũng là một trong những nội dung căn bản trong giáo lý Công giáo. Niềm tin vào việc Chúa Giêsu trở lại trần thế và phán xét cuối cùng được xem là việc hoàn tất công cuộc cứu chuộc (với 3 sự kiện: Tận thế, Phục sinh và sự phán xét của Thiên Chúa).

(5)- Thiên đường và địa ngục, thiên thần và ma quỷ. Trong Kinh Thánh Công giáo, Thiên đường và địa ngục, thiên thần và ma quỷ là những vấn đề thuộc đức tin và chúng có mối quan hệ gắn bó khăng khít. Riêng đối với Công giáo, ngoài thiên đường và địa ngục còn có thêm khái niệm luyện ngục.

Chuyển tiền nhầm: Xuất hiện thủ đoạn lừa đảo mới


        Một ngày nọ, tài khoản ngân hàng của bạn bỗng dưng nhận được một khoản tiền từ vài triệu đồng đến cả trăm triệu đồng mà không rõ người gửi. Bạn sẽ làm gì với số tiền đó? nên để kệ hay là rút ra tiêu - đa phần các chủ tài khoản đều có chung những câu hỏi trên.

 

          Thủ đoạn kiếm ăn trên lòng trắc ẩn

          Nếu có chuyện đó, chủ tài khoản cần cảnh giác ngay! Bởi thời gian qua đã xuất hiện những đối tượng chủ động chuyển nhầm tiền để lừa đảo.

          Bỗng dưng có tiền!

          Một buổi sáng tháng 5-2021, chị Hoàng Tử Vân - một người làm nghề tự do bỗng dưng nhận được tin nhắn từ điện thoại thông báo tài khoản của chị vừa được cộng thêm 30 triệu đồng.

          Cứ ngỡ đây là khoản tiền thù lao mà mấy công ty xuất bản trả cho hợp đồng dịch sách nên chị Vân lập tức rút 29 triệu đi mua điện thoại mới, rồi váy vóc, giày dép... Cho đến buổi tối, tài khoản của chị được cộng thêm 50 ngàn đồng kèm tin nhắn với nội dung xin lại tiền, vì lúc sáng chuyển nhầm. Bấy giờ, chị Vân mới liên hệ lại mấy công ty sách để hỏi thì họ nói khoảng 1 tuần - 10 ngày nữa mới chuyển thù lao cho chị.

          Trong khi chị đang trao đổi thì số điện thoại kia liên tục thúc giục chị "bắn" lại ngay, vì họ đang có việc cần. Chị Vân đã giải thích là do lúc sáng chị không biết là của họ chuyển nhầm mà tưởng đó là thù lao nên chị trót tiêu gần hết rồi, chị sẽ vay để trả lại cho họ. Suốt 30 phút sau đó, trong khi chị Vân gọi điện vay tiền từ người thân bạn bè để trả thì phía bên kia vẫn tiếp tục nã điện thoại. Thậm chí sau đó còn có cả tiếng giang hồ dọa dẫm...

          Một vụ việc khác. Anh Lê Phúc chuyên kinh doanh đồ công nghệ online cũng tự nhiên nhận được hàng trăm triệu đồng mà không rõ người gửi. Nghĩ là tiền "chùa", anh liền sử dụng để trả cho các đơn hàng đã mua trước đó. Anh Phúc nghĩ đơn giản là chỉ "mượn" một vài ngày rồi sẽ trả lại, không ngờ hàng hóa bán chậm mãi không gom đủ số tiền đã trót tiêu.

          Mặt khác, chủ tài khoản sau khi phát hiện ra chuyển nhầm đã nhắn tin cho anh xin lại. Phía bên ngân hàng cũng đã liên hệ với anh Phúc để trao đổi thông tin, bảo vệ quyền lợi cho khách hàng. Cho đến khi cơ quan công an vào cuộc thì anh này mới vội vàng đi vay mượn để trả lại số tiền kia.

          Theo đại diện của ngân hàng V., mỗi năm hệ thống ghi nhận hàng trăm lượt khách hàng đề nghị tra soát giao dịch do chuyển nhầm vào hệ thống của ngân hàng này. Điều này đồng nghĩa với việc có hàng trăm chủ tài khoản bỗng dưng nhận được tiền.

          Nếu chủ tài khoản bên nhận có thiện chí thì việc hoàn trả rất đơn giản, song nếu chủ tài khoản không thiện chí, hoặc họ đã trót tiêu mất rồi, chủ tài khoản ở nước ngoài... thì sẽ rất rắc rối. Quy định hiện nay không cho phép ngân hàng tiết lộ thông tin cá nhân của người nhận cho người chuyển tiền và cũng không được phép can thiệp tài khoản người nhận, tự ý hoàn trả số tiền chuyển nhầm khi chưa được sự đồng ý của chủ tài khoản nhận. Hay nói cách khác, ngân hàng chỉ có thể hỗ trợ người chuyển tiền nhầm bằng cách liên hệ với người nhận để họ tự nguyện hoàn trả tiền.

          Xuất hiện hành vi lừa đảo

          Theo một điều tra viên phòng Cảnh sát hình sự, Công an TP Hà Nội, thời gian gần đây Cơ quan công an đã ghi nhận một số trường hợp có dấu hiệu lừa đảo trong việc chuyển nhầm tiền vào tài khoản.

          Trường hợp anh Vũ Hoàng T. (trú tại quận Hoàng Mai, Hà Nội) mới xảy ra gần đây là một ví dụ. Vào một buổi trưa anh T. thấy tài khoản "nổ" một khoản tiền hơn 2 triệu đồng vào tài khoản. Anh ngồi thừ ra một lúc, nghĩ mãi mà không biết ai đã chuyển vào cho mình. Khoảng 30 phút sau, có một số điện thoại lạ gọi đến với anh, giọng một phụ nữ hết sức ngọt ngào. Chị ta cho biết đã lỡ chuyển nhầm cho anh T. và mong được anh chuyển lại. Chị ta cũng nói rằng đang ở nước ngoài nên nhờ anh đăng nhập vào dịch vụ chuyển tiền quốc tế qua một đường link. Không ngờ, sau khi điền xong các thông tin, anh T. phát hiện thấy mấy chục triệu đồng trong tài khoản của mình đã bị rút sạch.

          Bên cạnh đó, đã xuất hiện tình trạng một số đối tượng cố tình chuyển nhầm tiền để đẩy chủ tài khoản vào đường dây vay lãi nặng. Đó là trường hợp chị O. (trú tại quận Ba Đình, Hà Nội). Chị cho biết ngày 12-6-2021 chị bất ngờ nhận được số tiền hơn 45 triệu đồng chuyển vào tài khoản ngân hàng cùng với một nội dung đính kèm khó hiểu. Đến cuối giờ chiều cùng ngày, một tài khoản zalo lạ kết bạn với chị và nói rằng công ty tài chính đã giải ngân khoản vay của chị. Như vậy, chị O. bỗng nhiên bị biến thành một người vay nợ.

          Nhận thấy có dấu hiệu lừa đảo vì bản thân không thực hiện bất cứ thủ tục vay mượn nào, nên chị O. đã trình báo sự việc lên cơ quan công an. Có vẻ như biết được hành vi lừa đảo đã bất thành, đối tượng trên lập tức đổi thái độ, nhắn nhiều tin cho chị với nội dung hăm dọa. Chị O. cho biết đã thực hiện các thủ tục tra soát với ngân hàng, đồng thời giao toàn bộ số tiền cho cơ quan công an giải quyết.

          Được biết chiêu thức lừa đảo này đã từng được một số kẻ gian sử dụng vào năm 2020, nhắm vào những người hiền lành, nhẹ dạ cả tin. Cụ thể, sau khi đã có được một số thông tin cá nhân của người dùng, như tên tuổi, số điện thoại hay thậm chí là địa chỉ, các đối tượng lừa đảo sẽ cố ý "chuyển nhầm" một khoản tiền đến cho "con mồi". Kẻ lừa đảo sẽ giả danh là người thu hồi nợ của một công ty tài chính nào đó để liên hệ với "con mồi". Lúc này, chúng có thể yêu cầu người dùng trả lại số tiền kia như một khoản vay cùng với một khoản lãi "cắt cổ".

          Một chiêu thức khác của các đối tượng lừa đảo là lập ra trang web giả mạo ngân hàng, có giao diện khá giống với website của ngân hàng. Sau đó tìm kiếm trên mạng những trường hợp khách hàng chuyển khoản nhầm và đóng giả nhân viên ngân hàng hỗ trợ khắc phục sự cố chuyển nhầm, nhận nhầm. Khi bị hại tin thật, nhóm này gửi đường link để họ đăng nhập vào trang web giả mạo để chiếm đoạt thông tin, chiếm đoạt tiền trong tài khoản thật của khách hàng.

          Vào đầu tháng 5-2021 vừa qua, Công an quận Đống Đa, TP.Hà Nội đã bắt giữ nhóm đối tượng chuyên giả danh ngân hàng lừa đảo người chuyển khoản nhầm để chiếm đoạt tiền của họ. Các đối tượng trong ổ nhóm này gồm Trương Huy Cường (SN 1993), Lê Minh Hoàng (SN 1998) và Lưu Quốc Toàn (SN 1987), đều trú tại tỉnh Quảng Nam.

          Trước đó các đối tượng phát hiện ra chị Phạm Thị T. (trú tại quận Đống Đa, Hà Nội) chuyển nhầm tiền và lên mạng hỏi cách lấy lại. Các đối tượng lập tức đóng vai là nhân viên ngân hàng liên hệ lại rồi chiếm quyền quản trị tài khoản, lấy đi hơn 200 triệu đồng của chị. Để tránh bị truy vết, nhóm này chuyển tiền từ tài khoản người bị hại vào tài khoản ví điện tử sử dụng SIM rác. Từ các ví điện tử này sẽ chuyển tiền nạp vào game có máy chủ đặt tại nước ngoài.

          Làm gì khi "Bỗng dưng có tiền"?

          Theo một điều tra viên phòng Cảnh sát hình sự, Công an TP Hà Nội, khi chủ tài khoản bỗng dưng nhận được một khoản tiền "chuyển nhầm" cho mình thì cần làm theo các bước sau. Một là không sử dụng số tiền ấy vào việc chi tiêu cá nhân, nếu đó là tiền chuyển nhầm thật thì sẽ có đại diện ngân hàng liên hệ để làm việc, hoặc người dân có thể chủ động liên hệ với ngân hàng để thông báo.

          Nếu là số tiền nhỏ thì chủ tài khoản có thể yêu cầu ngân hàng cung cấp sao kê rồi đối chiếu với những thông tin nhận được và tiến hành chuyển lại. Còn đối với số tiền lớn thì chủ tài khoản nên sắp xếp thời gian đến trực tiếp chi nhánh ngân hàng để thực hiện việc xác minh. Hoặc người dân cũng có thể liên hệ với cơ quan công an để giải quyết.

          Người dân tuyệt đối không chuyển hoàn cho người lạ khi không có bên thứ ba làm chứng, tránh bị phiền toái sau này. Đồng thời không chuyển hoàn vào một tài khoản khác với tài khoản đã chuyển cho mình, phải chờ ngân hàng giải quyết trước. Khi nhận được điện thoại từ ngân hàng, bạn cần kiểm tra xem có đúng là số của ngân hàng không. Để chắc chắn hơn, chủ tài khoản nên đến ngân hàng làm việc trực tiếp. Đặc biệt không bao giờ cung cấp mã OTP, tên đăng nhập, password của tài khoản ngân hàng cho bất cứ ai kể cả họ có tự xưng là người thân, bạn bè, nhân viên ngân hàng hay cơ quan chức năng...

 

Phụ hoạ, hùa theo những luận điệu sai trái – Căn bệnh chữa trị

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội (ĐBQH) khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân (ĐBHĐND) các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã thành công đẹp. Sự thành công của cuộc bầu cử càng thêm ý nghĩa khi diễn ra trong bối cảnh đại dịch Covid-19 hoành hành trên khắp đất nước. Không chỉ dư luận trong nước mà dư luận quốc tế cũng đánh giá cao thành công của sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng này. Thế nhưng sẽ trọn vẹn hơn nếu không có chuyện trong nội bộ ta một số phần tử cơ hội, bất mãn chính trị hùa theo các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để xuyên tạc nền dân chủ ở Việt Nam. Thông qua vài trang tiếng Việt ở nước ngoài và mạng xã hội, một số người viết bài, trả lời phỏng vấn cho rằng Đảng lãnh đạo cuộc bầu cử chẳng khác nào “vừa đá bóng, vừa thổi còi”; là “đứng trên pháp luật”, “đứng ngoài pháp luật”... Họ mang cuộc bầu cử mà chúng ta vừa tiến hành ra so sánh với các cuộc bầu cử ở Mỹ và một số nước phương Tây rồi nói rằng chế độ bầu cử, nền dân chủ ở Việt Nam là “hình thức”, “thiếu văn hóa dân chủ”... Họ tỏ thái độ không đồng tình với việc Hội đồng BCQG qua mạng viễn thông gửi tin nhắn tuyên truyền về cuộc bầu cử ĐBQH và ĐBHĐND các cấp và cho việc làm đó là vi phạm quyền con người.v.v... Đáng lưu ý trong số đó có những người trước đây là nhà khoa học, nhà báo, nhà văn, nhà thơ... khi còn đương chức họ ngụy trang kín đáo nên khó phát hiện. Khi về nghỉ hưu thì những gì họ che đậy mới bộc lộ. Trước những sự kiện quan trọng của đất nước họ không chỉ vô cảm mà còn đưa ra những ý kiến đi ngược với quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước; a dua, phụ họa theo những quan điểm, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch nhằm chống phá Việt Nam, như: Không thể có dân chủ trong chế độ một Đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam; chỉ thực hiện chế độ đa đảng mới có dân chủ thực sự.v.v... Mục đích sâu xa của những giọng điệu ấy không gì khác vẫn là lợi dụng cuộc bầu cử để xuyên tạc nền dân chủ của Việt Nam;... Đó là những giọng điệu hết sức sai lầm. Bàn về dân chủ, nhân quyền trước hết cần phải hiểu: Quyền con người là một giá trị cao quý mang tính phổ quát đối với toàn thể nhân loại, đó là một thực tế không ai có thể phủ nhận. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, cộng đồng quốc tế thừa nhận, quyền con người, quyền dân chủ là một giá trị mang tính lịch sử, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với đường hướng phát triển của chế độ chính trị - xã hội, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử, truyền thống văn hóa... của mỗi quốc gia, dân tộc. Những nét cơ bản ấy có lẽ ai cũng hiểu được. Vậy chẳng lẽ một số người, trong đó có cả những người vẫn thường khoe mẽ là giáo sư, tiến sĩ... đã từng làm chức nọ, chức kia lại không hiểu được điều ấy? Nếu hiểu được mà vẫn cố tình đem dân chủ phương Tây, bầu cử ở các nước tư bản ra để luận bàn, so sánh với dân chủ, chế độ bầu cử ở Việt Nam thì đó là hành động vô lối và không thể chấp nhận. Hơn thế càng không thể bê cái mô hình dân chủ tư sản, chế độ bầu cử, “tiêu chuẩn nhân quyền” kiểu tư bản chủ nghĩa để áp đặt vào Việt Nam. Chiêu bài “xuất khẩu” dân chủ phương Tây, dùng “dân chủ, nhân quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, trong đó có Việt Nam được các thế lực thù địch toan tính từ lâu. Nhân dân Việt Nam và nhân loại yêu chuộng hòa bình thế giới chẳng lạ chiêu trò đen tối ấy. Việt Nam sẵn sàng học hỏi, tiếp thu tinh hoa của thế giới để hoàn thiện nền dân chủ của mình. Nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam khẳng định mạnh mẽ và dứt khoát không bao giờ chấp nhận kiểu dân chủ vô lối mà một số phần tử bất mãn chính trị đang tung hô, tô vẽ. Dù bằng chiêu trò gì chăng nữa, các thế lực thù địch, phản động cũng không thể “xuất khẩu”, không thể áp đặt cái thứ “dân chủ vô chính phủ” ấy vào Việt Nam.

Thứ Năm, 1 tháng 7, 2021

ĐA ĐẢNG KHÔNG PHẢI CỨU CÁNH CHO DÂN CHỦ

Như đã đặt vấn đề, dân chủ chính là quyền của người dân làm chủ vận mệnh của mình, làm chủ xã hội mà mình đang sống trên tất cả các lĩnh vực, trong mọi hoạt động. Dân chủ gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các chế độ xã hội và thời đại khác nhau. Dân chủ chỉ xuất hiện khi có nhà nước và mỗi nền dân chủ đều phải gắn với một nhà nước nhất định, được pháp luật của nhà nước đó quy định. Chế độ dân chủ mà con người ta có được là kết quả của quá trình phát triển thông qua đấu tranh giai cấp, để giải phóng con người. Chừng nào xã hội còn có giai cấp thì dân chủ trong xã hội đó mang tính giai cấp sâu sắc và phải đặt trong khuôn khổ pháp luật của xã hội đó. Không có thứ dân chủ chung chung phi giai cấp, không có thứ dân chủ nằm ngoài pháp luật... Tất cả những luận điệu phủ nhận vấn đề này đều là lừa bịp, nhằm động cơ đen tối. Dân chủ chẳng những không thể tách rời mảnh đất hiện thực xã hội, mà còn phụ thuộc rất lớn vào nền tảng kinh tế, văn hóa, xã hội và trình độ dân trí của xã hội đó. Chúng ta không phủ nhận theo lịch sử phát triển của xã hội, sự ra đời của nhà nước tư sản đánh dấu một nấc thang phát triển về dân chủ so với dân chủ trong chế độ phong kiến. Nhưng nền dân chủ trong chế độ tư bản cũng không thể vượt ra ngoài nền tảng kinh tế của xã hội đã sinh ra nó. Do đó toàn bộ thiết chế của nền dân chủ tư sản đều chỉ nhằm đến mục đích cao nhất là bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản. Bộ máy chính quyền mà nhà nước tư sản lập nên đều hướng đến mục tiêu chống lại tư tưởng tự do, dân chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Với tư cách là một nấc thang phát triển cao hơn xã hội tư bản, dân chủ trong xã hội chế độ XHCN khác hẳn về chất so với dân chủ trong xã hội tư bản. Nền dân chủ XHCN lấy tiêu chí cốt lõi để khẳng định bản chất nhà nước của mình đó là “nhân dân là chủ” và “nhân dân làm chủ”. Theo đó, dân chủ XHCN được thể hiện trên những nội dung cốt lõi là: nền dân chủ của nhân dân lao động, vì nhân dân lao động, thể hiện ở việc bảo vệ quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của nhân dân lao động; thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do được bảo đảm về mặt pháp lý để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Dân chủ XHCN có nội dung toàn diện, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,... trong đó nổi bật là sự tham gia một cách bình đẳng và ngày càng rộng rãi người lao động và công việc quản lý nhà nước và xã hội thông qua hai hình thức, đó là: dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện. Nhìn từ bản chất của hai nền dân chủ, chúng ta thấy rõ ràng dân chủ XHCN ưu việt hơn hẳn. Do đó việc Việt Nam lựa chọn nền dân chủ XHCN là điều không cần phải tranh luận.

ĐẤU TRANH ĐẨY LÙI NHỮNG NHẬN THỨC LỆCH LẠC

Đối với Việt Nam, dân chủ là bản chất của chế độ; dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước. Dân chủ không phải là thứ bất biến mà nó vận động phát triển không ngừng theo quá trình đi lên của lịch sử xã hội. Bằng nhiều chủ trương, giải pháp chúng ta phấn đấu đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội; bảo đảm an toàn, an ninh, trật tự; hoàn thiện hệ thống pháp luật... Thực chất đó là quá trình chúng ta hoàn thiện nền dân chủ, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực tế cho thấy việc thực hành dân chủ trong Đảng, trong bộ máy Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội; cũng như trên mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống ở Việt Nam đang ngày càng tốt hơn. Sẽ là sai lầm nghiêm trọng khi cho rằng chỉ có đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ thực sự”. Một điều mà chúng ta phải khẳng định với nhau rằng, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng mà nó hoàn toàn phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền và bản chất của chế độ xã hội. Do đó thể chế nhất nguyên một đảng lãnh đạo hoàn toàn không đồng nghĩa với mất dân chủ hay kém dân chủ. Thực tiễn tại nhiều quốc gia cho thấy đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là nước nghèo, kém phát triển. Trong khi nhiều quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng dân chủ được bảo đảm; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển; đời sống của nhân dân ngày càng nâng cao. Đó là bằng chứng hùng hồn khẳng định đa nguyên, đa đảng không phải cứu cánh cho dân chủ. Sự xuất hiện những luận điệu sai trái về nền dân chủ XHCN ở Việt Nam do nhiều nguyên nhân, nhưng có thể khu biệt lại ở hai nguyên nhân chính là: do nhận thức hạn chế, thiếu hiểu biết mà vô tình nói sai và nhận thức rõ, có hiểu biết nhưng cố tình phát ngôn lệch chuẩn. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vấn đề này rất rõ ràng. Với những người do nhận thức hạn chế mà vô tình phát ngôn lệch chuẩn thì phải tuyên truyền để giúp họ nâng cao nhận thức, hiểu biết về dân chủ. Còn với những người hiểu biết rõ về dân chủ nhưng cố tình xuyên tạc, phụ họa, hùa theo các thế lực thù địch nhằm lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước thì phải nghiêm trị theo pháp luật. Đảng và Nhà nước ta luôn phấn đấu để bảo đảm và phát huy dân chủ của nhân dân, đi liền với đó là tăng cường pháp chế XHCN, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, theo tinh thần “Thượng tôn pháp luật” chứ không phải là thứ dân chủ tự do vô hạn độ như những phần tử bất mãn chính trị tung hô. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 hoành hành nhưng cuộc bầu cử ĐBQH khóa XV và ĐBHĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 đã thành công tốt đẹp. Cuộc bầu cử thành công mang ý nghĩa rất lớn trong việc đưa Nghị quyết Đại hội lần XIII của Đảng vào cuộc sống, đặc biệt là chủ trương tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN - Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhưng các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ âm mưu chống phá Việt Nam. Một trong những chiêu trò quen thuộc của chúng là lợi dụng dân chủ để xuyên tạc, gây phân tâm trong xã hội, chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào chế độ. Nguy hại hơn các thế lực thù địch luôn tìm cách móc lối với các phần tử thoái hóa, biến chất ở trong nước hòng kích động, lôi kéo những người dân nhẹ dạ cả tin, thiếu hiểu biết về dân chủ phụ họa theo những luận điệu, chiêu trò của chúng. Thực tế đòi hỏi một mặt chúng ta phải đẩy mạnh tuyên truyền giúp người dân nâng cao nhận thức về dân chủ; tổ chức để nhân dân phát huy quyền làm chủ trong đời sống xã hội. Mặt khác phải coi trọng công tác đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn lợi dụng dân chủ để chống phá Việt Nam mà các thế lực thù địch đang mưu toan móc nối với những phần tử “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở trong nước để tiến hành.

Tăng cường xây dựng Đảng, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình đổi mới ở Việt Nam

 

T

          - Xây dựng Đảng

         Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt. Nội dung xây dựng Đảng bao gồm xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, phương thức lãnh đạo và phong cách công tác. Mục đích nhằm xây dựng Đảng trong sạch ,vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; đẩy mạnh nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với tình hình mới; phòng và chống những nguy cơ lớn đối với một Đảng cầm quyền: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu, mất dân chủ và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên. Đảng khẳng định phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định nguyên tắc tập  trung dân chủ, kiên định đường lối đổi mới, chống giáo điều, bảo thủ hoặc chủ quan, nóng vội, cực đoan.

        Đảng tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, những vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn đổi mới; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, khắc phực suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; đấu tranh chống âm mưu  và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Tổ chức việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng và nhân dân.

        Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị theo hướng xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm từng tổ chức, sáp nhập một số ban, bộ, ngành Trung ương để giảm bớt đầu mối, thực hiện cải cách hành chính trong Đảng, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng.

        Chú trọng kiện toàn tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường công tác quản lý, phát triển đảng viên.

        Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ đồng bộ các khâu của công tác cán bộ (đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm, sử dụng và chính sách cán bộ). Đổi mới và tăng cường công tác dân vận; nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị- xã hội.

          - Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

        Việt Nam đã đẩy mạnh việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; khẳng định nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công; phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 2013 và một loạt các bộ luật, luật và pháp lệnh theo hướng hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề cao vai trò tối cao của Hiến pháp, pháp luật trong đời sống xã hội. Trên cơ sở đó tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ, các cơ quan tư pháp và chính quyền địa phương các cấp.

          - Phát huy quyền làm chủ của nhân dân

        Ở Việt Nam việc đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu, là động lực của sự ngiệp đổi mới. Dân chủ  gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và được thể chế hóa bằng pháp luật,. được pháp luật bảo đảm.

Tích cực chủ động tuyên truyền, phổ biến chế độ, chính sách, pháp luật về dân tộc ở Việt Nam trong thời gian qua


-  Nội dung tuyên truyền cần đa dạng, phong phú.

Công tác tuyên truyền trong những năm qua đã tập trung phổ biến, giáo dục, quán triệt những chủ trương, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chính sách, đề án, dự án, kế hoạch và chương trình hành động của Chính phủ...

Tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước, truyền thông đoàn kết của đồng bào các dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đi đôi với việc tuyên truyền, giải thích cho đồng bào các dân tộc nhận rõ các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lợi dụng sự thật thà, cả nể của đồng bào để chống phá cách mạng nước ta.

- Đổi mới về hình thức và phương pháp tuyên truyền

Trong những năm qua, các cấp, các ngành đã tập trung vào xây dựng, củng cố kiện toàn đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên các cấp, đã biết chú trọng sử dụng người có uy tín, già làng, trưởng bản, cán bộ y tế, đội ngũ giáo viên và lực lượng vũ trang trên địa bàn...

Các địa phương cũng đã chú trọng lồng ghép, kết hợp việc tổ chức các lễ hội, các hoạt động văn hóa, thể thao qua đó làm công tác tuyên truyền có hiệu quả cao và thu hút được đông đảo quần chúng tham gia...

- Sắp xếp lại bộ máy, tổ chức làm công tác tuyên truyền.

Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương lập lại bộ máy làm công tác tuyên truyền ở Trung ương và địa phương, tạo điều kiện cho các cơ quan truyền thông từ trung ương đến địa phương sắp xếp lại mạng lưới truyền thông mang tính chuyên nghiệp và chất lượng cao.

Theo đánh giá chung, lĩnh vực thông tin, truyền thông vùng đồng bào DTTS&MN đã có bước phát triển nhanh, cơ bản đáp ứng nhu cầu thông tin, liên lạc của nhân dân. Từ năm 2016 đến nay, đã chuyển phát 18 loại ấn phẩm báo, tạp chí

- Đổi mới thiết bị phục vụ công tác tuyên truyền.

         Cần phát huy triệt để hiệu quả các phương tiện truyền thông; tích cực đổi mới phát huy hiệu quả phương tiện truyền thống gắn với yêu cầu phát triển thực tiễn 

Kinh Cựu ước, Tân ước trong Ki-tô giáo

 


Theo quan niệm của người Ki-tô giáo nói chung, người Công giáo nói riêng Cựu ước là lời giao ước cũ giữa Thiên Chúa và dân tộc Do Thái. (là thời kỳ trước Chúa Giêsu Kitô). Cựu ước có 46 cuốn (sách về lịch sử, sách về giáo huấn và sách về tiên tri), các sách viết về Thiên Chúa; về sự tạo dựng vũ trụ và con người; về sự tích dân Do Thái; phong tục tập quán truyền thống văn hóa của dân tộc Do Thái; về các vị vua của dân tộc này trong lịch sử từ khi lập quốc đến lúc tan rã và Chúa Kitô xuống thế… (Thực ra Kinh Cựu ước nguyên là bộ dã sử của dân tộc Do Thái và là Kinh Thánh của đạo Do Thái).

Nếu như Kinh Cựu ước là lời giao ước cũ giữa Thiên Chúa với dân tộc Do Thái, thì Kinh Tân ước là lời giao ước mới giữa Thiên Chúa với cả loài người qua Chúa Giêsu. Tân ước là các sách viết về cuộc đời và sự nghiệp của Chúa Giêsu Kitô; về hoạt động của Thánh Tông đồ; về những lời chỉ bảo, răn dạy của Chúa Giêsu và các Thánh Tông đồ đối với con người; về tương lai của con người,... Tân ước có 27 cuốn, có thể chia Kinh Tân ước thành bốn loại như sau:

+ Sách Tin mừng (hay Phúc âm): viết về cuộc đời và sự nghiệp cứu chuộc của Chúa Giê-su. Đây là bốn sách quan trọng nhất trong Tân ước.

+ Sách Công vụ sứ đồ: kể về hoạt động của các Tông đồ Chúa Giê-su, được viết vào khoảng năm 70-SCN.

+ Sách Thánh thư: gồm 21 bức thư của các Tông đồ Chúa Giê-su gửi cho các giáo đoàn.

+ Sách Khải huyền còn gọi là sách Tiên tri của Gio-an tiên đoán về tương lai của đạo Ki-tô và của nước Do Thái trong quan hệ với đế chế La Mã, về ngày tận thế, phục sinh và phán xét cuối cùng.

Đối với Công giáo, ngoài Kinh Thánh còn một số văn bản khác như các áng văn của Giáo Hoàng, nghị quyết của các Công đồng, về nguyên tắc có giá trị như giáo lý.