Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2022

“VIỆT NAM KHÔNG CÓ DÂN CHỦ, NHÂN QUYỀN VÀ ĐÀN ÁP MẠNG XÃ HỘI” - LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, LỐ BỊCH

 Sau 35 năm đổi mới, Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc trong bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch chẳng những không thừa nhận, mà còn ra sức chống phá, với những luận điệu xuyên tạc, lố bịch về một Việt Nam không có dân chủ, nhân quyền, không có tự do ngôn luận và đàn áp mạng xã hội. Đó là vấn đề cần đấu tranh bác bỏ.

Sự xuyên tạc, lố bịch về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam

Cách nhìn xuyên tạc, lố bịch đến mức chính trị hóa mọi vấn đề là điều dễ nhận thấy trong các chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Họ lắp ghép khiên cưỡng yếu tố đạo đức vào thuật ngữ pháp lý, điển hình là ngôn từ mà họ thường xướng lên: “tù nhân lương tâm”, phản ánh cách tư duy chiết trung, ngụy biện, thiếu đạo đức khi không có cơ sở pháp lý. Bởi, trong nền tư pháp Việt Nam và các nước trên thế giới không có thuật ngữ “tù nhân lương tâm”. Thực chất cái gọi là “tù nhân lương tâm” chỉ là một chiêu trò nhằm cổ súy, hậu thuẫn, để dễ bề can thiệp vào việc bảo vệ, kích động các đối tượng chống phá, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Những phiên tòa xét xử công khai, nghiêm minh các đối tượng chống đối, như: Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Chí Thành, Cấn Thị Thêu, Phạm Thị Đoan Trang,... là việc làm cần thiết của một nhà nước có chủ quyền, nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm pháp luật đến mức nguy hiểm đối với xã hội. Trước công lý, các đối tượng này đều công khai chấp nhận các phán quyết của hội đồng xét xử với những tội danh của mình. Vậy nhưng, một số tổ chức nước ngoài không có thiện chí với Việt Nam lại ra những tuyên bố phê phán Tòa án Việt Nam và tỏ thái độ cổ súy, ủng hộ những đối tượng đã bị xét xử và phán quyết công khai về hành vi phạm tội. Đây thực chất là cách tiếp cận pháp lý hết sức sai trái và xuyên tạc trắng trợn tình hình nhân quyền ở Việt Nam.

Họ còn quy chụp rằng: Việt Nam xem xét nhân quyền với nội hàm quá rộng, thiên về khuôn phép xã hội, mà coi nhẹ việc bảo đảm quyền tự nhiên cụ thể của cá nhân. Họ cố tình lờ đi một sự thật hiển nhiên rằng: bảo đảm quyền tự nhiên cụ thể của cá nhân phải đặt trong mối quan hệ với lợi ích của xã hội trong khuôn khổ pháp luật. Không chỉ ở Việt Nam, mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều tiếp cận và thực hành nhân quyền phổ quát không chung chung, trừu tượng, mà trong mối quan hệ tự nhiên giữa quyền cá nhân cụ thể với quyền của nhóm xã hội trực tiếp liên quan đến cá nhân đó. Chỉ dựa trên một số thông tin chưa được kiểm chứng và mang động cơ thù địch về chính trị đối với Việt Nam để quy chụp tình hình dân chủ, nhân quyền sẽ là cách nhìn lố bịch. Điều này thấy rõ nhất trong các bản phúc trình nhân quyền toàn cầu từ năm 2013 của Tổ chức theo dõi Nhân quyền (HRW).

Các thế lực thù địch nhân danh nhân quyền phổ quát để ra sức cổ súy cho nhân quyền phương Tây. Họ tự coi văn hóa phương Tây là trung tâm, xem nhân quyền phương Tây chi phối nhân quyền phổ quát toàn thế giới và cao hơn chủ quyền quốc gia. Lối nhân danh này bị chi phối bởi nguồn kinh phí hoạt động của những cá nhân, tổ chức dân sự theo cơ chế thị trường, vi phạm nghiêm trọng công ước và nguyên tắc quốc tế về cấm can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Điển hình là, các bản phúc trình về nhân quyền của HRW thường bị nhiều nước phản ứng và chỉ trích, lên án.

Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ và nền văn hóa do khác biệt về hoàn cảnh lịch sử, giá trị truyền thống, trình độ phát triển, chế độ chính trị,... nên có cách tiếp cận nhân quyền phổ quát là khác nhau. Ông Lý Quang Diệu, cố Thủ tướng Singapore, đã từng khẳng định: không ở đâu trên thế giới, các quyền này lại được phép thực hiện mà không có những giới hạn, vì nếu áp dụng một cách mù quáng những ý tưởng này có thể đi theo hướng hủy hoại xã hội có tổ chức. Cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Pete Peterson cho rằng: không thể đánh giá tình hình nhân quyền của một quốc gia trên chuẩn 100% hài lòng. Hoa Kỳ cũng như không một quốc gia nào khác có thể đáp ứng nhu cầu đó; thang điểm 100% hài lòng về mặt nhân quyền là điều không thể đạt được tại một quốc gia.

Những năm qua, bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam đã được nhiều nhà lãnh đạo, chính khách quốc tế, các nhà quan sát, du khách cảm nhận, đánh giá cao. Nhà báo chuyên về chính trị Đông Nam Á, David Hutt phát biểu trên đài BBC News rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hành động trách nhiệm và đặt người dân là mối quan tâm hàng đầu. Ngoài ra, sự thành công của Việt Nam trong việc biến nguy thành cơ để thực hiện có kết quả mục tiêu kép trong: phòng, chống đại dịch Covid-19; đồng thời, phát triển kinh tế - xã hội, nhằm “không để ai bị bỏ lại phía sau” đã nhận được rất nhiều bình luận, đánh giá tốt của giới chính khách, chuyên gia, truyền thông quốc tế. Đó là minh chứng sống động trong việc tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy nhân quyền của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Việt Nam không có tự do ngôn luận và đàn áp mạng xã hội - Luận điệu xuyên tạc, lố bịch

Các thế lực thù địch, phản động, chống đối chính trị ra sức rêu rao, xuyên tạc Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng. Họ chỉ trích chính quyền bắt, truy tố tùy tiện người chống đối; kiểm duyệt, đóng các trang mạng, ra các luật mang tính chất hình sự; chính quyền xiết chặt, kiềm tỏa các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội, nhóm ôn hòa, tự do đi lại và tự do tôn giáo, v.v. Họ ngộ nhận về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí dẫn tới cho rằng các quyền này là tuyệt đối, nhằm kích động, tẩy chay và trả đũa nhau khốc liệt, kể cả bôi nhọ, chống đối chế độ xã hội, đặc biệt thông qua livestream “bẩn” trên mạng xã hội, v.v. Từ đó, thúc đẩy thành lập một số tổ chức nhân danh văn chương, báo chí, như: “Văn đoàn độc lập”, “Hội nhà báo độc lập”, “Phóng viên không biên giới”, “The 88 Project”1,… để chống đối chế độ, xuyên tạc Nhà nước ta bắt, bỏ tù nhà báo độc lập, đấu tranh cho cái gọi là tự do ngôn luận. Đưa ra bảng xếp hạng sai lệch về tự do báo chí ở Việt Nam; gây sức ép đòi thả tự do cho các đối tượng bị cơ quan chức năng bắt giữ do vi phạm pháp luật Việt Nam mà họ gọi là bắt, bỏ tù “nhà báo báo độc lập”, “blogger”, v.v. Đây là những luận điệu xuyên tạc, lố bịch, bởi: Tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội. Thực hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016) và Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016) quy định trách nhiệm của Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Đặc biệt, báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, với 779 cơ quan báo chí (trong đó có: 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh - truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Tính tới tháng 6/2021, số lượng người dùng internet là gần 70 triệu người, tăng 0,8% trong giai đoạn 2020 - 2021 (chiếm hơn 70% dân số); số người sử dụng mạng xã hội là gần 76 triệu người, tăng gần 10 triệu người trong vòng 01 năm (tương đương 73,7% dân số). Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ sáu trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á.

Mặt khác, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin không phải là quyền tuyệt đối mà là quyền có giới hạn. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ, thậm chí được ví như là “khí ôxy” trong một xã hội dân chủ và phát triển; nhưng không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là quyền tuyệt đối. Các văn kiện quốc tế về quyền con người, như: Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 (Điều 29), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Điều 19) đều khẳng định: việc thực hiện quyền tự do ngôn luận phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong luật và là cần thiết nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội. Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều giới hạn quyền này, như: tại Mỹ, Bộ luật Hình sự (Điều 2.385, Chương 115) quy định về sự hạn chế của quyền tự do ngôn luận; tại Đức, Luật An ninh mạng năm 2015 (sửa đổi năm 2018), quy định những dịch vụ mạng xã hội có thể bị phạt lên đến 50 triệu Euro nếu để xảy ra trường hợp người dùng lăng mạ, gây thù oán, hay phát tán các tin tức giả mạo, v.v.

Để tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế về quyền con người, Việt Nam đã xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý bảo đảm quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng không bỏ lọt tội phạm. Đồng thời, theo dõi, khảo sát, đánh giá và kịp thời điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách, phù hợp với các quy tắc điều chỉnh hành vi văn hóa trong sinh hoạt cộng đồng xã hội, nhất là trên không gian mạng. Sự thực trên đã vạch trần sự phiến diện, xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận tại Việt Nam.

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG PHÒNG CHỐNG TIÊU CỰC

 Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII đã thống nhất cao với chủ trương thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Đối với hành vi tham nhũng thì việc xử lý đã có các căn cứ quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, câu hỏi được nhiều người quan tâm, đó là làm thế nào để nhận diện “tiêu cực” và đấu tranh với hiện tượng đó như thế nào?

Theo cách hiểu thông thường thì “tiêu cực” là những hiện tượng không lành mạnh, phủ định, cản trở sự phát triển của xã hội. Biểu hiện của tiêu cực có nhiều mức độ khác nhau, nhẹ thì là một hành vi, lời nói chưa chuẩn mực; nặng hơn là thói cục bộ, bè phái, lạm dụng quyền lực... Tiêu cực tuy dễ nhận thấy nhưng xử lý rất khó nếu như không đánh giá đúng các biểu hiện tiêu cực.

Để góp phần đẩy mạnh cuộc đấu tranh với những hành vi, biểu hiện tiêu cực của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ cần phải tăng cường, nâng cao hiệu quả giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội, chủ động ghi nhận, xử lý những phản ánh của nhân dân. Đồng thời, tăng cường các biện pháp nhằm kiểm soát quyền lực; thực thi dân chủ, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình để bảo vệ người tố cáo, tố giác, phát hiện những biểu hiện tiêu cực.

Chủ trương chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng đang được nhân dân ủng hộ, để chủ trương này thành công đòi hỏi sự tham gia tích cực của mỗi người dân bằng những việc làm cụ thể, thiết thực. Do vậy, ngoài việc làm tốt công tác tuyên truyền để người dân nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm đối với chủ trương, pháp luật của Đảng và Nhà nước trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các cấp ủy, chính quyền cũng cần tăng cường kiểm tra, giám sát, tiếp nhận, phân tích, xử lý kịp thời thông tin, chủ động giải quyết ngay những biểu hiện tiêu cực, không để “cái sảy nảy cái ung”. Phân loại một cách hợp lý những biểu hiện tiêu cực để có biện pháp đấu tranh, phòng ngừa ngăn chặn ngay từ khi mới hình thành. Phát huy tinh thần đoàn kết, dân chủ thẳng thắn góp ý, giúp đỡ đồng chí, đồng nghiệp trong sinh hoạt cũng như công tác; đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên gắn với các phong trào thi đua yêu nước, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tin tưởng rằng, với việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân cùng với việc giao nhiệm vụ rõ người, rõ việc, việc thành lập và đưa vào hoạt động của Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ phát huy hiệu quả trong thực tế, được cụ thể hóa bằng những chương trình, kế hoạch thực hiện cụ thể, với tinh thần nghiêm minh, mạnh dạn, sáng tạo, lấy thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực sẽ đạt được các mục tiêu mà Đảng và Nhân dân kỳ vọng.

ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM LUÔN TÔN TRỌNG QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO

 Thời gian qua trên các trang mạng xã hội các đối tượng phản động có những bài viết xuyên tạc, phản ánh không đúng sự thật, đánh giá phiến diện, tiêu cực về tình hình hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam.

Thực tế cho thấy, chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên cũng như nhiều nước trên thế giới, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự, xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân... Chính sách trên luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán. Sự ra đời của các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử với những người có tín ngưỡng, tôn giáo, không phân biệt hay kỳ thị bất cứ tôn giáo nào, miễn sao hoạt động của các tôn giáo nằm trong khuôn khổ pháp luật.

Sự thật là thế, vậy mà thời gian qua các thế lực thù địch, phản động luôn đưa ra những thông tin sai lệch, cho rằng Việt Nam hạn chế các hoạt động tôn giáo, cho rằng Việt Nam không có tự do tôn giáo... Những đánh giá ấy chẳng những không phản ánh đúng bản chất tình hình mà còn phớt lờ những thành tựu của nước ta trong tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực chất đây là âm mưu lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp hay hạn chế các hoạt động tôn giáo đúng pháp luật. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo chỉ là chiêu trò của các thế lực thù địch nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước ta.

VUN TRỒNG CHO NGUYÊN KHÍ THỊNH

 Tính đến nay, cơ quan điều tra các cấp đã khởi tố hơn 70 bị can liên quan đến vụ nâng khống giá sinh phẩm xét nghiệm Covid-19 xảy ra tại Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á) và các đơn vị, địa phương liên quan.

Trong số các bị can, có nhiều người là trí thức, có học hàm, học vị cao, từng có đóng góp lớn, quan trọng cho khoa học. Nhìn lại công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và các vụ án tham nhũng, tiêu cực đã được điều tra, xử lý từ nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, đã có hàng trăm trí thức bị khởi tố, bắt tạm giam. Đó là một mất mát rất lớn về nguồn nhân lực chất lượng cao, nhưng để nguyên khí quốc gia hưng thịnh thì không thể có vùng cấm, không thể có ngoại lệ...

Khi trí thức suy thoái

Trong vụ án tham nhũng, tiêu cực liên quan đến Công ty Việt Á, y tế và khoa học công nghệ là những ngành bị thiệt hại nặng nề nhất về nguồn nhân lực khi có hàng loạt trí thức và đảng viên trí thức bị khởi tố, bắt tạm giam phục vụ công tác điều tra. Trong số đó, nhiều người có học hàm, học vị cao, có trình độ cao cấp lý luận chính trị; được phong tặng danh hiệu cao quý; giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt các cấp ở bộ, ngành, địa phương. Nghiên cứu quá trình học tập, công tác của những trí thức thuộc lớp tinh hoa này, dư luận xã hội không khỏi tiếc nuối. Tiếc là bởi, trước khi các hành vi tham nhũng, tiêu cực bị phát hiện, họ từng có quá trình học tập, công tác, cống hiến đáng ngưỡng mộ. Nhiều đề tài khoa học, sáng kiến cải tiến kỹ thuật của các cá nhân và nhóm tác giả có họ tham gia đều có tính ứng dụng, giá trị thực tiễn cao. Không ít người đang là “hạt giống đỏ”, nằm trong quy trình cơ cấu, bổ nhiệm các chức vụ cao hơn trong công tác cán bộ. Nếu biết giữ mình trong sạch, không sa ngã trước những cám dỗ vật chất, không suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những trí thức ấy thực sự là tài sản quý góp phần làm nên nguyên khí quốc gia. Họ không chỉ đóng góp cho khoa học trên cương vị, chức trách được giao mà còn tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực kế cận và kế tiếp cho đất nước.

Cũng chính vì có cảm giác tiếc nuối ấy nên trong dư luận xã hội đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá mang tính cực đoan, võ đoán, tiêu cực. Họ cho rằng, tham nhũng, tiêu cực là do cơ chế quản lý. Rằng, muốn chống tham nhũng, tiêu cực thì phải thay đổi từ gốc, tức là từ cơ chế quản lý của Nhà nước, từ chủ trương, đường lối của Đảng. Nếu chỉ chống bằng điều tra, bắt bớ, thì “tra đâu sai đó”, “khui đâu dính đó”... Thậm chí, một số người nhân danh “đấu tranh phản biện” còn cho rằng, trí thức Việt Nam đang vào thời kỳ “mạt vận”, rằng nếu cứ bắt nhiều như thế, đất nước sẽ rất khó thu hút, giữ chân hiền tài...

Đảng ta rất coi trọng vai trò của đội ngũ trí thức, coi hiền tài là nguyên khí quốc gia, xây dựng, phát triển đội ngũ trí thức là một trong những quốc sách hàng đầu. Chính vì vậy, khi hàng loạt trí thức, trong đó có nhiều trí thức giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt vướng vào vòng lao lý, các phần tử cực đoan có tư tưởng chống đối đã nhân cơ hội “té nước theo mưa”. Những quan điểm cực đoan, sai trái từ một số đối tượng trong nước và đối tượng lưu vong ở nước ngoài đã được các thế lực thù địch tập trung khai thác. Họ lấy đó làm cái cớ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền, công kích, chống phá Đảng và Nhà nước, đòi thay đổi thể chế chính trị, cổ xúy đa nguyên, đa đảng, kích động đội ngũ trí thức từ bỏ Đảng, quay lưng với lợi ích quốc gia-dân tộc...

Chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên của suy thoái

Danh sĩ Thân Nhân Trung từ thế kỷ 15 đã khái quát: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp...”. Bên cạnh đề cao vai trò của hiền tài, danh sĩ nổi tiếng thời hậu Lê cũng đã chỉ ra những nguy cơ, biểu hiện sa ngã, tiêu cực có thể khiến hiền tài trở thành tội đồ của đất nước. Ông viết: “... Trong số đó cũng có kẻ vì hối lộ mà hư hỏng, hoặc sa ngã vào cùng loại với bọn gian ác... Thảng hoặc chỉ tu sức văn vẻ bên ngoài, đức hạnh thiếu thốn bên trong, điều thấy không bằng điều nghe, việc làm trái với điều học, hạnh kiểm sa sút, danh giáo nhuốc nhơ...”.

Nêu một dẫn chứng như vậy để thấy, sự tha hóa đạo đức trong đội ngũ hiền tài không chỉ là mặt trái của xã hội thời nay mà nó đã tồn tại, diễn biến song song với sự phát triển của các hình thái kinh tế-xã hội, các triều đại lịch sử. Bởi trí thức là tầng lớp được xã hội trọng vọng, nên nếu không giữ vững tư cách, phẩm chất, không thấy rõ bổn phận, trách nhiệm phụng sự quốc gia, phụng sự nhân dân thì rất dễ sa ngã. Và khi sa ngã là trí thức đã tự đẩy mình xuống “cùng loại với bọn gian ác”, “danh giáo nhuốc nhơ”... Nguyên nhân là bởi: “Chỉ tu sức văn vẻ bên ngoài, đức hạnh thiếu thốn bên trong, điều thấy không bằng điều nghe, việc làm trái với điều học...”.

Ngẫm thông điệp của ông cha, soi rọi trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay mới thấy, đó đều là những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Sự suy thoái của trí thức và đảng viên trí thức cũng chính từ căn nguyên ấy mà ra. Tại Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: "Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân".

Chăm lo vun trồng, diệt trừ sâu bệnh

Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, mở rộng cơ chế, tạo điều kiện để các nhà khoa học, đội ngũ trí thức tham gia ngày càng nhiều hơn, sâu hơn vào các hoạt động kinh tế-xã hội, giữ các cương vị chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp, nhất là ở các bộ, ngành. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học... Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà khoa học”... Đảng ta chủ trương phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài.

Quan điểm Đại hội XIII của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, trọng dụng nhân tài là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa, phát triển tư tưởng của tiên tổ, ông cha, lấy việc bồi dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí làm việc đầu tiên, củng cố sự bền vững của quốc gia... Với tinh thần lấy xây để chống, xây kết hợp với chống, muốn vun trồng cho nguyên khí hưng thịnh, bên cạnh các chính sách trọng dụng, đãi ngộ ngày càng cao, Đảng luôn coi trọng phòng, chống suy thoái, tiêu cực. Diệt trừ sâu bệnh là việc không thể thiếu trong quá trình vun trồng, chăm sóc cho nguyên khí quốc gia.

Với những nỗ lực và kết quả đạt được hết sức quan trọng trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, từ Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII), Đảng ta đã mở rộng phạm vi xây dựng, chỉnh đốn cả trong hệ thống chính trị. Cùng với ngăn chặn, đẩy lùi thì phải chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những hành vi tham nhũng, tiêu cực... Tại cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực diễn ra ngày 27-4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã đưa thêm yếu tố tiêu cực vào chứ không phải chỉ có phòng, chống tham nhũng. Tiêu cực ở đây rất rộng nhưng chủ yếu là sự suy thoái về phẩm chất, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống...

Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay đã bám sát quan điểm chỉ đạo được nêu rõ trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, đó là: Kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ cương, kỷ luật trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội...

Như vậy, việc đấu tranh để lôi ra những thành phần suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ trí thức và đảng viên trí thức là chủ trương được thể hiện rất rõ trong các nghị quyết của Đảng. Đây là cuộc đấu tranh nhằm làm trong sạch đội ngũ, để trí thức Việt Nam thực sự là đội ngũ vừa có đức, vừa có tài, là cách vun trồng cho nguyên khí thịnh. Những luận điệu suy diễn, lấy cớ nhiều trí thức bị khởi tố, bắt tạm giam do tham nhũng, tiêu cực rồi quy chụp, chỉ trích do Đảng lãnh đạo, cơ chế quản lý yếu kém là thủ đoạn đánh tráo khái niệm của các thế lực thù địch và các phần tử phản động. Trước các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, kích động kiểu “nội công ngoại kích” nhắm vào đội ngũ trí thức, nhằm làm phân hóa, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ trí thức và đảng viên trí thức, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận diện, có biện pháp đấu tranh, phản bác. Chúng ta cần nhận thức đúng bản chất vấn đề để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ sự trong sạch và củng cố vị thế, vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng đất nước hùng cường.

XÂY DỰNG Ý THỨC BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA CHO CÁN BỘ, CHIẾN SĨ

 Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Quân đội ta luôn mang trong mình bản chất cách mạng, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ-Bộ đội của dân-Bộ đội vì dân.

Đó chính là cội nguồn sức mạnh, góp phần làm nên mọi thắng lợi của QĐND Việt Nam trong các giai đoạn cách mạng trước đây cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Gần 78 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy bản chất cách mạng, truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ quân đội đã không quản ngại gian khổ, hy sinh, cùng toàn dân chiến đấu, chiến thắng các thế lực xâm lược, giành độc lập dân tộc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và ngày nay đang tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN), hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Mặc dù còn nhiều khó khăn, thử thách trên con đường phát triển nhưng Quân đội ta luôn một lòng sắt son với Đảng, tận trung với nước, tận hiếu với dân; không ngừng nâng cao trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống.

Trong giai đoạn hiện nay, việc giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ của quân đội thể hiện rõ nét ở việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; thực hiện “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ trên, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, thường xuyên giáo dục, quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về bảo vệ Tổ quốc "từ sớm, từ xa”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy”.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược, tính chủ động, sáng tạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan điểm này là sự kế thừa bài học, kế sách “giữ nước từ khi nước chưa nguy” của tổ tiên, của ông cha ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhờ sớm nêu cao tinh thần chủ động giữ nước mà chúng ta luôn giữ vững non sông, bờ cõi, khẳng định nền độc lập, tự chủ, bảo toàn chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia.

Quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” là tổng thể các tư tưởng, hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân diễn ra từ trước, nhằm sớm phát hiện, ngăn chặn, đẩy lùi, triệt tiêu những âm mưu, hành động chống phá chế độ, xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia-dân tộc, không để Tổ quốc bị động, bất ngờ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, phát triển đất nước theo định hướng XHCN. Tư duy chiến lược về bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng gồm nhiều nội dung, trong đó tập trung vào một số vấn đề cơ bản, như: Chủ động nắm, nghiên cứu, phân tích, dự báo chính xác tình hình thế giới, khu vực, trong nước; xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng vững mạnh; phát huy sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; phương thức bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; đẩy mạnh công tác đối ngoại, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN... Những nội dung đó cần được thường xuyên quán triệt để mỗi cán bộ, chiến sĩ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp hiểu rõ và hành động đúng quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Hai là, tập trung xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong mọi tình huống.

Xây dựng QĐND là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn chiến lược nhằm không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, bảo đảm cho quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có nhiều bài viết và phát biểu chỉ đạo về xây dựng QĐND. Đặc biệt, trong bài “Xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh một số nội dung trọng tâm mà Đảng bộ Quân đội và toàn quân phải tiếp tục quán triệt, tổ chức triển khai thực hiện tốt. Đó là: (1) Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với nhân dân...; (2) Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh, "gương mẫu, tiêu biểu", đáp ứng sự tin tưởng, kỳ vọng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân; (3) Đặc biệt coi trọng xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của toàn quân; (4) Chủ động nghiên cứu, nắm, dự báo đúng tình hình, kịp thời tham mưu với Đảng, Nhà nước chủ trương về quân sự, quốc phòng; xử lý có hiệu quả các tình huống, bảo đảm trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng không để bị động, bất ngờ; chuẩn bị sẵn sàng các giải pháp tổng thể, hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; ứng phó có hiệu quả với các thách thức an ninh phi truyền thống trong tình hình mới; (5) Phát huy tốt vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; (6) Thực hiện đồng bộ các giải pháp xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội hiện đại. Đặc biệt, toàn quân tiếp tục nỗ lực thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng QĐND Việt Nam tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.

Ba là, tiếp tục phát huy truyền thống, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ trong bối cảnh, tình hình quốc tế, trong nước với nhiều diễn biến phức tạp, khó lường.

Phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là giá trị văn hóa quân sự bền vững được hình thành và phát triển trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội ta. Việc tiếp tục phát huy, bồi đắp phẩm chất cao quý đó trong tình hình hiện nay sẽ tạo sức lan tỏa mạnh mẽ trong đời sống xã hội và trong quân đội, góp phần xây dựng môi trường văn hóa quân sự lành mạnh, tăng cường bản chất cách mạng, xây dựng QĐND “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, trước hết là xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Để làm được điều đó, các cấp ủy đảng trong quân đội cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn làm tốt công tác giáo dục, quán triệt, rèn luyện, trau dồi cho cán bộ, chiến sĩ những phẩm chất tốt đẹp, giá trị nhân văn của Bộ đội Cụ Hồ đã được lưu giữ, kế thừa, không ngừng phát triển qua thực tiễn đấu tranh cách mạng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh theo Chỉ thị của Bộ Chính trị (khóa XII, khóa XIII) và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới, gắn với Phong trào Thi đua Quyết thắng và các cuộc vận động, các phong trào khác; tạo điều kiện để cán bộ, chiến sĩ được thử thách, rèn luyện và hoàn thiện nhân cách người quân nhân cách mạng, tạo môi trường thuận lợi để phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ luôn phát huy và tỏa sáng.

Phát huy truyền thống, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới, góp phần thực hiện hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; “giữ nước từ khi nước chưa nguy” là sự thể hiện sâu sắc tình cảm, sự tôn kính, trách nhiệm của Quân đội ta đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu; đồng thời cũng là trách nhiệm của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ QĐND hiện nay và mai sau đối với lớp lớp cán bộ, chiến sĩ QĐND thế hệ đi trước đã xây dựng, bồi đắp hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ-Bộ đội của dân. Bất luận trong điều kiện nào, hoàn cảnh khó khăn đến mấy, giá trị, phẩm chất, bản lĩnh Bộ đội Cụ Hồ luôn phải được phát huy, phát triển và tỏa sáng, nhất là trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

ĐÁNH “GIẶC TRONG LÒNG”

 Chỉ trong vòng ít ngày, Đảng đã mất đi một số đảng viên từng giữ những chức vụ quan trọng, Chính phủ đã mất đi một số cán bộ chủ chốt. Nếu tính trong khoảng nửa năm qua, có đến hàng chục cán bộ, đảng viên từ Trung ương đến địa phương đã “nhúng chàm” liên quan đến vụ án Việt Á.

Dư luận xã hội nhiều nơi bày tỏ sự hả hê trước những thông tin khởi tố, bắt giữ liên tiếp, họ châm biếm kit test Việt Á “giả mà thật” đã quét ra “hai vạch căng đét” căn trọng bệnh của không ít cán bộ, đảng viên – suy thoái, tham nhũng, tiêu cực – vốn vẫn được chỉ ra là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Tuy vậy, đối với công tác cán bộ, việc một số cán bộ lãnh đạo Bộ Y tế, Bộ Khoa học và Công nghệ và CDC nhiều tỉnh, thành… bị khởi tố, bị điều tra, bị bắt tạm giam thực sự là điều hết sức đau lòng. Dù sao, trước khi vấp ngã, những người này từng là cán bộ đã trưởng thành trong công tác, ít nhiều đã khẳng định được bản thân và đã có những đóng góp nhất định cho đất nước, cho xã hội. Với một số người từng tham gia Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì lại càng đáng tiếc, xót xa hơn. Vụ việc này cũng tiếp tục chỉ ra lỗ hổng trong công tác cán bộ của Đảng, chỉ ra sự hời hợt, lơ là trong rèn luyện bản lĩnh chính trị và tu dưỡng đạo đức của nhiều cán bộ, đảng viên, dẫn đến những vi phạm, khuyết điểm nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và gây bức xúc trong nhân dân.

Vẫn biết “chẳng ai nắm tay thâu ngày đến tối”, trong cuộc sống, trong công việc khó tránh khỏi sai sót lúc này lúc khác, ngay Đảng ta cũng có lúc mắc sai lầm, khuyết điểm, tuy nhiên lòng tham, sự đánh mất mình trước cám dỗ của vật chất, sự “nhờn thuốc” của những cán bộ, đảng viên nói trên là điều đáng trách, đáng lên án và đáng bị xử lý nghiêm minh. Có ý kiến một lần nữa lại đổ vấy nguyên nhân cho cơ chế, nôm na kiểu “làm cũng chết, mà không làm cũng chết”, nhưng đó là cách nói bao biện, thể hiện thái độ thiếu trách nhiệm. Cơ chế không từ trên trời rơi xuống, mà đều do con người tạo nên. Nếu làm đúng, lãnh đạo đúng, nếu trăn trở “dĩ công vi thượng”, luôn đặt việc công lên trên hết, luôn lo cho dân, làm cho dân thì sẽ như “cây ngay không sợ chết đứng”. Còn một khi đã mắc sai lầm, khuyết điểm thì cũng cần dám chịu trách nhiệm, đừng đổ thừa một cách chung chung.

800 tỷ đồng tiền hoa hồng mà Việt Á chi cho các quan chức để “thổi giá” sinh phẩm xét nghiệm COVID-19, đó thực sự là một con số nhức nhối. Nhức nhối bởi ở đó không chỉ là việc túi tiền của người dân bị đục khoét nhiều lần trong bối cảnh dịch bệnh vô cùng khó khăn, mà ở đó còn là thời gian, sức khỏe của mỗi người trong những lần xét nghiệm. Đây chính là điển hình của tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, “thờ ơ, vô cảm”, chủ trương, chính sách đúng nhưng khi triển khai vào cuộc sống lại bị méo mó, biến dạng. Điều này cũng tương tự như vụ án tại Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), đã làm xấu đi chủ trương đúng đắn và nhân văn của Đảng là luôn vì sức khỏe, tính mạng của nhân dân, ảnh hưởng tới nỗ lực của Nhà nước để “không ai bị bỏ lại phía sau” trong giai đoạn phòng, chống dịch COVID-19 nhiều vất vả và mất mát. Khi cầm những khoản tiền “lại quả” như vậy, liệu có ai trong số họ nghĩ đến nhân dân, nghĩ đến danh dự cá nhân, nghĩ đến những hậu quả đối với chính mình và xã hội?

Suy cho cùng, các cá nhân sai phạm đều đã không vượt qua được chính mình, không thắng được “giặc trong lòng”, không vượt qua được sự cám dỗ trong một số thời điểm nhất định. Họ đã vi phạm những điều đảng viên không được làm, suy thoái, thiếu trách nhiệm nêu gương, vi phạm pháp luật. Đây đều là lỗi do chủ quan, do thiếu rèn luyện, tu dưỡng và bồi đắp cả về bản lĩnh chính trị, đạo đức và kiến thức chuyên môn, quản lý. Ở đây, người có quyền thì càng phải chú trọng rèn giũa đạo đức. Như Bác Hồ từng nhắc nhở: “Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”.

Những tiếng còi hụ trong thành phố vài ngày qua tiếp tục gióng lên hồi chuông báo động về tình trạng tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu, móc ngoặc, lợi ích nhóm… vẫn len lỏi trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; đồng thời cũng cho thấy nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ vẫn đang bị vi phạm, lợi dụng. Cho dù “lò lửa” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đang nóng hơn bao giờ hết, cho dù có cả những cán bộ cấp Bộ Chính trị đã phải ra trước tòa như là tấm gương tày liếp, cho dù thể chế và thiết chế phòng, chống tham nhũng đang được nối dài “cánh tay”, thì những kẻ vụ lợi vẫn rình rập đây đó và lòng tham vẫn chực chờ để nổi lên, ngay cả vào những lúc sự khốn khó của người dân lên đến đỉnh điểm.

Ngay lúc này, nhiều ý kiến, quan điểm thù địch, xuyên tạc, bôi nhọ nhằm vào Đảng, nhằm vào bộ máy công quyền cũng đang nhân cơ hội để trỗi dậy. Nhưng hơn lúc nào hết, sự quyết liệt, triệt để, không khoan nhượng trong chỉ đạo và hành động phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta, với phương châm giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng và thượng tôn pháp luật đang được triển khai mạnh mẽ, đồng bộ. Nghiêm minh xử lý cán bộ để “không dám” tham nhũng, tiêu cực, chính là bước đầu để hướng tới “không cần”, “không muốn” tham nhũng, tiêu cực. Kỷ luật Đảng, mất cán bộ, đó là điều đau lòng, nhưng cần thiết phải làm. “Có công thì thưởng, có tội thì trừng”, đó không chỉ là một trong những biện pháp tổ chức xây dựng Đảng mà rộng ra cũng là quy luật của cuộc sống. Mọi sự không tự nhiên đến, mà tất cả đều xuất phát từ hành động của mỗi người.

Sau cùng, mỗi người đều có thể rút ra cho mình những bài học khác nhau từ vụ án Việt Á. Nhưng với đội ngũ cán bộ, đảng viên, việc “tự soi mình” một cách thường xuyên như đánh răng, rửa mặt hằng ngày có lẽ cần được xem trọng. Chỉ có vậy mới chế ngự được “giặc trong lòng”, từ đó mới chuyên tâm góp công góp sức phục vụ cách mạng, phụng sự nhân dân.

XÂY DỰNG, PHÁT HUY VAI TRÒ ĐỘI NGŨ NHÀ GIÁO QUÂN ĐỘI

 Đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục trong quân đội là lực lượng quan trọng trong đào tạo nguồn nhân lực cho quân đội và đất nước.

Những năm qua, đội ngũ này luôn đi đầu, lan tỏa phong trào học tập, nghiên cứu khoa học (NCKH), nâng cao trình độ về mọi mặt, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, góp phần quan trọng xây dựng, gìn giữ, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng công tác giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) cũng như xây dựng đội ngũ nhà giáo. Người khẳng định: “Nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế, văn hóa...”.

Thấm nhuần tư tưởng của Người, ngành giáo dục nói chung, những người làm công tác giáo dục trong quân đội nói riêng luôn xác định rõ vị trí, vai trò của mình, không ngừng nỗ lực phấn đấu, vươn lên trong công tác, thực hiện nhiệm vụ.

Những năm qua, đội ngũ nhà giáo quân đội luôn được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, xây dựng, bồi dưỡng, quy hoạch, từng bước chuẩn hóa. Họ luôn ý thức xây dựng, rèn luyện bản lĩnh chính trị vững vàng, tâm huyết với sự nghiệp trồng người; được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn sâu, kỹ năng, phương pháp sư phạm giỏi, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trên từng cương vị, chức trách được giao.

Nhiều đồng chí cán bộ, giảng viên khẳng định rõ vai trò chuyên gia đầu ngành trong giảng dạy và NCKH. Đây chính là lực lượng quan trọng góp phần đào tạo, bồi dưỡng nhân cách người quân nhân cách mạng, phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ cho đội ngũ học viên quân đội-nguồn cán bộ nòng cốt của các cơ quan, đơn vị trong toàn quân.

Theo tinh thần Nghị quyết số 86-NQ/ĐUQSTƯ ngày 29-3-2007 của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về công tác GD&ĐT trong tình hình mới, các học viện, nhà trường quân đội luôn quan tâm bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo theo hướng đồng bộ, bảo đảm về số lượng, chất lượng, cơ cấu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được giao.

Tính đến nay, tỷ lệ cán bộ, nhà giáo các trường quân đội có trình độ đại học trở lên đạt trên 94%; trong đó gần 35% có trình độ thạc sĩ, trên 10% nhà giáo quân đội có trình độ tiến sĩ. Nhiều giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục (QLGD) trong quân đội được bổ nhiệm chức danh giáo sư, phó giáo sư và con số này không ngừng tăng theo từng năm, đáp ứng ngày càng tốt yêu cầu về giảng dạy và NCKH trong hệ thống nhà trường quân đội.

Tuy nhiên, công tác xây dựng đội ngũ giảng viên, cán bộ QLGD vẫn còn những bất cập, như: Tỷ lệ nhà giáo có học hàm, học vị chưa đủ so với yêu cầu; một số nhà giáo trẻ thiếu kinh nghiệm thực tiễn ở cơ sở; số lượng giảng viên đã qua đơn vị ngày càng ít; vẫn còn giáo viên, giảng viên chậm đổi mới phương pháp dạy học, chưa cập nhật kiến thức, phương pháp mới; việc quy hoạch, phát triển đội ngũ nhà giáo gặp không ít khó khăn...

Bên cạnh đó, những năm gần đây, cơ chế thị trường đã tác động không nhỏ đến đội ngũ nhà giáo nói chung, nhà giáo trong quân đội nói riêng. Một bộ phận giáo viên, giảng viên chưa thực sự say mê với nghề. Vẫn còn giảng viên thiếu tinh thần nghiêm túc, cầu thị trong NCKH, chậm đổi mới phương pháp nghiên cứu, giảng dạy. Từ đó, chất lượng của những “cỗ máy cái” trong một số nhà trường chưa thực sự được nâng cao.

Hiện nay, xu thế đổi mới GD&ĐT ngày càng mạnh mẽ. Cùng với đó, nhiều tri thức mới về khoa học quân sự, vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng hiện đại, đặt ra yêu cầu cao hơn đối với các nhà giáo quân đội trong việc trang bị kiến thức, kỹ năng, truyền thụ kinh nghiệm cho học viên.

Do đó, bản thân mỗi nhà giáo quân đội cần thấy rõ vai trò, trách nhiệm và niềm vinh dự, tự hào khi trực tiếp tham gia đào tạo, xây dựng nhân lực cho quân đội. Từ đó, giảng viên, cán bộ QLGD không ngừng phấn đấu học tập, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; chủ động, tích cực tham gia xây dựng, đẩy mạnh phong trào NCKH, ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, khoa học quân sự trong giảng dạy, công tác, phục vụ nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của các cơ quan, đơn vị.

Với phương châm “giáo dục toàn diện”, nhà giáo là người bồi đắp, truyền thụ kiến thức, hình thành nhân cách người quân nhân cách mạng đối với học viên. Những bài học sâu sắc nhất mà đội ngũ cán bộ tương lai có được chính là sự nêu gương của người thầy. Vì thế, hơn ai hết, đội ngũ nhà giáo phải gương mẫu trong giảng dạy, công tác, sinh hoạt, phát huy cao độ phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, thực sự là tấm gương sáng để học viên noi theo.

Nỗ lực của bản thân mỗi giảng viên, cán bộ QLGD khi nhận được sự quan tâm của các học viện, nhà trường, của cấp ủy, chỉ huy các cấp sẽ góp phần quan trọng thúc đẩy, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho quân đội và đất nước. Vì thế, việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ QLGD cần được các học viện, nhà trường và cấp ủy, chỉ huy các cấp quan tâm.

Ngoài lựa chọn những học viên giỏi để tạo nguồn, cần có các chính sách thu hút nhân tài từ bên ngoài vào quân đội; lựa chọn cán bộ giỏi ở đơn vị, kinh qua thực tiễn, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm, bổ sung cho các cơ sở đào tạo; tổ chức phối hợp, liên kết với các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội để đào tạo, bồi dưỡng...

Ngoài ra, cần quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang bị, mô hình học cụ phục vụ dạy học sát thực tiễn; tăng cường tổ chức các hội thi, hội thao để cán bộ, giảng viên, giáo viên học tập, trao đổi kinh nghiệm chuyên môn, nâng cao trình độ giảng dạy, quản lý và NCKH; có cơ chế, chính sách thúc đẩy các nhà giáo, cán bộ QLGD không ngừng vươn lên trong công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Xây dựng đội ngũ nhà giáo đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, bảo đảm "vừa hồng, vừa chuyên" sẽ là nguồn lực quan trọng quyết định hiệu quả công tác GD&ĐT trong quân đội. Thông qua công tác chuyên môn và sự nêu gương của mình, cán bộ, giảng viên các nhà trường trong toàn quân đã khẳng định rõ vai trò "cỗ máy cái" trong đào tạo nhân lực cho quân đội và đất nước, góp phần nuôi dưỡng, phát huy phẩm chất, nhân cách Bộ đội Cụ Hồ cho cán bộ quân đội ngay từ khi còn là học viên.

Đây là yếu tố then chốt góp phần xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tô thắm phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ trong thời kỳ mới.

LẮNG NGHE VÀ CẦU THỊ

 “Phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị” là một trong những nội dung cấu thành đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ được nêu rõ trong Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương.

Điều này đã được kiểm nghiệm và chứng minh trong suốt quá trình xây dựng và phát triển của Quân đội ta. Ở giai đoạn cách mạng mới, phẩm chất đó càng cần được gìn giữ và phát huy, xem như một giải pháp căn cốt, nền tảng vững chắc để xây đắp tình đoàn kết đồng chí, đồng đội, tạo nên sức mạnh tập thể để cán bộ, chiến sĩ (CB, CS) đồng lòng vượt khó, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Phát huy dân chủ là một trong những truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta. Từ khi ra đời đến nay, Quân đội ta luôn coi trọng phát huy quyền làm chủ của CB, CS trong các nhiệm vụ; coi đó là mặt công tác cơ bản trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp, nhằm tạo môi trường thuận lợi để bộ đội thực hiện tốt quyền lợi, trách nhiệm, nâng cao ý thức kỷ luật và chất lượng, hiệu quả công tác. Minh chứng sinh động về phát huy dân chủ trong quân đội những năm qua, đó là việc triển khai thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở. Mọi CB, CS được nghiên cứu, trao đổi và quán triệt thực hiện tốt các chủ trương, chính sách trên từng lĩnh vực quân sự, chính trị, kinh tế trong môi trường quân đội; qua đó xác định quyền làm chủ của mình trên các mặt hoạt động và bảo đảm đời sống; giải quyết được những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra, giữ vững niềm tin, củng cố tư tưởng, hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Cũng thông qua việc phát huy dân chủ, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy lắng nghe tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đóng góp của cấp dưới để xây dựng tập thể, kịp thời khắc phục hạn chế, bất cập trong thực hiện nhiệm vụ cũng như phương pháp, tác phong công tác. Cán binh thêm gần gũi, đồng lòng; đồng chí, đồng đội thêm thấu hiểu, sẻ chia, gắn kết chính là kết quả từ việc cấp trên biết lắng nghe cấp dưới, đồng nghiệp chân thành góp ý và hội tụ chung ở tinh thần xây dựng, cầu thị, tôn trọng lẫn nhau.

Để tăng cường phát huy dân chủ, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã ban hành nhiều chỉ thị, hướng dẫn, quyết định, quy chế, quy định trên các mặt, lĩnh vực công tác, cụ thể hóa việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong quân đội. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai nghiêm túc, đồng bộ, đạt hiệu quả cao. Nổi bật là ý thức dân chủ và trình độ làm chủ của quân nhân được nâng cao; các thiết chế dân chủ ngày càng được hoàn thiện; sự đồng thuận, đoàn kết, kỷ luật trong nội bộ cơ quan, đơn vị được tăng cường; niềm tin của CB, CS vào cấp ủy, lãnh đạo, chỉ huy các cấp được củng cố vững chắc, tạo không khí phấn khởi thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.

Cùng với đó, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong toàn quân còn vận dụng linh hoạt nhiều hình thức, biện pháp, kênh thông tin để nắm bắt, lắng nghe CB, CS đóng góp ý kiến, như: Tọa đàm, diễn đàn, đối thoại; trao đổi trực tiếp thông qua thực hiện nhiệm vụ hằng ngày hay các hoạt động vui chơi giải trí, thể dục-thể thao, văn hóa-văn nghệ... Nhiều cán bộ nêu cao tính tiền phong gương mẫu, gần gũi, sẻ chia, tạo được niềm tin như người ruột thịt trong gia đình, là nơi gửi gắm tâm tư, tình cảm, giãi bày những khó khăn, vướng mắc của bộ đội trong cả công việc lẫn cuộc sống. Phát huy dân chủ, lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị không chỉ là đòi hỏi thực tiễn để người cán bộ, lãnh đạo, chỉ huy thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, mà còn trở thành “bí quyết” để tháo gỡ kịp thời và hiệu quả mọi vướng mắc nảy sinh ở cơ quan, đơn vị.

Không chỉ cấp trên chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của cấp dưới, mà đồng chí, đồng đội cũng thẳng thắn chỉ rõ những tồn tại, thiếu sót của nhau để cùng khắc phục, sửa chữa, không ngừng hoàn thiện bản thân mỗi ngày. Minh chứng rõ nét cho điều đó là thực hiện thường xuyên, nghiêm túc, hiệu quả việc tự phê bình và phê bình ở các tổ chức đảng và đảng viên trong toàn quân. Quá trình tự phê bình và phê bình, từng đảng viên, tổ chức đảng chỉ rõ những hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân cấp ủy viên, tránh biểu hiện hình thức, chiếu lệ, nói không đi đôi với làm, nể nang, né tránh, ngại va chạm. Trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nghiêm túc tiếp thu, đổi mới công tác lãnh đạo; từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì xây dựng kế hoạch phấn đấu, xác định phương hướng, nội dung, biện pháp khắc phục khâu yếu, mặt yếu được chỉ ra.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc gần gũi, lắng nghe ý kiến, hết lòng phục vụ nhân dân là đạo đức, phong cách của người cách mạng chân chính. Bác cho rằng: Lắng nghe một cách chân thành và nghiêm túc tiếng nói từ bên dưới mới có thể nhận được những thông tin phản hồi chính xác để điều chỉnh và sửa sai nhằm hoàn thiện chủ trương, đường lối, chương trình, kế hoạch; phải làm cho cấp dưới không sợ nói sự thật và cấp trên cũng không sợ nghe sự thật. Muốn thành công trong công việc, đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo, quản lý phải biết lắng nghe và kiên nhẫn lắng nghe ý kiến của quần chúng, của cán bộ dưới quyền, đặc biệt là những ý kiến phản biện.

Thực hiện lời dạy của Người, việc phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị đã được quân đội nói chung, các cơ quan, đơn vị, CB, CS toàn quân nói riêng luôn coi trọng, đề cao và thực hiện hiệu quả. Thế nhưng, vẫn còn một số cán bộ, đảng viên và quần chúng sa vào chủ nghĩa cá nhân, sống thực dụng, phát ngôn thiếu tính xây dựng, nể nang, né tránh, ngại va chạm, tính toán thiệt hơn... như Nghị quyết 847 đã chỉ rõ. Hạn chế nêu trên có nguyên nhân không nhỏ từ việc thiếu dân chủ, quân phiệt, bảo thủ, duy ý chí, áp đặt, độc đoán, chuyên quyền, coi thường ý kiến người khác, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ. Có nơi, tập thể chỉ là “bình phong” để hợp thức hóa quyết định của người đứng đầu. Một số cán bộ chủ chốt vì động cơ, mục đích vụ lợi mà không thực sự tôn trọng, phát huy vai trò lãnh đạo của tập thể hoặc lợi dụng tập thể để thực hiện mục đích tư lợi cá nhân. Tình trạng đó xuất phát từ việc tập thể cấp ủy, cán bộ, đảng viên, quần chúng thiếu sức chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, không dám nói khác hay làm trái ý kiến người đứng đầu, khiến dân chủ bị lợi dụng, thậm chí bị vô hiệu hóa.

Trong giai đoạn cách mạng mới, phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến góp ý với tinh thần cầu thị không chỉ là đặc trưng cơ bản của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, mà mỗi CB, CS cần nhận thức sâu sắc rằng, sự phát triển, vận động đi lên không có chỗ cho sự bảo thủ, duy ý chí. Thực tiễn đã kiểm nghiệm, nhiều chủ trương, chính sách của quân đội được bàn thảo, lấy ý kiến đóng góp rộng rãi đã ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được nguyện vọng chính đáng của đông đảo CB, CS, phù hợp với sự phát triển của xã hội. Ở những cơ quan, đơn vị có người đứng đầu luôn lắng nghe, tôn trọng ý kiến đóng góp của cấp dưới thì ở đó dân chủ được phát huy, tập thể đoàn kết, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Để làm được điều đó, người đứng đầu phải công tâm, khách quan, cầu thị, có phương pháp lãnh đạo tốt, phong cách gần gũi quần chúng, sâu sát cơ sở. Ngược lại, những cán bộ cấp dưới, đảng viên, quần chúng cần phát huy dân chủ, tính chiến đấu, thẳng thắn đóng góp ý kiến trên tinh thần xây dựng. Sự tương tác hai chiều giữa lắng nghe và góp ý xuất phát từ động cơ trong sáng, ý thức vì tập thể mới tạo được mạch nguồn nuôi dưỡng dân chủ thực chất, vững bền trong mỗi cơ quan, đơn vị.

Gìn giữ, phát huy phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, mỗi CB, CS cần bồi đắp tố chất biết lắng nghe, dám nghe những điều phản biện, cầu thị sửa mình để ngày mai tiến bộ hơn ngày hôm nay, đó cũng là hành động thiết thực góp phần xây dựng Quân đội ta ngày càng vững mạnh.

THẬN TRỌNG TRƯỚC CÁC HIỆN TƯỢNG TÔN GIÁO MỚI

 Thời gian qua, sự xuất hiện gia tăng của các hiện tượng tôn giáo mới với những biểu hiện ngày càng phức tạp, khó lường, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội khiến dư luận hết sức lo ngại. Thực tế này đòi hỏi phải sớm có những biện pháp phòng ngừa và ngăn chặn hiệu quả, không cho phép các hành vi lợi dụng tự do tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Thời điểm năm 2016-2018, sự xuất hiện nở rộ của cái gọi là “Hội thánh Đức Chúa trời” (hay “Hội thánh Đức Chúa trời mẹ”) tại nhiều địa phương, tuyên truyền, cổ xúy cho việc bỏ gia đình, nhà cửa, đập bỏ bàn thờ tổ tiên, khước từ cha mẹ, tuyệt đối tin nghe theo sự chỉ bảo của “Đức Chúa trời” đã gây bức xúc trong dư luận. Cơ quan chức năng khẳng định hoạt động của các nhóm tự xưng “Hội thánh Đức Chúa trời” tại nhiều địa phương là hoạt động vi phạm luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo, vi phạm Nghị định 162/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.

Đáng lo ngại là theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, các “tín đồ” đi theo “Hội thánh Đức Chúa trời” lên đến hàng nghìn người, hoạt động rộng khắp ở hơn 20 tỉnh, thành phố. Không được cấp phép hoạt động, một số cơ sở truyền giáo trái phép thuộc hội nhóm này bị buộc phải đóng cửa, những sai phạm bị xử phạt nghiêm theo quy định của pháp luật, đồng thời trên các phương tiện truyền thông cũng đăng tải nhiều bài viết nhằm cảnh báo người dân tỉnh táo, cảnh giác trước sự lôi kéo, dụ dỗ của tổ chức này. Tuy nhiên đến nay, “Hội thánh Đức Chúa trời” vẫn lén lút hoạt động tại một số địa phương.

Cụ thể như thời điểm tháng 9/2021, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên khắp cả nước, các hoạt động tụ tập đông người phải hạn chế, một số tỉnh, thành phố phải thực hiện giãn cách xã hội để phòng ngừa dịch bệnh, song tại Thừa Thiên Huế, ngày 10/9, lực lượng công an đã phát hiện một nhóm người lạ mặt từ nơi khác đến, chiêu mộ quy tụ được khá đông “tín đồ” trên địa bàn để tham gia sinh hoạt trong “Hội thánh Đức Chúa trời mẹ”.

Vẫn kiên trì với “giáo lý” của riêng mình, đi ngược thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội, nhóm người truyền giáo lạ mặt còn yêu cầu thành viên tham gia có trách nhiệm đi truyền đạo, chiêu mộ thêm người mới, tích cực đóng góp nhiều tiền bạc để “Hội thánh” ngày càng phát triển. Theo lời khẳng định của chúng thì chỉ có như vậy thì cuộc sống của mỗi cá nhân mới được giải thoát khỏi đau khổ, nghèo đói! Nếu tỉnh táo nhận diện có thể thấy sự vô lý trong luận điệu “truyền giáo” mang dáng dấp của “kinh doanh đa cấp”.

Hay như mới đây, tháng 4/2022, tại huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang, cơ quan chức năng phát hiện một số đối tượng có hành vi tuyên truyền, vận động người dân địa phương tham gia vào cái gọi là “Hội thánh Đức Chúa trời tư gia”. Thay vì phải lặn lội đến từng khu dân cư, các đối tượng lợi dụng sự tiện ích của mạng xã hội để truyền đạo trực tuyến. Phòng học “giáo lý” được mở trên Zoom, mỗi buổi sinh hoạt tập hợp chừng 30-40 thành viên tham gia; duy trì bốn buổi/tuần vào các buổi trưa, khoảng thời gian nhiều người thường rảnh rỗi. Ngay khi mới tham gia, các “tín đồ” lập tức phải đóng góp lệ phí để sinh hoạt, đồng thời được hướng dẫn ai có bệnh tật cần điều trị thì sẽ được “trị liệu riêng”, “bảo đảm khỏi mọi loại bệnh”, tất nhiên là có những điều kiện và chi phí kèm theo.

Có thể thấy, dù không có tư cách pháp nhân song những người điều hành hoạt động của “Hội thánh Đức Chúa trời tư gia” vừa truyền giáo trái phép, vừa chữa bệnh bất hợp pháp để thu lời bất chính. Hậu quả tuy chưa được thống kê, song từ đây cho thấy không ít người dân vì cả tin, mê muội, đang dại dột giao phó tính mạng mình cho những đối tượng không đáng tin cậy, để bản thân rơi vào cảnh tiền mất, tật mang, gia đình tan nát.

Đó chỉ là một vài thí dụ nhỏ nhưng đã phần nào cho thấy mức độ phức tạp và nguy hiểm của các hoạt động tôn giáo không chính thống đang âm thầm phát triển trong cộng đồng, gây ra những hậu quả khó lường. Hiện tượng tôn giáo mới cũng đang là một trong những vấn đề có tính thời sự của tôn giáo thế giới trong thế kỷ 21. Ước tính trong vòng 20 năm qua, trên thế giới có khoảng 20.000 hiện tượng tôn giáo mới với hơn 130 triệu tín đồ (trung bình mỗi ngày xuất hiện 2-3 tôn giáo mới).

Đáng lo ngại là sự xuất hiện của hiện tượng tôn giáo mới với sự nở rộ của các tà đạo với nhiều biểu hiện mờ ám, tiêu cực đang có chiều hướng gia tăng. Theo số liệu thống kê sơ bộ của Ban Tôn giáo Chính phủ, tính đến tháng 4/2021, Việt Nam có 85 đạo lạ, tập trung chủ yếu ở khu vực nông thôn, vùng sâu vùng xa, đặc biệt các tỉnh thuộc địa bàn Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ.

Để hòng lôi kéo người dân tin và đi theo mình, có người tự xưng là “Chúa giáng thế”, đưa ra những câu chuyện hoang đường, dụ dỗ người dân chỉ cần đi theo mình, ngày ngày nhất tâm cầu nguyện thì: “không làm cũng có ăn, không học cũng biết chữ, người già sẽ lột xác, ốm đau sẽ tự khỏi”. Có người thì dựng lên câu chuyện về “Đức Mẹ hiển linh” truyền cho mình sứ mệnh cao cả, đứng lên tập hợp mọi người tham gia với lý do: “Ai theo Đức Mẹ thì mọi nợ nần về vật chất và tinh thần đều được xóa, kể cả nợ ngân hàng; ốm đau không cần chữa cũng khỏi bệnh; người đã theo thì không được bỏ, nếu bỏ đạo gia đình sẽ ly tán”.

Những diễn biến phức tạp liên quan các hiện tượng tôn giáo mới thời gian qua đã và đang tiếp tục gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực đến đời sống xã hội. Đó là tuyên truyền mê tín dị đoan (uống “nước thánh” là mọi bệnh sẽ tiêu trừ; hủy hoại cơ thể để được siêu thoát; quan hệ tình dục tập thể với giáo chủ để nhanh đắc đạo…); lợi dụng sự nhẹ dạ, thiếu hiểu biết của một số người dân để trục lợi, gây mất an ninh trật tự (tụ tập đông người để truyền đạo bất hợp pháp, kêu gọi người dân bỏ gia đình người thân để đi theo tà đạo, vận động người dân “càng đưa nhiều tiền và đọc kinh sám hối nhiều thì sẽ sớm được xóa tội, hưởng sung sướng”...). Lợi dụng hoạt động tôn giáo để lôi kéo người dân vi phạm chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống phá chính quyền (tổ chức đám cưới không đăng ký kết hôn, không chấp hành lệnh khám tuyển nghĩa vụ quân sự, lợi dụng các vụ việc nổi cộm gây bức xúc trong dư luận để kêu gọi người dân biểu tình,…).

Nguy hiểm hơn, một số tà đạo với sự tiếp tay của các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo lôi kéo người dân tham gia những hoạt động trái pháp luật, gây rối hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị. Tiêu biểu có thể kể đến sự kiện xảy ra vào năm 1999 tại Tây Nguyên, một số đối tượng chống cộng, phản động lưu vong ở hải ngoại đã cấu kết với các “chân rết” ở trong nước, dùng chiêu bài tôn giáo để kêu gọi, mua chuộc người dân tham gia vào cái gọi là “Tin lành Đê ga” nhưng thực chất là kích động tư tưởng ly khai dân tộc, thành lập nên “Nhà nước Đê ga” hòng đối trọng với chính quyền hiện hành, và âm mưu một cuộc lật đổ chế độ.

Hay như năm 2006, tà đạo Hà Mòn xuất hiện tại Đắk Lắk, kêu gọi người dân bỏ rẫy, bỏ vườn, không cho con cái học hành, kích động tư tưởng ly khai, tự xưng là “Công giáo Đê ga”. Theo báo cáo từ cơ quan chức năng, tổ chức này nhận sự chỉ đạo trực tiếp từ các đối tượng phản động sống lưu vong ở nước ngoài để âm mưu thành lập nhà nước riêng đặt trụ sở tại thành phố Pleiku.

Chính từ những biểu hiện thiếu lành mạnh, gây nguy hại, bất ổn cho xã hội, các tà đạo không được Nhà nước Việt Nam công nhận và cấp phép hoạt động. Song bằng nhiều con đường, thủ đoạn khác nhau, các tà đạo này vẫn hình thành nên mạng lưới chân rết tỏa đi khắp các tỉnh, thành phố, đặc biệt là khu vực miền núi, vùng sâu vùng xa, tiếp cận người dân để dụ dỗ, chiêu mộ tín đồ, tuyên truyền tín ngưỡng bất hợp pháp, thậm chí tổ chức những hoạt động mang màu sắc chính trị cực đoan, chống phá chính quyền.

Đáng chú ý, thời gian gần đây, để tránh bị cơ quan chức năng phát hiện, xử lý, các hiện tượng sinh hoạt tôn giáo trái phép trên mạng xã hội có chiều hướng nở rộ, với những biểu hiện như: phát tán tài liệu, livestream tuyên truyền “giáo lý”, lập các nhóm kín để vận động người dân tham gia,... Bên cạnh những người dân vùng sâu vùng xa, trình độ văn hóa hạn chế, thiếu thông tin, nhẹ dạ bị dẫn dắt, dụ dỗ trở thành tín đồ của tà đạo còn có sự xuất hiện của không ít người trẻ ham thích được trải nghiệm những điều mới mẻ, và cả những người có trình độ, uy tín trong xã hội. Đây là biểu hiện rất cần quan tâm. Rõ ràng, chiêu thức dụ dỗ của các tà đạo ngày càng tinh vi, khiến đối tượng bị mắc bẫy có thể là bất cứ ai.

Đáng chú ý, chúng thường lợi dụng người có hoàn cảnh khó khăn, hoặc đang có nhiều ẩn ức, bức xúc trong đời sống để lôi kéo tham gia vào các hoạt động mang màu sắc tâm linh như một cách để tự giải thoát khỏi những bế tắc. Mặt khác, dù mang danh nghĩa hoạt động tôn giáo, các đối tượng chống phá, cực đoan, bất mãn, cơ hội chính trị thường xuyên lợi dụng, khoét sâu các vấn đề tiêu cực nổi cộm trong xã hội, các chính sách đối với tôn giáo để kích động chức sắc, tín đồ lên tiếng, xuống đường biểu tình, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Những diễn biến phức tạp liên quan lĩnh vực tôn giáo thời gian qua đang gióng lên hồi chuông cảnh báo trong cộng đồng, đòi hỏi mỗi cá nhân cần hết sức tỉnh táo, thận trọng, đề cao cảnh giác trước các hoạt động phi pháp núp bóng tôn giáo, không để bị lôi kéo tham gia các tà đạo. Bởi rất có thể mình sẽ vô tình trở thành người tiếp tay cho các hành vi vi phạm pháp luật khoác áo tôn giáo gây hại cho xã hội, để rồi chính bản thân và gia đình bị liên lụy.

QUAN ĐIỂM ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG, NHỮNG VẤN ĐỀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là âm mưu, thủ đoạn chống phá nguy hiểm đối với cách mạng Việt Nam, đã và đang được các thế lực thù địch ra sức tiến hành. Ngay từ những năm cuối thập kỷ 80 đầu 90, khi hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lâm vào khủng hoảng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch đã “chớp thời cơ”, coi đây là “thời cơ vàng” tiến công nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của các đảng cộng sản và xóa bỏ nền độc lập dân tộc của các nước tiến bộ, trong đó có Việt Nam.

Hiện nay, trước sự phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, đặc biệt là những thành tựu thu được trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế của nước ta, các thế lực thù địch ra sức chống phá cách mạng Việt Nam. Chúng cổ vũ cho “chủ nghĩa tự do”, thị trường tuyệt đối, làm giàu bằng bất cứ giá nào, phủ nhận những quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bằng âm mưu, thủ đoạn tinh vi, chúng đưa ra cách “lập luận” kiểu lô-gíc hình thức, rằng chủ nghĩa Mác ra đời cách đây đã lâu rồi, cách đây hơn thế kỷ rồi, bối cảnh lịch sử hiện đã thay đổi cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam không thể cứ khư khư giữ lấy “cái học thuyết đã lỗi thời đó” làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của mình. Từ đấy, chúng xuyên tạc rằng, một đảng lấy tư tưởng, lý luận đã “lạc hậu, lỗi thời” thì không thể có cơ sở để lãnh đạo đất nước phát triển khi thực tế khách quan đã thay đổi. Chúng trắng trợn phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh và cho rằng Hồ Chí Minh “không phải là nhà tư tưởng” mà chỉ là “nhà hoạt động thực tiễn” nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh tự giải phóng.

Bằng âm mưu, thủ đoạn lấy tư duy hình thức thay cho phương pháp tư duy biện chứng, chúng chống phá, bác bỏ hệ thống tư tưởng, lý luận của Đảng ta; chống phá, phủ nhận nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để tăng cường hiệu quả chống phá, chúng trắng trợn phủ nhận những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đạt được qua hơn 35 năm đổi mới. Những thành tựu đó đã làm thay đổi lớn đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, tạo niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, khẳng định giá trị khoa học, hiện thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; đưa vị thế của Việt Nam lên một tầm cao mới, được các tổ chức và cộng đồng quốc tế công nhận. Thế nhưng, chúng vẫn bằng cách này, cách khác đưa ra các thông tin, số liệu giả để kích động, lôi kéo không ít người do thiếu hiểu biết, nhẹ dạ, cả tin ngộ nhận, tin theo chúng. Chúng ra sức phủ nhận giá trị khoa học, hiện thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thủ đoạn phủ nhận giá trị đó của các thế lực thù địch, phản động được tiến hành dưới nhiều hình thức, một cách kiên trì; từ việc gây chia rẽ, kích động, lôi kéo từng cá nhân bất mãn đến một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân thiếu hiểu biết, thiếu bản lĩnh vững vàng tin theo chúng.

Phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đòn tiến công của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận. Mục đích của đòn tiến công này là làm thay đổi nhận thức, niềm tin của con người với tính chất rất thâm độc và tinh vi, xảo quyệt. Âm mưu, thủ đoạn này đã từng được các thế lực thù địch thực hiện có hiệu quả ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây và một số nước tiến bộ trong thời gian gần đây. Đặc biệt, hiện nay, các thế lực thù địch lợi dụng sự xung đột giữa một số quốc gia, nhất là vấn đề Ukraine để xuyên tạc chế độ chính trị của một số nước. Việt Nam không nằm ngoài thủ đoạn chống phá ấy. Vấn đề đó được chúng triệt để lợi dụng hòng xuyên tạc quan điểm, đường lối đối ngoại và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Việt Nam về vấn đề Ukraine được khẳng định rõ rảng. Đó là không ủng hộ xung đột quân sự xảy ra tại Ukraine, đồng thời tích cực kêu gọi các bên liên quan hết sức kiềm chế, tránh những động thái gây bất ổn cho tình hình chính trị thế giới, ảnh hưởng xấu đến hòa bình, ổn định toàn cầu. Quan điểm ấy xuất phát từ xu thế của thời đại, từ yêu cầu do thực tiễn cách mạng đặt ra; phản ánh sự tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh luật pháp quốc tế. Đây cũng chính là quan điểm được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định dựa trên nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao. Trong mọi điều kiện hoàn cảnh, tư tưởng ấy của Người luôn tỏa sáng tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến” vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc. Người luôn tìm mọi cách để ngăn ngừa xung đột vũ trang, tận dụng mọi khả năng giải quyết xung đột bằng biện pháp hòa bình.

Giá trị khoa học, hiện thực của Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; sự phù hợp, đúng đắn trong quan điểm đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam liên quan đến tình hình Ukraine là những vấn đề không thể phủ nhận.

Vì vậy, là công dân Việt Nam yêu nước, mỗi chúng ta phải hết sức cảnh giác, tỉnh táo trước những thông tin bịa đặt, không chính thống, thông tin chưa được kiểm chứng hoặc những thông tin chỉ đưa ra các quan điểm cá nhân, chứ không đúng với bản chất và thực tế của vấn đề.

TỰ NGUYỆN DÂNG HIẾN, HY SINH VÌ TỔ QUỐC, VÌ NHÂN DÂN

 Tự nguyện đi theo con đường cách mạng, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta luôn sẵn sàng hy sinh vì mục tiêu, lý tưởng đã chọn. Đúng như Nghị quyết số 847-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương đã chỉ ra một trong những nét đặc trưng nổi bật của phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ là “chấp nhận hy sinh, vượt qua khó khăn, gian khổ, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ”.

1. Trong muôn vàn sự lựa chọn, có lẽ chọn sự hy sinh là cao cả và thiêng liêng nhất. Bởi hy sinh là chấp nhận khó khăn, gian khổ, thiệt thòi, thậm chí mất mát. Nhưng không có sự hy sinh nào là vô nghĩa, nhất là hy sinh cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng; hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì đồng đội, gia đình. Với quân nhân, lời thề danh dự thiêng liêng, cao quý đầu tiên chính là “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam!”. Thế nên những người lính khi đã cất bước “ra đi đầu không ngoảnh lại”, nguyện một lòng một dạ “quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”. Có những câu chuyện, những tấm gương hy sinh sẽ mãi được lịch sử ghi lại, các thế hệ đời đời nhớ ơn.

Mỗi khi nói đến sự hy sinh thì câu chuyện về những đồng đội ở đơn vị tôi vẫn luôn nhắc nhớ về bài học tri ân. Tôi vẫn nhớ như in một ngày giữa tháng 6-2016, trời chang chang nắng. Cái nắng lửa như thiêu đốt ruột gan thêm cồn cào, nhức nhối. Tôi cùng rất nhiều đồng đội dõi mắt lên bầu trời và đợi chờ. Thời gian như ngưng đọng, những gương mặt đăm chiêu mong ngóng người trở về. Nhưng không, máy bay Casa số hiệu 8983 thực hiện nhiệm vụ bay cứu hộ-cứu nạn đã nằm lại giữa biển khơi. Cả 9 người con ưu tú của Lữ đoàn 918 (Quân chủng Phòng không-Không quân) đã ra đi mãi mãi. Biển biếc quê hương đã ôm trọn các anh vào lòng. 9 con người ra đi để lại phía sau là hậu phương, gia đình. Có vợ liệt sĩ đang mang bầu, có con liệt sĩ mới chập chững biết đi, có bố mẹ liệt sĩ mái đầu bạc trắng nhớ thương. Sự hy sinh, mất mát là rất lớn, để lại niềm tiếc thương cho đồng chí, đồng bào cả nước. Những cánh chim quả cảm đã hóa thân vào bầu trời Tổ quốc. Chuyến bay dở dang, ước nguyện chưa thành. Thế nhưng sự hy sinh của các anh đã truyền lửa tinh thần, tiếp thêm sức mạnh để đồng đội tiếp tục cất cao cánh bay giữ trời Tổ quốc.

Có thể thấy giá trị nhân cách Bộ đội Cụ Hồ được hun đúc bởi nhiều yếu tố, trong đó đức hy sinh có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Ấy là hành động nhận gian khó về mình để người khác được hưởng niềm vui, sẵn sàng hy sinh bản thân để người khác được hưởng bình yên, hạnh phúc. Trong xã hội, nếu “ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ sẽ dành phần ai?”. Trả lời câu hỏi ấy, bộ đội sẽ không hề do dự. Họ sẵn sàng xung phong dấn thân vào nơi gian khổ, hiểm nguy với tinh thần “Vui gì hơn làm người lính đi đầu” (Tố Hữu). Người lính nhận về mình sự thiệt thòi để mang lại những điều tốt đẹp cho xã hội. Tinh thần đó, lý tưởng đó, hành động đó thật đáng trân trọng biết bao!

Sự hy sinh của bộ đội đã tạc vào lòng nhân dân hình ảnh vô cùng đẹp đẽ. Mới đây, đại dịch Covid-19 quét qua là lúc người lính xông pha diệt “giặc” nguy hiểm này. Một lần nữa, hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ lại tỏa sáng, truyền thêm niềm tin cho cộng đồng xã hội. Nhân dân nhìn thấy bộ đội là thấy an lòng. Khi các địa phương thực hiện giãn cách xã hội, bộ đội đến từng nhà trao quà an sinh, chữa bệnh, giúp tiêm vaccine, tuần tra, bám chốt, lo hậu sự cho người dân qua đời vì Covid-19... Chính trong thời điểm khó khăn, gian khổ đó lại càng tỏa sáng đức hy sinh cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ. Biết bao cán bộ, chiến sĩ phải gác lại việc riêng, ngày đêm dầm mình trong sương gió canh gác, chốt chặn, phòng, chống dịch. Có nhiều đồng chí vì nhiệm vụ mà người thân ra đi không thể về chịu tang, đành vái vọng từ xa. Những sự hy sinh thầm lặng đó đâu dễ gọi tên.

2. Giữa thời bình, niềm vui ngập tràn trên từng nẻo đường, góc phố. Bình yên hiện hữu trên mỗi gương mặt người. Hạnh phúc nhân lên trong từng mái ấm. Thế nhưng xin hãy nhớ rằng, nơi biên cương, hải đảo, ở những đồn biên phòng, kho quân khí, trạm radar, nhà giàn xa xôi vẫn có những người lính ngày đêm lặng thầm thực hiện nhiệm vụ. Họ công tác, sinh hoạt trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, địa bàn xa xôi, phức tạp, cơ sở vật chất khó khăn, thiếu thốn. Nhiều đồng chí đã gắn bó cả thanh xuân nơi miền biên viễn hay ngoài trùng khơi. Đâu chỉ khó khăn về điều kiện công tác, họ còn thiếu thốn tình cảm, hơi ấm gia đình. Những khi mọi người sum họp bên người thân, họ chỉ biết đứng lặng dõi về quê hương; những khi mọi người được vui chơi, ca hát, họ phải dầm mình trong màn sương gió lạnh; những khi mọi người quần áo tinh tươm dạo bước nơi phố phường thì họ lặng lẽ hành quân giữ chắc tay súng...

Đôi khi niềm ước mong của bộ đội rất giản dị, chỉ là một bữa cơm bên gia đình, một cái ôm thật chặt với con yêu. Ở chiều ngược lại, nơi hậu phương là sự khắc khoải đợi chờ, con mong cha, vợ ngóng chồng ngày về sum họp. Thế nên, không những người lính hy sinh mà gia đình, người thân của họ cũng phải chịu thiệt thòi. Nói đến hy sinh đâu chỉ là mất mát, ra đi, mà sự hy sinh còn biểu hiện sinh động từ những điều rất nhỏ. Ấy thế nhưng nếu không đủ mạnh mẽ, chúng ta cũng không dễ hy sinh những điều nhỏ như thế.

3. Thời nay, khi cuộc sống xã hội phát triển, sự so sánh giữa cống hiến và hưởng thụ, giữa được và mất, thiệt và hơn càng rõ nét hơn, không phải ai cũng dễ dàng nhận lấy phần khó khăn, gian khổ. Bộ đội cũng không nằm ngoài những tác động từ đời sống xã hội, những áp lực vô hình ảnh hưởng đến tâm tư, nguyện vọng của mỗi người. Phía sau niềm vinh dự, tự hào vẫn còn những nỗi niềm trăn trở của người lính khi phải hy sinh những lợi ích bản thân vì nhiệm vụ chung. Bởi vậy, bộ đội rất cần sự quan tâm và chia sẻ từ xã hội. Sự động viên thể hiện ở các chính sách hỗ trợ thiết thực đối với bộ đội, nhất là chế độ về đất ở, nhà ở, tiền lương, nghỉ phép, trợ cấp... để quân nhân và gia đình họ có cuộc sống vật chất, tinh thần ngày càng tốt hơn.

Trong cuộc sống hiện đại, mỗi quân nhân cũng ít nhiều chịu sự chi phối bởi các mối quan hệ. Hậu phương là một trong những nỗi lo của người lính khi xa nhà. Cha mẹ, vợ con bộ đội đang cần những sự quan tâm thiết thực như bao gia đình khác, nhưng vì điều kiện công tác xa nhà mà không phải lúc nào quân nhân cũng lo toan chu đáo, vẹn tròn. Thế nên, để bộ đội yên tâm công tác, để mỗi tổ ấm của người lính thực sự là bến neo đậu bình yên của họ, mong sao có sự chăm lo nhiều hơn nữa từ các cấp ủy, chính quyền và đoàn thể quần chúng ở địa phương. Thật ý nghĩa biết bao khi gia đình quân nhân khó khăn được kịp thời giúp đỡ, tổ ấm quân nhân hạnh phúc được tôn vinh, con em bộ đội được khuyến khích, tạo điều kiện trong học tập, công tác. Mỗi hành động, việc làm ý nghĩa từ xã hội sẽ là động lực để cán bộ, chiến sĩ quân đội và gia đình họ có thêm niềm tin vượt mọi khó khăn, tiếp tục phấn đấu, cống hiến, hy sinh vì Tổ quốc và nhân dân.