Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

THANH TRA TOÀN DIỆN TIKTOK TẠI VIỆT NAM, XỬ LÝ NGHIÊM NẾU SAI PHẠM!

     Dự kiến từ tháng 5/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ thanh tra toàn diện TikTok tại Việt Nam, đồng thời xử lý nghiêm đối với những trường hợp không tuân thủ pháp luật của nền tảng này trong quá trình hoạt động, kinh doanh tại Việt Nam.

Chỉ mới bùng nổ tại Việt Nam trong khoảng 3 năm trở lại đây, thế nhưng Việt Nam hiện xếp thứ 6 trong số 10 quốc gia có đông người sử dụng TikTok nhất thế giới.

Số liệu của DataReportal cho thấy, tính đến tháng 2, hiện có khoảng 49,9 triệu người sử dụng mạng xã hội TikTok tại Việt Nam. Cùng với Facebook, Zalo, YouTube, đây hiện là một trong những mạng xã hội phổ biến nhất tại Việt Nam.

Tuy vậy, thời gian gần đây trên mạng xã hội TikTok ngày càng xuất hiện các nội dung xấu độc như phim ngắn phản văn hóa, dung tục, các thông tin sai sự thật, truyền bá mê tín dị đoan, nhiều nội dung cổ xúy hành vi phạm tội...

Khác với Facebook, TikTok gợi ý nội dung cho người xem bằng thuật toán riêng do đơn vị này phát triển. Điều này cũng có nghĩa, các nội dung xấu, thông tin sai sự thật cũng có thể xuất hiện liên tục trước mắt người xem do gợi ý của thuật toán. 

Trước thực trạng trên, Bộ Thông tin và Truyền thông (TTTT) sẽ tiến hành kiểm tra toàn diện đối với nền tảng mạng xã hội TikTok.

Việc kiểm tra dự kiến sẽ bắt đầu tiến hành từ tháng 5.2023. 

Ông Lê Quang Tự Do - Cục trưởng Cục Phát thanh Truyền hình và Thông tin điện tử, Bộ TTTT - cho biết, sẽ xử lý nghiêm đối với những trường hợp không tuân thủ pháp luật của nền tảng này trong quá trình hoạt động, kinh doanh tại Việt Nam.

Theo ông Do, TikTok, Facebook, YouTube đều là các nền tảng mạng xã hội xuyên biên giới. Họ có tiêu chuẩn cộng đồng áp dụng trên toàn cầu.

Tuy nhiên khi vào Việt Nam, các nền tảng này phải tuân thủ theo luật pháp Việt Nam, không chỉ bao gồm việc quản lý về nội dung mà còn cả nghĩa vụ về thuế, thanh toán, quảng cáo…
Yêu nước ST.

VỮNG VÀNG Ý CHÍ “TRÊN DƯỚI ĐỒNG LÒNG, DỌC NGANG THÔNG SUỐT”

 Trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo triển khai cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã sớm nêu ra yêu cầu về sự thống nhất, đồng thuận, quyết tâm trong toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành.

Qua thực tiễn cuộc đấu tranh, trong tác phẩm mới đây nhất “Kiên quyết, kiên trì cuộc đấu tranh phòng, chống tham những, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023) yêu cầu này đã được chính đồng chí Tổng Bí thư tổng kết thành phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”.
Với cách sử dụng từ ngữ dung dị mà khái quát, dân dã mà chặt chẽ, người lãnh đạo cao nhất của Đảng ta nêu lên yêu cầu từ trên xuống dưới, tức từ Trung ương đến cơ sở, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý đến cán bộ, đảng viên, người lao động, công dân… phải muôn người một ý chí, quyết tâm đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Đồng thời, cả hệ thống chính trị với tổ chức bộ máy theo ngành dọc và mỗi thiết chế cũng như từng người dân trong các mối quan hệ đa chiều phải thông suốt trong nhận thức về yêu cầu cấp bách của cuộc đấu tranh, về nội dung và phương thức tiến hành, về kết quả đấu tranh và những nhiệm vụ, giải pháp cần tiếp tục đẩy mạnh… Phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” không chỉ có giá trị định hướng, chỉ đạo mà còn như một lời hiệu triệu toàn Đảng, toàn dân ủng hộ, tham gia cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
Tại sao đồng chí Tổng Bí thư phải đặt vấn đề ở tầm cao nhất như vậy? Chính thực tiễn xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới và những bài học kinh nghiệm quý báu của sự nghiệp cách mạng Việt Nam cũng như của phong trào cộng sản quốc tế là căn cứ, cơ sở hàng đầu:
Một là, tuy đạt một số kết quả bước đầu, nhưng “bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn. Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp” (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập 1, tr.108).
Hai là, cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh chống “nội xâm”, rất phức tạp, khó khăn và có nhiều điểm khác so với đấu tranh chống ngoại xâm. Đối tượng đấu tranh không là lực lượng đối lập hiện hình, hiện hữu, mà là những thực thể tồn tại hữu cơ trong chúng ta. Đó là những mặt, những điểm chưa chuẩn chỉ, chưa thật đúng đắn trong mỗi chúng ta; là những hành vi sai trái, vi phạm Điều lệ Đảng, vi phạm pháp luật của đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp…, thậm chí thủ trưởng, cấp trên của mình; là những cơ chế, chính sách chưa thật phù hợp, còn nhiều kẽ hở có thể lợi dụng; là những giọng điệu, hành động gây cản trở, xuyên tạc, công kích cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực… Tuy không khói súng, nhưng trong nhiều trường hợp, cuộc đấu tranh mang tính đối kháng “một mất, một còn” giữa một bên là những phần tử tha hóa, biến chất, tham nhũng, tiêu cực sẵn sàng đạp đổ tất cả và một bên là kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, toàn Đảng, toàn dân kiên quyết, kiên trì quét sạch “nội xâm”, bảo vệ công lý, bảo vệ sự nghiệp cách mạng.
Ba là, thực tế cho thấy, cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực không phải lúc nào cũng suôn sẻ, thuận lợi; trái lại, thường xuyên gặp nhiều loại khó khăn, cản trở. Ngay từ rất sớm, Đảng ta chính thức phát động cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực bằng Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 2 tháng 2 năm 1999 của Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (lần 2) khoá VIII “về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó nhấn mạnh nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tệ tham nhũng, lãng phí. Gần 25 năm đã trôi qua, nhưng cũng phải đến những năm gần đây, chúng ta mới có đủ điều kiện để kiên quyết, kiên trì triển khai cuộc đấu tranh này theo tinh thần” không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”, “nhốt mọi quyền lực trong chiếc lồng thể chế”…
Bốn là, kế thừa di sản quý báu của tư tưởng Hồ Chí Minh “khó vạn lần dân liệu cũng xong” và quán triệt quan điểm Đại hội XIII “dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, phương châm “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” yêu cầu huy động, tổ chức, phát huy sức mạnh không chỉ của các cơ quan chức năng, mà phải là của toàn dân, cả hệ thống chính trị vào cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực. Không ít phần tử tham nhũng, tiêu cực là những người có quyền lực lớn, tinh vi, xảo quyệt và được tổ chức thành những nhóm lợi ích vô cùng lợi hại. Bởi vậy, mặc dù chúng ta đã thành lập ban chỉ đạo trung ương và các tỉnh, thành phố để trực tiếp chỉ đạo các chuyên án lớn, phức tạp, nhưng vẫn có những vụ việc còn kéo dài. Trong bối cảnh này, nhất định phải dựa vào các tầng lớp nhân dân với đội ngũ trên dưới, dọc ngang cung cấp thông tin, phát hiện, tố giác và đấu tranh, kiên quyết đốn bỏ khỏi cơ thể Đảng và hệ thống chính trị những gì đã bị tha hóa, mục ruỗng.
Năm là, trong triển khai cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực cần chú ý đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch phủ nhận, xuyên tạc, công kích các chủ trương, quan điểm và công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đây không phải là chiến dịch “thanh trừng” phe nhóm, mà là một nhiệm vụ chính trị cấp thiết của toàn Đảng, toàn dân; không phải là hành động nhất thời, mang tính nhiệm kỳ mà là công việc thường xuyên trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng; không phải là kịch bản sao chép từ bên ngoài mà là chủ trương của Đảng ta, do các cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở chủ động lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện; không phải là biểu hiện của “một đảng hỏng” mà là hình ảnh của “một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” vì “có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó” - chính Đảng tiền phong đã từng được lãnh tụ Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức, giáo dục và rèn luyện.
Nhân dịp nghiên cứu, quán triệt nội dung tác phẩm quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư, chúng ta nên nhớ lại nhận định mang tính cảnh báo nghiêm khắc của lãnh tụ V.I.Lênin nêu ra năm 1921 khi triển khai công tác chỉnh đốn Đảng rằng, Đảng Cộng sản (b) Nga ngày ấy có ba kẻ thù bên trong phá hoại gồm: tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa, nạn thất học và nạn hối lộ; nếu không được khắc phục thì đây sẽ là những lực lượng làm sự nghiệp của những người Bôn sê vích thất bại. (V.I.Lê-nin: Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978). Cũng nhân dịp này, chúng ta nhớ lại bi kịch ở Liên Xô tháng 12 năm 1991 là sự tự thất bại, tự tan rã từ bên trong của một sự nghiệp cộng sản vĩ đại, trước hết là do công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cầm quyền không thành công, để Đảng phân hóa, phân rã và phân liệt nặng nề.
Để đảm bảo cho Đảng ta có sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, cầm quyền trước yêu cầu, nhiệm vụ mới, thật sự “là đạo đức, là văn minh”; để xây dựng Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, một trong những nhân tố không thể thiếu là toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành đồng thuận, thống nhất nhận thức và hành động, vững vàng ý chí và bản lĩnh, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt” trong triển khai cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực./.
ST




CẢNH GIÁC, CHỦ ĐỘNG PHÁT HIỆN, NGĂN CHẶN, ĐẤU TRANH VỚI CÁC “HỘI NHÓM YÊU ĐỒ LÍNH VNCH"

 Hiện nay, trên mạng xã hội xuất hiện một số hội nhóm thường xuyên đăng tải hình ảnh trang phục lính Việt Nam cộng hòa.

Các thành viên nhóm tự hào khi sở hữu những món đồ “độc”, “lạ” là những món đồ lính Mỹ, ngụy đã qua sử dụng trong chiến tranh Việt Nam. Xuất xứ, lai lịch của món đồ, chủ nhân cũ của món đồ càng “oanh liệt” có nhiều thành tích chống Cộng, giết hại dân lành… thì lại càng có giá trị sưu tập.
Mượn danh “hội yêu đồ lính”, các thành viên ngông nghênh đi khắp nơi, ngang nhiên đưa lên mạng xã hội hình ảnh của mình trong các sắc phục lính từ mũ nồi đỏ, mũ nồi xanh, đến biệt động, thủy quân lục chiến… Hoặc lôi nhau vào rừng dựng cảnh vác súng, đánh trận, bị thương… rồi cắt ghép minh họa cho các bài hát ca ngợi “quân lực Việt Nam Cộng hòa”. Đây là một trong những hoạt động cổ súy, kích động hận thù, gợi lại nỗi đau chiến tranh.
Việc diễn “thời trang lính Việt Nam Cộng hòa” lại ẩn chứa nhiều âm mưu thâm hiểm của chiến lược “diễn biến hòa bình”, việc trên đây giúp cho các đối tượng phản động phổ biến hình ảnh mặc đồ lính Việt Nam Cộng hòa và đăng tải trên mạng xã hội, người dân yêu màu áo lính nhưng thiếu hiểu biết lịch sử, biến đây thành một trào lưu cho một bộ phận mù quáng thiếu hiểu biết. Sau khi đã khơi gợi sự đam mê và cuốn theo trào lưu này, không ít người từ đam mê quần áo lính sẽ có cái nhìn thiện cảm về lính Việt Nam Cộng hòa, xóa nhòa ranh giới của một đội quân đã một thời chống lại Tổ quốc mình.
Vì vậy, mỗi người dân cần nâng cao tinh thần cảnh giác, chủ động nhận diện, phát hiện và cùng ngăn chặn, đấu tranh với những hoạt động, hành vi phản cảm, gây bức xúc dư luận xã hội, phẫn nộ nêu trên./.
ST

UY VÀ TÍN

 Nôm na, có thể nói uy tín là danh từ chỉ sự tín nhiệm và mến phục được mọi người công nhận. Cái oai, cái uy thì thường có từ những người có chức vụ, có quyền lực. Vì vậy, có người khi có chức vụ thì ngộ nhận mình là người có uy tín, thực chất đó là cái quyền uy do chức vụ tạo nên.

Người có uy tín là người rèn luyện được những phẩm chất, tính cách của con người, được xã hội nể trọng thông qua những tư duy, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ đối với công việc cũng như với mọi người.
Cha ông ta có câu “một lần bất tín, vạn lần bất tin” cho thấy cái uy tín trong cuộc sống của mỗi con người là rất quan trọng. Khi người ta không tin mình thì thật là một bi kịch. Điều này lại càng quan trọng đối với những người cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức vụ, có chức quyền.
Người có uy tín trước hết thường là những người đã đạt được nhiều thành tựu trong công việc và cuộc sống. Họ có năng lực chuyên môn vững vàng; đã nói là làm, làm đến nơi đến chốn, luôn nghiêm túc với bản thân mình. Do nắm chắc được quy luật, công việc, tình hình nên họ thường có tầm nhìn xa, trông rộng, có tính quyết đoán. Họ cũng là người có phẩm chất, nhân cách và đạo đức tốt, luôn có ý thức lan tỏa cái hay, cái đúng, cái tốt, giúp mọi người cùng tiến bộ.
Người có uy tín rất thận trọng với lời hứa của mình. Từ những cái đơn giản như hẹn giờ đến những nội dung cam kết, đã hứa là họ quan tâm thực hiện bằng được theo đúng lời hứa của mình. Những cái không chắc, họ không hứa hão, không “đánh trống bỏ dùi”. Khi có những đột xuất, không thực hiện được lời hứa họ thông báo cụ thể, đầy đủ cho đối tác để không bị lỡ việc. Vì sự chân thành, lại có thói quen giữ chữ tín nên họ là những người luôn luôn tự tin với bản thân mình.
Quyền chỉ có uy khi người lãnh đạo biết quyền biến, khôn ngoan, cương - nhu, quyết đoán - mềm dẻo hài hòa. Uy quyền có được là do khí chất thiên bẩm của người lãnh đạo có tầm, do rèn luyện, nhưng trên hết vẫn là do con người có tâm, có tấm lòng trong sáng, thấu hiểu lòng người. Khi người cầm quyền có thực đức, thực tài, công bằng, quang minh chính đại, muôn việc đều vì lợi ích chung, thì khi đó, tự quyền lực có sức hút thu phục lòng người, nhân tâm đồng thuận, một lời nói ra sức mạnh uy phong, tiền hô hậu ủng, làm theo.
Đáng tiếc, trong đội ngũ cán bộ chúng ta, nhiều người, kể cả cán bộ ở cấp cao, kể cả những vị trí rất quan trọng nhận thức chưa đúng, thực hành chưa nghiêm. Đó là những người có chức vụ - “nói ai cũng phải nghe, đe ai cũng phải sợ...” thì họ nhầm tưởng mình là người có uy tín. Không phải khi ngồi ghế cao, đầy uy quyền là đã có tín. Khi không có tín, thì cho dù uy to mấy, cũng dễ nhạt nhòa. Những người trọng tín, biết giữ gìn, xây đắp chữ tín, cho dù chức nhỏ, quyền ít, nhưng cái uy vẫn thanh cao.
Có người xuất hiện trước công chúng, người dân khâm phục, nể trọng nhìn mặt, tin tưởng vì họ có bản lĩnh, vô tư, không vụ lợi, đã nói là làm, đã làm là đến nơi đến chốn! Nhưng cũng có người nói thì hay “nổ”, người dân lại cười, buồn: Nói thì hay, nhưng... Cũng có người nói như hát hay, nhưng lòng dạ đen tối, tham lam, núp bóng “sân sau” bám víu, cài cắm vợ con, người thân, nên “há miệng mắc quai”, chỉ dám nói nửa vời!
Lâu nay, người ta than phiền nhiều về “hậu duệ, tiền tệ, quan hệ,...”. Vì nhiều cái “ệ” mà khi đạt được mục đích thì người ta cũng rất giỏi đánh bóng tên tuổi, chui sâu, leo cao, vụ lợi, “trái chín lẫn trái xanh, vàng thau lẫn lộn”. Những người sính uy, khoái quyền thì rất dễ quên đi chữ tín. Họ làm xấu đi hình ảnh người công bộc của dân. Người nêu cao danh dự, biết trọng chữ tín, biết ký thác cả danh dự cá nhân trong hành động, việc làm, trong trọng trách được giao, thì chữ tín sẽ làm sáng đẹp lên cái của người uy công bộc, được dư luận, người đời kính nể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói rất nhiều đến “nêu gương”, “làm gương”. Hiện nay, Đảng ta cũng xác định nêu gương là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. Cán bộ càng giữ trọng trách cao càng phải nêu gương sáng. Không chỉ tự nêu gương chính mình mà còn là sự nêu gương của vợ con gia đình, người thân. Đó là danh dự, trách nhiệm, là liêm sỉ. Cái uy, cái tín có hay không, cũng đều nằm cả trong sự tự nêu gương ấy.
Muốn thực sự có uy tín, phải không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn. Chẳng có ai lại đặt chữ tín vào một người năng lực kém, làm không được việc. Phải biết rèn luyện các “kỹ năng mềm” như tổ chức, quản lý, viết lách, diễn thuyết, điều hành, xử lý công việc, văn hóa, thể thao... Phải biết xây dựng mối quan hệ trong công tác, cởi mở trong sinh hoạt, lan tỏa những phẩm chất tốt để được mọi người tin tưởng. Phải biết luôn giữ lời hứa và cam kết của mình với người khác.
Dân trí ngày càng cao, càng ngày, người Dân càng đặt niềm tin vào những người có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, có năng lực nổi trội. Lòng dân trân trọng ghi nhận những tấm gương vì nước, vì dân, “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”. Lòng dân cũng vô cùng oán hận với những kẻ sâu dân mọt nước, tham lam, ích kỷ, chỉ vì những lợi ích của mình./.
ST

“CHỈ SỢ LÒNG DÂN KHÔNG YÊN”

 - Trong di sản Hồ Chí Minh có những từ “sợ”, “lòng dạ”, “lòng dân”, “lương tâm”, “chính tâm”, “niềm tin”. Đáng chú ý nhất khi Người nói “chỉ sợ lòng dân không yên”.

Có mấy trường hợp điển hình Bác nói đến những cụm từ trên. Thứ nhất, chuyện kể rằng sau Cách mạng Tháng Tám thành công, có cán bộ cao cấp hỏi Bác: “Thưa Bác, cách mạng thành công rồi, chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, Bác có điều gì sợ không ạ?” Bác trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi trả lời: “Bác vẫn còn một điều sợ, đó là sợ các chú làm bậy, ảnh hưởng đến uy tín của Chính phủ, dẫn đến mất lòng tin của nhân dân”.
Đối chiếu câu chuyện ở trên với những bài viết, bài nói của Bác ngay sau Cách mạng Tháng thành công nhận thấy rất logic, rất hợp lý. Đúng nửa tháng sau Tuyên ngôn độc lập, trong “Thư gửi các đồng chí tỉnh nhà”, Người đã nói đến việc đề phòng hủ hóa, cán bộ lên mặt làm quan cách mạng, độc hành độc đoán, hoặc dĩ công dinh tư (lấy của chung làm của riêng), v.v.. Những khuyết điểm trên, nhỏ thì làm cho dân chúng hoang mang, lớn thì làm cho nền đoàn kết lung lay. Trong bài “Sao cho được lòng dân” Người viết: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”. Ngày 17-10-1945, trong bài “Gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng” đăng báo Cứu quốc, sau khi nêu thành tích nhiều người làm theo đúng chương trình của Chính phủ và rất được lòng dân, Bác chỉ ra sáu lầm lỗi rất nặng nề như: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Những người mắc lỗi lầm đó tưởng mình là thần thánh, coi khinh dân gian, huênh hoang, khoác lác, kiêu ngạo, cử chỉ vác mặt “quan cách mạng”, làm mất lòng tin cậy của dân, hại đến uy tín của Chính phủ.
Thứ hai, tháng 6-1949, trong tác phẩm Cần Kiệm Liêm Chính, khi bàn về chữ Liêm, Bác viết “cán bộ các cơ quan, các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút, có dịp “dĩ công vi tư”. Thứ ba, tháng 9-1950, trên đường đi chiến dịch Biên giới, ghé thăm một đơn vị thanh niên xung phong, Bác làm bài thơ có 4 câu: “Không có việc gì khó/Chỉ sợ lòng không bền/Đào núi và lấp biển/Quyết chí ắt làm nên”. Thứ tư, tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Bác nói: “Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng/ Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”. Thứ năm, tháng 6-1968, khi nêu ý kiến về làm và xuất bản loại sách “Người tốt việc tốt”, Bác nói: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”.
Một lần duy nhất khi trả lời một nhà báo nước ngoài của báo Frères D’armes, khi được hỏi: “Chủ tịch sợ gì nhất?”, Bác trả lời: “Chẳng sợ gì cả. Một người yêu nước không sợ gì hết và nhất thiết không được sợ gì”. Như vậy theo Bác, một người yêu nước, người cách mạng thì không sợ gì cả, chỉ sợ lòng dân không yên, vì lòng dân không yên, mất lòng dân là mất tất cả.
Xâu chuỗi những bài viết, bài nói của Bác liên quan tới những cụm từ trên cần nhận thức thấu đáo rằng Bác cho ta thấy sức mạnh của nhân dân gồm hệ thống một nguồn lực như tài dân, sức dân, của dân, quyền hành, lực lượng; khôn khéo, trí tuệ, thông minh, sáng tạo, hăng hái, anh hùng, dũng cảm, cần cù. Đó là sức mạnh chúng ta có thể nhìn thấy. Còn một nguồn “sức mạnh mềm” tiềm ẩn bên trong có ý nghĩa nền tảng, động lực, tiền đề của những sức mạnh trên, đó là lòng tốt, lòng trung thành của nhân dân. Lòng dân là sức mạnh vô biên, vô địch, có ý nghĩa quyết định thành bại của cách mạng. Bác viết “dân rất tốt”. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Cán bộ, đảng viên phải ghi tạc vào đầu cái chân lý ấy. Nếu cán bộ, đảng viên có tâm trong sáng, chính trực, biết nuôi dưỡng, vun bồi, khơi dậy lòng tốt của dân - tuyệt đối không được lạm dụng, lợi dụng lòng tốt đó - thì dân sẽ ủng hộ, giúp đỡ ta. Nói với Công an nhân dân, Bác chỉ rõ ta được lòng dân thì không sợ gì cả. Nếu không được lòng dân thì không thể làm tốt công tác. Nói về Chính phủ lo phấn đấu cho lợi ích của nhân dân nên nhân dân hăng hái, hoàn toàn tin tưởng và nhiệt liệt ủng hộ Chính phủ, Bác kết luận: “Được lòng dân, thì việc gì cũng làm được; trái ý dân thì chạy ngược chạy xuôi”.
Khi Bác nói “nước lấy dân làm gốc”, “dân là gốc” cần được hiểu lõi cốt của gốc là lòng dân. Việc gì đúng với nguyện vọng và hợp lòng dân thì được quần chúng ủng hộ và hăng hái đấu tranh. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thành công hoàn toàn.
2. Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, ngay khi bước vào sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm đầu tiên là trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2021), nghị quyết các Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, XIII nhấn mạnh sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, quan liêu, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Trong thời gian gần đây, Tổng Bí thư Đảng ta trăn trở nhiều về hai chữ “lòng dân” bởi nó liên quan tới vận mệnh của Đảng, của Tổ quốc, dân tộc và chế độ. Ông viết: “Cần khẳng định, ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả” (Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội, 2019, tr.80). Từ đó, ông nhấn mạnh: “Phải biết dựa vào dân, lắng nghe dân, cái gì mà quần chúng nhân dân hoan nghênh, ủng hộ thì chúng ta phải quyết tâm làm và làm cho bằng được; ngược lại, cái gì nhân dân không đồng tình, thậm chí căm ghét, phản đối thì chúng ta phải cương quyết ngăn ngừa, uốn nắn và xử lý nghiêm các sai phạm” (Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Sđd, tr.116-117). Gần đây, khi bàn về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, người đứng đầu Đảng ta suy nghĩ nhiều về các giải pháp thúc đẩy công cuộc đổi mới. Cùng với việc chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, ông nhấn mạnh hai nhân tố có ý nghĩa quyết định. Đó là cùng với việc xác định chủ trương, đường lối đúng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII rút ra một số bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó bài học thứ hai có tinh thần, nội dung cốt lõi là lòng dân, sức dân, niềm tin của nhân dân. Đảng ta khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ yêu cầu, nguyện vọng, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Trở lại với tư tưởng Hồ Chí Minh khi Người viết Di chúc được coi như cương lĩnh xây dựng đất nước sau chiến tranh theo tinh thần đổi mới (quốc bảo). Theo Bác, xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn là một nhiệm vụ hết sức to lớn, nặng nề và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này, cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn cho thấy chỉ có dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân, làm hợp lòng dân thì mới đi tới thắng lợi hoàn toàn./.

LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI, HỦY HOẠI NIỀM TIN VÀ SỨC MẠNH CHIẾN THẮNG CỦA QUÂN VÀ DÂN TA

 Tái diễn “thuyết kỹ trị” và tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí luận

Gần đây, một số người mượn cái cớ cuộc xung đột quân sự ở Nga – Ucraina đang diễn ra ác liệt, chưa thể đi đến đàm phán hòa bình bởi các nước NATO tiếp tục gửi vũ khí công nghệ cao đến Ucraina…, để phục hồi “thuyết kỹ trị”, tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí luận; coi nhẹ nhân tố con người. Họ cho rằng, một nước nhỏ có thể chống lại một nước lớn nếu có vũ khí công nghệ cao, rồi kết luận: ngày nay thắng hay thua trên chiến trường là do vũ khí công nghệ cao quyết định.
Trên mạng xã hội lại rộ lên các tin đồn: một số quốc gia NATO và phương Tây đã tuyên bố sẽ gửi vũ khí công nghệ cao đến Ucraina. Đáp lại, Nga cũng tuyên bố sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân cấp chiến thuật để tự vệ nếu chủ quyền quốc gia bị đe dọa, v,v.. Tình hình trên làm cho cuộc xung đột quân sự Nga – Ucraina và châu Âu thêm nóng.
Lợi dụng tình thế này, ở nước ta, không ít người đã cầu mong Việt Nam sớm “có vũ khí hạt nhân”, “vũ khí công nghệ cao”. Từ đó, họ đưa ra quan điểm sai trái: phủ nhận sự cần thiết phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố thế trận chiến tranh nhân dân và xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Đằng sau luận điểm sai trái này là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, an ninh nhân dân; phủ nhận vai trò của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; phủ nhận vai trò của Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an; phủ nhận sự đoàn kết, thống nhất ý cao của khối đại đoàn kết dân tộc, ý Đảng – lòng Dân ở nước ta.
Quan điểm này cho rằng để bảo vệ Tổ quốc, Đảng, Nhà nước không cần phải chi nhiều tiền của, công sức cho xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” cũng như các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố, vì như thế là “dàn trải”, “không phù hợp”, “không có sức mạnh để chế áp vũ khí công nghệ cao”, “làm cho đất nước suy yếu”. Họ nêu các yêu sách đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta dùng các khoản ngân sách chi cho quốc phòng, an ninh để mua sắm mới vũ khí công nghệ cao nhằm răn đe kẻ thù nếu có âm mưu xâm lược nước ta. Họ đã tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao, hạ thấp vai trò của con người; không thấy rõ mối quan hệ biện chứng giữa con người và vũ khí; tác dụng, giá trị và ý nghĩa của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; củng cố thế trận chiến tranh nhân dân và “thế trận lòng dân” ở nước ta.
Mong muốn có vũ khí công nghệ cao để bảo vệ vững chắc Tổ quốc là điều tốt nhưng không phải cứ muốn là làm ngay được. Hơn thế, suy xét đến cùng, vũ khí công nghệ cao dù hiện đại đến đâu, có sức mạnh đến mấy vẫn phải do con người sử dụng nó. Do đó, con người mới là nhân tố quyết định mọi thắng lợi, còn vũ khí, trang bị tốt sẽ chỉ góp phần nâng cao hiệu quả tác chiến; nó không thể quyết định thắng lợi; không thể thay thế vai trò của con người.
Ai đó mong muốn Việt Nam có ngay vũ khí công nghệ cao lúc này là ảo tưởng, là ước mơ hảo huyền; phi thực tế, bởi điều kiện kinh tế – xã hội và tiềm lực quân sự – quốc phòng – an ninh của nước ta chưa cho phép. Hơn thế, đưa ra yêu sách, các quan điểm sai trái rồi phê phán Đảng, Nhà nước ta “không quan tâm chăm lo mua sắm vũ khí công nghệ cao”…, là sai lầm, không thể chấp nhận.
Chiến thắng bằng bản lĩnh, trí tuệ, niềm tin và lòng dân, ý Đảng
Thực tế chứng minh rằng, khi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, nhân dân ta chỉ có các loại vũ khí thô sơ; hơn thế, chúng ta chỉ có “gan vàng, dạ sắt” nhưng bằng bản lĩnh và trí tuệ của mình; cả nước chung sức đồng lòng, đồng tâm hợp lực đánh giặc, chúng ta đã mưu trí, sáng tạo trong chiến đấu và chiến thắng mọi kẻ thù hung bạo, có “quân hùng tướng mạnh”, vũ khí tối tân, hiện đại; tiềm lực quân sự lớn mạnh hơn chúng ta gấp nhiều lần. Điều đó chứng minh rằng, bằng đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân và chiến tranh du kích, quân và dân ta đã tạo ra sức mạnh nội sinh vô cùng mạnh mẽ để chiến thắng quân xâm lược. Quan điểm tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí, phủ nhận sức mạnh của con người là hoàn toàn sai trái. Hậu duệ của những sai lầm ấy muốn lặp lại quan điểm sai lầm của các bậc tiền bối là điều đáng trách; tôn thờ thuyết “kỹ trị” đáng bị phê phán, loại bỏ.
Trước đây đã như vậy và trong tương lai vẫn sẽ là như vậy, chúng ta vẫn phải sử dụng các loại vũ khí, trang bị quân sự có trong biên chế để chiến đấu và chiến thắng kẻ thù. Vũ khí tinh thần sắc bén và trang bị quân sự hữu dụng do nhân dân ta nghiên cứu, tạo ra là kết quả của quá trình xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng “thế trận lòng dân” mang lại, chẳng có lý do gì để “niêm cất”, “không sử dụng” các giá trị đã được khẳng định. Nguồn sức mạnh chỉ có thể có được khi chúng ta có niềm tin chiến thắng, biết tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” với các quy trình, quy chuẩn mới, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ tác chiến mới, trong điều kiện kẻ thù sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Ai đó cho rằng Việt Nam chỉ có thể bảo vệ vững chắc Tổ quốc chỉ khi có vũ khí công nghệ cao, nhất là có vũ khí mang đầu đạn hạt nhân như nước này, nước kia là chưa thực tế, không phù hợp. Ta là ta, ta không phải là bạn. Điều kiện kinh tế – xã hội, quốc phòng – an ninh của nước ta khác với nước họ. Quan điểm cho rằng “Việt Nam phải mua ngay vũ khí hạt nhân” để đối phó với chiến tranh công nghệ cao (nếu nó xảy ra) là hoàn toàn không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của nước ta hiện nay. Những người có quan điểm này đã rơi vào phương pháp tư duy siêu hình; tự mình cô lập mình. Dù vô tình hay hữu ý, họ đã tước đi sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”.
Hơn ai hết, chúng ta hiểu rằng, trong điều kiện chiến trường rộng lớn, vũ khí công nghệ cao không đủ để tấn công tất cả các mục tiêu, mọi địa điểm, mọi địa hình, cản phá sức mạnh của nhân dân ta. Điều quan trọng là, trong điều kiện tác chiến và địa hình của nước ta, nếu chỉ bị phá hoại một số trọng điểm, mục tiêu thì chưa thể mất nước. Hơn thế, vũ khí công nghệ cao chỉ có thể áp dụng thành công ở một số chiến trường ở phương Tây, còn áp dụng ở Việt Nam và khuất phục ý chí, tinh thần của quân và dân ta, là do chúng ta quyết định.
Mặt khác, trong các hình thái chiến tranh, nếu quân địch tiến công trên bộ thì đó sẽ là điều kiện thuận lợi để chúng ta phát huy thế mạnh của nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích để tiêu diệt địch. Đây là ưu thế, sức mạnh vốn có của chúng ta, vì nó tạo ra sức mạnh tổng hợp, có sức đề kháng cao; có khả năng ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh hiệu quả nhất, kể cả chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệcao.
Những người có quan điểm đối lập với đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân của Đảng, Nhà nước ta đều biết rõ, chiến tranh dưới mọi hình thức đều gây ra những thiệt hại to lớn về người và tài sản; ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định chính trị, môi trường hòa bình và cuộc sống hạnh phúc của nhân dân. Vì vậy, giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình; không để xảy ra và không phải đối phó với chiến tranh là phương án tối ưu, thượng sách giữ nước. Cho nên, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” là một kế sách giữ nước từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy; cớ sao lại phủ nhận nó; cớ sao sao phải nêu yêu sách đòi Đảng, Nhà nước phải mua sắm vũ khí hạt nhân khi điều kiện chưa cho phép.
Quan điểm sai trái cổ suy cho “hạt nhân hóa Việt Nam”; coi nhẹ, phủ nhận vai trò của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”, tiến tới phủ nhận vai trò nòng cốt của Quân đội và Công an trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân là phi lý, cần phải bác bỏ.
Những người này đã không hiểu giá trị, ý nghĩa và tác dụng của việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” là thiếu niềm tin vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; là quan điểm “ăn sổi ở thì”; không nhìn thấy sự cần thiết phải xây dựng toàn diện cả tiềm lực, thế trận, lực lượng do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ, làm chủ; là sự lựa chọn tối ưu nhất đối của quân và dân ta. Đây là cơ sở lý luận – thực tiễn vững chắc để bác bỏ quan điểm lệch lạc, sai trái khi tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao; phủ nhận vai trò của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng “thế trận lòng dân”; phủ nhận sức mạnh của nhân tố chính trị – tinh thần của nhân dân ta.
Rõ ràng là, lấy một quan điểm sai trái để xuyên tạc chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng, cản trở việc quy tụ, tập hợp và phát huy thế mạnh, sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” là sai lầm nghiêm trọng, cần phải vạch trần, phê phán và trấn chỉnh.
Kiên định vào chủ trương, đường lối đúng, kế sách hay
Phát huy thế mạnh của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” là phương thức hữu dụng, làm cho kẻ địch có vũ khí công nghệ cao phải khiếp sợ, kinh hoàng; mất niềm tin; không thể sử dụng hiệu quả vũ khí công nghệ cao. Hơn thế, trong chiến tranh nhân dân, quân và dân ta có thể làm thay đổi quy luật, làm biến dạng địa hình, di chuyển, dịch chuyển, làm mục tiêu giả, tổ chức hệ thống phòng không nhân dân rộng khắp, có thể tiêu diệt được các loại máy bay mang vũ khí công nghệ cao, tên lửa hành trình của địch; giành thế chủ động trên chiến trường và chiến thắng.
Những người nhận thức sai trái về sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân”; tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao nhưng họ không hiểu hạn chế của nó, nhất là giới hạn không thể vượt qua của nó khi họ không thể tiến công, phá hủy, xâm chiếm tất cả các mục tiêu trên khắp dải đất hình chữ S của Việt Nam.
Vì vậy, đấu tranh phản bác, vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn và các hành vi đề cao “thuyết kỹ trị” và vũ khí công nghệ cao; phủ nhận vai trò của nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tình hình mới.
Việc tuyệt đối hóa vai trò của vũ khí công nghệ cao sẽ tạo ra tâm lý ỷ nại vào kỹ thuật, công nghệ, dẫn đến việc sao nhãng yếu tố chính trị – tinh thần; lo ngại, sợ sệt, thiếu tự tin, bi quan, giảm sút ý chí chiến đấu. Nhận thức sai trái sẽ dẫn đến hành vi phủ nhận chủ trương, đường lối chính trị – quân sự của Đảng ta; ca ngợi không công cho địch, nhất là sức mạnh vũ khí công nghệ cao mà kẻ thù sử dụng chống chúng ta, làm cho tâm lý “sùng ngoại”, phụ thuộc vào phương Tây lan tràn. Đây là “khe hở”, nuôi dưỡng, làm nảy nở âm mưu chống cộng, dẫn đến thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội và công an, chúng ta phải hết sức đề cao cảnh giác; không mắc mưu địch.
Nếu coi thường, từ bỏ chủ trương, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân; xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” và các khu vực phòng thủ, chúng ta sẽ đánh mất ưu thế, sức mạnh của riêng mình. Điều đó trái với bản chất truyền thống cách mạng, không phát huy được nhân tố chính trị – tinh thần của quân và dân ta.
Đó là cơ sở quan trọng để bác bỏ quan điểm sai trái đang tán phát, lan truyền trên mạng xã hội, khi cho rằng “trong điều kiện tác chiến bằng vũ khí công nghệ cao, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân và xây dựng “thế trận lòng dân” là không cần thiết”, rất cần phải đấu tranh, phản bác; không để quan điểm sai trái này tràn lan, lây nhiễm, gây hại cho xã hội ta. Tuyệt đối không để quan điểm sai trái này gây bệnh, nảy mầm, thúc đẩy việc thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang; “phi Đảng Cộng sản hóa” Nhà nước và các hoạt động chính trị – xã hội khác./.

Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là vấn đề xuyên suốt, tiền đề để quân đội tiến lên hiện đại

Đó là sự vận dụng sáng tạo quan điểm Chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa chính trị và quân sự, con người và vũ khí, trang bị vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, tiếp thu di sản tư tưởng quân sự của dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh để xác định đúng đắn quan điểm, đường lối, chủ trương xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, từng bước tiến lên hiện đại.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thì sức mạnh chiến đấu của quân đội là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó chính trị-tinh thần là yếu tố có vai trò quyết định. V.I.Lênin đã khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của các quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề hàng đầu đối với lực lượng vũ trang cách mạng là phải có “con đường chính trị đúng”. Người đã chỉ rõ: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(2) và “phải tăng cường công tác chính trị, luôn luôn nâng cao trình độ chính trị và giác ngộ giai cấp của bộ đội ta”(3); đồng thời: “Trong việc chỉnh huấn bộ đội, phải lấy chính trị làm gốc”(4), như vậy mới bảo đảm cho Quân đội ta thực sự là quân đội cách mạng, từng bước vững chắc tiến lên chính quy, hiện đại, một quân đội bách chiến bách  thắng. Thực tiễn quá trình xây dựng, trưởng thành, chiến đấu và chiến thắng của QĐND Việt Nam trong gần 80 năm qua đã khẳng định tính đúng đắn của việc xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị.

Hiện nay và trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp quốc gia, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi chúng ta phải nắm vững xu thế khách quan, phải có sự đổi mới và phát triển về nội dung, phương thức xây dựng quân đội phù hợp trên nền tảng của tư duy mới về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong điều kiện mới; phù hợp với khả năng thực tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Xây dựng QĐND, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”.

Tiến lên hiện đại là đòi hỏi tất yếu, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của QĐND Việt Nam đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống, bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, không bị động, bất ngờ. Tuy nhiên, Quân đội ta tiến lên hiện đại phải được bắt đầu từ xây dựng vững mạnh về chính trị, quân đội phải thực sự tinh nhuệ về chính trị, bảo đảm chắc chắn trong bất cứ hoàn cảnh nào, QĐND Việt Nam cũng tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH); nắm vững và chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; biết phát huy sức mạnh của vũ khí, trang bị hiện đại để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.

Theo đó, cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị các cấp cần lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ, sâu sát việc kết hợp giữa xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh về chính trị với chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa. Tích cực, chủ động đấu tranh chống mọi biểu hiện cơ hội, những quan điểm sai trái, tiêu cực, bảo vệ bản chất cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới, đường lối xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội tiến lên hiện đại của Đảng. Đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh, vạch trần bản chất âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch; nâng cao trình độ nhận thức, bản lĩnh chính trị, củng cố lòng tin của cán bộ, chiến sĩ quân đội vào sự lãnh đạo của Đảng; tăng cường khả năng miễn dịch, sức đề kháng của cán bộ, chiến sĩ trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng chủ quan, mơ hồ, mất cảnh giác, hoài nghi, dao động trong quá trình xây dựng QĐND Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại.

Thời gian qua, các thế lực thù địch luôn xem thanh niên là đối tượng đặc biệt để thực hiện thủ đoạn “diễn biến hòa bình”.

Lợi dụng tâm lý thích thể hiện, dễ tiếp cận cái mới, thích tự do, khẳng định mình, nhận thức các vấn đề chính trị - xã hội còn hạn chế…, các đối tượng xấu luôn tìm mọi cách để lôi kéo, kích động, hướng lái người trẻ vào các hoạt động chống phá và vi phạm pháp luật.

Thủ đoạn các thế lực thù địch tập trung hướng vào giới trẻ, các tầng lớp thanh niên hiện nay chủ yếu như: hỗ trợ học bổng, tài trợ kinh phí từ các tổ chức phi chính phủ (NGO) để lôi kéo, tập hợp và phát triển lực lượng trong các tầng lớp thanh niên nhằm đào tạo các đối tượng này tiếp cận với những “giá trị” phương Tây, đặc biệt là truyền bá phương thức xây dựng “Xã hội dân sự” tại Việt Nam với mục địch làm đổi chế độ chính trị ở Việt Nam trong tương lai.

Những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chế độ, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, hạ thấp uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước… đã dần hình thành nên những tư tưởng bất mãn, chống đối trong một số người trẻ thiếu bản lĩnh chính trị, nhận thức còn hạn chế, cho nên hậu quả là một số bạn trẻ đã mắc mưu, “sập bẫy”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có những hành động sai trái như: cố xúy cho những người vi phạm pháp luật, tham gia vào các cuộc tụ tập đông khi xuất hiện các điểm nóng…, đặc biệt là có những phát ngôn “lệch chuẩn”, “loạn chuẩn” trên mạng xã hội gây tâm lý hoài nghi trong Nhân dân.

Thời gian qua, lợi dụng những bất ổn trong khu vực, đặc biệt là những căng thẳng về chính trị đang leo thang tại Myanmar, các đối tượng phản động, chống đối, cơ hội chính trị luôn tìm cách móc nối, xuyên tạc với nhiều thanh niên trong nước, đặc biệt là những thanh niên thiếu bản lĩnh và nghề nghiệp không ổn định để truyền bá những tư tưởng lệch lạc như: thanh niên, giới trẻ Việt Nam không có tinh thần đấu tranh “vì dân chủ”, “thờ ơ, vô cảm trước thời cuộc”, “thanh niên không dám hành động, không dám xả thân vì lý tưởng”, “Cảm phục những chiến binh trẻ tuổi của Myanmar trong những cuộc biểu tình tại Miến Điện”, “nhìn vào người trẻ tại Myanmar mà thấy thèm”, “giá như người trẻ Việt cũng dũng cảm ra đường như người trẻ tại Myanmar”…

Rõ ràng, cái đích mà những kẻ này hướng đến là lôi kéo người trẻ vào các hoạt động chống phá nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, chống phá Việt Nam.

Có thể nói, thủ đoạn công kích, lợi dụng và chiêu trò lôi kéo người Việt trẻ tham gia vào những hoạt động gây rối, chống đối, phá hoại, adua… là thủ đoạn chính trị hết sức nguy hiểm, đặc biệt trên không gian mạng “nấm độc thông tin” luôn là thứ “mồi nhử” mà các phần tử xấu tìm cánh để tấn công vào đối tượng thanh niên.

Thời gian tới, lợi dụng việc tổ chức bầu cử Đại biểu quốc hội khóa XV và bầu cử HDND các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026 trên địa bàn, các thế lực thù địch sẽ tìm mọi cách để thực hiện các chiến dịch công kích, chống phá chế độ nhất việc kêu gọi người dân “không biết, không bầu” nhằm cổ vũ cho chủ nghĩa tự do vô chính phủ và chủ nghĩa dân túy. Mục đích là để tẩy chay vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, xóa bỏ nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Chính vì vậy, điều quan trọng là người dân, thế hệ trẻ cần nhận diện rõ các âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đặc biệt là hoạt động lôi kéo, kích động trên không gian mạng, từ đó chủ động xây dựng “hệ miễn dịch”, nâng cao khả năng “tự đề kháng”, tự bảo vệ chính mình trước các thông tin sai trái, xuyên tạc của các phần tử bất mãn, chống đối.

Mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên cần tuân thủ kỷ luật phát ngôn, không sử dụng mạng xã hội để khai thác, tuyên truyền các thông tin chưa được kiểm chứng, phiến diện, một chiều; trách nhiệm khi nhấn nút like - share; thể hiện quan điểm khi bình luận với thông tin sai trái; thực hiện nghiêm 19 điều đảng viên không được làm, để cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội để phát triển đất nước.

Thông điệp truyền thông chính sách là vấn đề cần được quan tâm và chú trọng

 


Thông qua một số nghiên cứu của học giả trên thế giới có thể nhận thấy rằng thông điệp truyền thông chính sách là vấn đề rất được quan tâm và chú trọng trong quá trình thực hiện truyền thông chính sách. Để công tác truyền thông chính sách đạt được hiệu quả, thông điệp cần truyền đạt phải rõ ràng trong tâm trí người giao tiếp vì nếu không hiểu được ý tưởng, không bao giờ có thể truyền đạt nó cho người khác.

Thông điệp truyền thông chính sách cần đầy đủ và phù hợp với mục đích giao tiếp. Để tránh các rào cản ngữ nghĩa, thông điệp truyền thông chính sách cần được truyền tải bằng ngôn ngữ dễ dàng, ngắn gọn và dễ hiểu. Các biểu thức hoặc dấu hiệu được chọn để truyền đạt thông điệp truyền thông chính sách phải phù hợp với sự tham khảo và hiểu biết của người nhận. Cấu trúc của thông điệp truyền thông chính sách phải hợp lý và phù hợp với yêu cầu của tổ chức.

Thông điệp truyền thông chính sách ảnh hưởng đến sự đồng thuận của người dùng thông tin chính sách

 


Có sự đồng thuận giữa những người dùng thông tin do tác động của độ tin cậy từ thông điệp truyền thông chính sách và nguồn thông tin bài đăng. Thông điệp truyền thông chính sách ảnh hưởng đến mức độ phổ biến của bài đăng nhờ sự phản ánh độ tin cậy của nó. Độ tin cậy của thông điệp truyền thông chính sách cao có xu hướng gợi ra những suy nghĩ có lợi hơn so với các thông điệp truyền thông chính sách ít đáng tin cậy hơn, dẫn đến các phản ứng nhạy cảm ít hơn.

Thông điệp truyền thông chính sách là tác nhân quan trọng trong việc thay đổi ý tưởng, niềm tin, thái độ và hành vi của những người theo dõi thông tin. Theo nghĩa này, nếu người dùng thông tin nhận thấy rằng thông điệp truyền thông chính sách là đáng tin cậy, họ có xu hướng có nhiều tình cảm hơn đối với các bài đăng. Sự phổ biến bài đăng gợi lên phản ứng đồng cảm giữa những người dùng thông tin. Sự đồng cảm của người dùng thông tin liên quan đến tính trung thực của thông điệp truyền thông chính sách. Chất lượng thông điệp truyền thông chính sách tồn tại dưới dạng hình ảnh và video cùng với vẻ ngoài thẩm mỹ được định hình bởi âm thanh, âm nhạc, màu sắc và hình ảnh được sử dụng tác động đến sự hấp dẫn của bài. Âm nhạc được coi là một tín hiệu ngoại vi tiềm năng được sử dụng để khơi dậy tích cực trạng thái cảm xúc của người tiêu dùng.

Alpert & Alpert (1990) và Maclnnis & Park (1991) cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng sự hòa hợp giữa âm nhạc và bài đăng dẫn đến phản ứng cảm xúc tích cực. Freedberg (2007) nhấn mạnh hiệu ứng ảnh hưởng của hình ảnh đối với phản ứng cảm xúc của các cá nhân người sử dụng thông tin. Các bài đăng có thông điệp truyền thông chính sách tồn tại dưới dạng ảnh đẹp, ấn tượng, có thêm nhạc làm mới màu sắc dẫn đến sự đồng cảm của người sử dụng thông tin. Thông điệp truyền thông chính sách tồn tại dưới các hình thức khác nhau một cách phù hợp là chất kích thích nhận thức về trạng thái cảm xúc của độc giả khi đọc bài đăng.

Thông điệp truyền thông chính sách ảnh hưởng đến chất lượng tranh luận, phản hồi đối với bài đăng của người dùng thông tin chính sách

 


Chất lượng tranh luận của người đọc liên quan đến sự thuyết phục của các yếu tố được nhúng vào trong bài đăng, trong đó có thông điệp truyền thông chính sách (Bhattacherjee & Sanford, 2006). Petty & Cacioppo (1986) cho rằng chất lượng thông điệp truyền thông chính sách là thuộc tính tạo ra những phản hồi tích cực hoặc tiêu cực chiếm đa số từ độc giả.

Nếu thông điệp truyền thông chính sách không mang tính thuyết phục, người đọc có khả năng bị lệch hướng trong đánh giá bài đăng. Thông điệp truyền thông chính sách ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức và tư duy được xem là thành phần chính gây nên sự cảm thông của người đọc đối với bài đăng. Người dùng thông tin tự nguyện phát triển sự đồng cảm với các thông điệp truyền thông chính sách được đề cập trong bài đăng qua xã hội của thông tin đa chiều.

Theo nghĩa này, người dùng thông tin phát triển sự đồng cảm về bài đăng nếu các thuộc tính của thông điệp truyền thông chính sách và chất lượng bài đăng có thể giúp họ phát triển các cảm xúc trải nghiệm tích cực (Escalas & Stern, 2013).

Thông điệp truyền thông chính sách làm thay đổi thái độ của người tiếp nhận truyền thông chính sách

 

 


Thông điệp truyền thông chính sách tác động rất lớn đến cảm xúc, nhận thức của người tiếp nhận truyền thông, dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hành vi, thói quen và đặc biệt là cách thức tương tác với nhau giữa các chủ thể truyền thông. Truyền thông đang tạo ra quá trình xã hội hóa người dùng nên thông điệp truyền thông chính sách này càng tác động lớn đến sự khuếch tán nội dung truyền thông.

Thông điệp truyền thông chính sách thuyết phục phải có ba thuộc tính, đó là chất lượng thuộc tính (phản hồi), mức độ phổ biến và tính hấp dẫn của bài đăng. Chất lượng thuộc tính đề cập sức thuyết phục của các phản hồi nội dung bài đăng. Sự phổ biến của bài đăng đề cập đến số lượng phản hồi mà bài đăng nhận được, nghĩa là số lượt thích, chia sẻ (hoặc đăng lại) và bình luận. Sức hấp dẫn của bài viết đề cập đến mức độ người nhận cảm nhận bài đăng là đáng ngưỡng mộ và hấp dẫn (Chang, Yu và Lu, 2015).

Các nhà nghiên cứu như Moreno & Whitehill (2016) cho rằng, thông điệp truyền thông chính sách tương tác với người dùng, thiết lập cộng đồng giao tiếp với thông điệp truyền thông chính sách của họ và xây dựng uy tín và uy tín thông điệp truyền thông chính sách. Hơn nữa, qua thông điệp truyền thông chính sách mà cá nhân có thể tăng thêm giá trị cho các tổ chức bằng cách tham gia tương tác với những người khác khi thông điệp truyền thông chính sách được ủng hộ trên các nền tảng truyền thông xã hội và ảnh hưởng đến hành vi người dùng thông qua tiếp thị.

Chuẩn mực đạo đức và truyền thống văn hoá trong công việc của cán bộ

      Chuẩn mực đạo đức cách mạng hiện nay của cán bộ, đảng viên đối với công việc phải được xây dựng trên cơ sở kế thừa văn hóa truyền thống của dân tộc, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa văn hóa đạo đức của thời đại mở cửa, hội nhập quốc tế.

Thông điệp truyền thông chính sách tạo cảm giác tích cực của người sử dụng thông tin chính sách

 

 


Teng et. al. (2014) đã chỉ ra tầm quan trọng của việc sử dụng thông điệp truyền thông chính sách trong các nghiên cứu truyền thông xã hội và về mặt lý thuyết. Hầu hết các nghiên cứu xác nhận thông điệp truyền thông chính sách có thể mang lại cảm giác tích cực hoặc tiêu cực. Truyền thông với thông điệp truyền thông chính sách phù hợp mang lại cảm giác tích cực về hình ảnh của cá nhân và tổ chức sử dụng thông tin, lòng trung thành của người dùng thông tin. Thông điệp truyền thông chính sách mang lại cảm giác tích cực khi nó bảo đảm tính thuyết phục và hữu ích, nhất là tạo ra sự thay đổi hành vi của đối tượng truyền thông.

Chang et. al. (2015) đã sử dụng lý thuyết thông điệp truyền thông chính sách để khám phá sự gắn kết trong các nhóm xã hội. Các tác giả lưu ý rằng, thông điệp truyền thông chính sách thuyết phục có ảnh hưởng tích cực đến người dùng trong chia sẻ nội dung truyền thông chính sách trong các ngữ cảnh truyền thông khác nhau.

Thông điệp truyền thông chính sách liên quan trực tiếp đến các quá trình truyền thông và tác động đến nhận thức và hành vi của cá nhân. Thông điệp truyền thông chính sách mang đến cho các tổ chức công những cơ hội tiếp cận các đối tượng liên quan để tìm cách thay đổi thái độ của họ bằng cách truyền thông điệp truyền thông chính sách thuyết phục trong bối cảnh truyền thông xã hội. Thông điệp truyền thông chính sách có khả năng mang lại cảm xúc tích cực có tính thuyết phục phổ biến và hữu ích nhất trong tâm lý của đối tượng truyền thông. Đặc biệt là thông điệp truyền thông chính sách thuyết phục, hội tụ đầy đủ ba thuộc tính, đó là chất lượng thuộc tính (phản hồi), mức độ phổ biến và tính hấp dẫn của bài đăng.

 

Truyền thông chính sách

 

 


Truyền thông chính sách đóng vai trò quan trọng đối với mỗi khâu của chu trình chính sách công. Sự tham gia của truyền thông chính sách một mặt đảm bảo sự thành công của chính sách, mặt khác giúp cho chính sách ngày một được hoàn thiện hơn. Walsh (1994) trong bài viết “Marketing and Public Sector Management” (Tiếp thị và quản lý khu vực công) đăng trên Tạp chí Tiếp thị châu Âu cho rằng, truyền thông chính sách là các kỹ thuật lập kế hoạch và tiếp thị chiến lược giúp đỡ trong việc bán chính sách của chính phủ cho người dân. Trong một nghiên cứu khác mang tên “Public policy marketing: marketing exchange in the public sector” (Tiếp thị chính sách trong khu vực công) cùng đăng trên Tạp chí Tiếp thị châu Âu, Burma (2001) cho rằng, truyền thông chính sách là một phần hành động của chính phủ để thực hiện một chính sách cụ thể.

Truyền thông chính sách là quá trình giúp các cơ quan nhà nước đưa thông tin đến người dân về các vấn đề mà nhà nước đang đối diện, thuyết phục công chúng thay đổi nhận thức và hành động đúng pháp luật. Nhà nước cũng thông qua truyền thông chính sách để thăm dò lấy ý kiến của dư luận trước khi xây dựng chính sách mới, điều chỉnh các chính sách và tạo ra sự đồng thuận cao trong dân chúng. Qua đó có thể thấy, truyền thông chính sách là quá trình chia sẻ thông tin về một chính sách cụ thể của chính phủ đến người dân nhằm thu hút người dân và các bên liên quan vào quy trình chính sách, từ đó tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của công chúng để đạt được mục tiêu chính sách. Trên góc độ kỹ thuật, truyền thông trải qua quy trình gồm các giai đoạn: nguồn, mã hóa, kênh, giải mã, người nhận, phản hồi và bối cảnh. Nguồn là người gửi thông điệp - “thông điệp” đề cập thông tin và ý tưởng muốn cung cấp. Mã hóa là giai đoạn liên quan đến việc đưa thông điệp vào một định dạng cụ thể. Kênh là phương thức liên lạc bằng lời nói, truyền hình, văn bản. Giải mã là kỹ thuật mã hóa để hiểu thông điệp. Nhận là giai đoạn thông điệp đến đích.

Mỗi người nhận tham gia vào quá trình truyền thông với ý tưởng và cảm xúc của riêng họ, điều này ảnh hưởng đến sự hiểu biết của họ về thông điệp và phản hồi của họ đối với nó. Phản hồi là sự phản ứng của những người nhận và sử dụng, đánh giá thông điệp và thông tin bài viết. Bối cảnh là tình huống gửi thông điệp. Điều này có thể bao gồm môi trường chính trị và xã hội hiện tại hoặc văn hóa rộng lớn hơn (Adler, Rosenfeld, & Towne, 1996).

Trải qua các giai đoạn lịch sử, truyền thông chính sách sử dụng nhiều mô hình nghiên cứu khác nhau như: Mô hình “mũi kim tiêm” hay còn gọi là lý thuyết “viên đạn ma thuật” với hạn chế là chưa có sự tham gia của công chúng vào quá trình truyền thông; sau này vấn đề đó được bổ sung, hoàn thiện hơn bằng mô hình nghiên cứu quy trình thông tin của Shannon (1948) hay mô hình “dòng chảy hai bước” đầu tiên được giới thiệu bởi nhà xã hội học Paul Lazarsfeld vào năm 1944 và được xây dựng bởi Elihu Katz và Lazarsfeld vào năm 1955. Dù là mô hình nào đi chăng nữa, một thực tế không thể phủ nhận là thông điệp vẫn luôn là yếu tố cốt yếu, không thể thiếu trong quy trình truyền thông chính sách ở mỗi quốc gia.

Trong truyền thông, thông điệp được hiểu là một phát ngôn hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức dành cho một nhóm đối tượng trong hoàn cảnh cụ thể nhằm hướng tới mục tiêu của chiến dịch truyền thông. Do đó, chúng ta có thể chấp nhận nội hàm khái niệm thông điệp truyền thông chính sách là một phát ngôn hoàn chỉnh cả về nội dung lẫn hình thức về chính sách dành cho một nhóm đối tượng trong hoàn cảnh cụ thể nhằm hướng tới mục tiêu của chiến dịch truyền thông của chính phủ hoặc các cơ quan có chức năng truyền thông chính sách.

 

Nội dung cốt lõi trong công tác tuyên truyền

Hiện nay, trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước và trên thế giới, các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền… kích động đồng bào tham gia các hoạt động gây rối, phá hoại về ANTT, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Trong khi đó, không ít người dân, nhất là người đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kon Tum còn mơ hồ, mất cảnh giác chưa nhận thức rõ âm mưu, ý đồ của kẻ địch và những phần tử xấu. Vì vậy, nhiệm vụ của công tác tuyên truyền là củng cố được niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; đồng thời vạch trần những âm mưu, thủ đoạn mị dân, chống phá của kẻ thù để dân biết, dân không tin, không theo.


Nội dung cốt lõi trong công tác tuyên truyền là đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật cho Nhân dân; tuyên truyền làm cho đồng bào hiểu rõ âm mưu, hoạt động và bản chất xấu xa của các thế lực thù địch và phần tử xấu. Cụ thể hơn, đó là tuyên truyền giáo dục về chính sách đại đoàn kết dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, những thành tựu đạt được của địa phương, đất nước trên các lĩnh vực, âm mưu thủ đoạn của địch lợi dụng tôn giáo, lợi dụng dân tộc thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”; làm cho quần chúng phân biệt rõ tín ngưỡng tôn giáo với hành vi lợi dụng tôn giáo; phân biệt đúng - sai, phát hiện và đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng vấn đề dân tộc đi ngược lại lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc; tuyên truyền, vận động đồng bào không tin, không nghe theo lời tuyên truyền, kích động, lừa bịp của FULRO, không theo “tà đạo Hà Mòn” và các hình thức hoạt động tôn giáo trá hình, trái phép... Đi đôi với công tác tuyên truyền, phải thường xuyên nắm vững tâm tư diễn biến tình cảm, nguyện vọng của Nhân dân để tham mưu cho cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, ban, ngành chức năng giải quyết những nhu cầu chính đáng về đời sống, nhất là những hoạt động văn hóa, tôn giáo theo đúng pháp luật.


Cùng với đó, đổi mới và nâng cao chất lượng, tính hiệu quả về nội dung, phương pháp, hình thức tuyên truyền cho sát hợp với đặc điểm tình hình từng vùng, từng địa bàn dân cư, phù hợp với trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Nội dung tuyên truyền phải xây dựng theo hướng ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, không hàn lâm, trừu tượng. Hình thức tuyên truyền đa dạng: Báo, Đài và các binh chủng tuyên truyền có thể xây dựng thêm các chuyên trang, chuyên mục; thực hiện công tác tuyên truyền vào thời điểm phù hợp với đặc tính sinh hoạt của từng vùng, địa phương, khu dân cư. Đội ngũ báo cáo viên các cấp thường xuyên, tích cực lồng ghép nội tuyên truyền vào các đợt quán triệt, phổ biến nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các buổi nói chuyện thời sự… Đội ngũ tuyên truyền viên cơ sở nói chuyện trực tiếp, vận động từng người, từng nhóm người thông qua các hội nghị tuyên truyền, các cuộc họp khu dân cư, sinh hoạt chi bộ thường kỳ...