Thứ Năm, 2 tháng 5, 2024

CỘNG ĐỒNG CHIA SẺ TƯƠNG LAI” CÓ Ý NGHĨA CHIẾN LƯỢC VỚI CẢ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

 Trong Tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc đã tiếp tục làm sâu sắc và nâng

tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ

tương lai Việt Nam – Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược. Việt Nam và Trung Quốc nhất

trí rằng, chuyến thăm cấp nhà nước tới Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung

Quốc Tập Cận Bình từ ngày 12-13/12/2023 là dấu mốc quan trọng trong lịch sử quan

hệ hai Đảng, hai nước, góp phần quan trọng vào phát huy tình hữu nghị truyền thống

Việt Nam – Trung Quốc, nâng tầm quan hệ của hai quốc gia trong thời kỳ mới, thúc đẩy

hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.

Hai bên đề ra phương hướng thúc đẩy quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong giai

đoạn mới với sự tin cậy chính trị cao hơn, hợp tác quốc phòng, an ninh thực chất hơn,

hợp tác nền tảng xã hội vững chắc hơn. Phối hợp đa phương được thực hiện chặt chẽ

hơn, bất đồng được kiểm soát và giải quyết tốt hơn. Hai bên cùng nhất trí trao đổi ý kiến

chân thành, thẳng thắn về vấn đề trên biển, nhấn mạnh cần kiểm soát tốt hơn và tích cực

giải quyết bất đồng trên biển, duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông và khu vực; chung

tay thúc đẩy sự nghiệp xã hội chủ nghĩa thế giới phát triển, đóng góp tích cực cho sự

nghiệp hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Thực hiện Tuyên bố chung này, vừa góp phần

củng cố, tăng cường, nâng tầm mối quan hệ truyền thống, hữu nghị giữa hai nước; vừa

khẳng định hai bên ủng hộ lẫn nhau trên các vấn đề liên quan đến lợi ích cốt lõi và mối

quan tâm trọng đại của nhau góp phần tạo điều kiện thuận lợi để hai nước cùng phát

triển ổn định, lành mạnh và bền vững hơn.

Việc Việt Nam và Trung quốc ra Tuyên bố chung, sau chuyến thăm của Tổng Bí

thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình tới Việt Nam là dấu mốc lịch sử trọng

đại, định hướng quan trọng để đưa quan hệ hai nước bước vào giai đoạn lịch sử mới,

phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững hơn, hoàn toàn phù hợp với lợi ích của hai

nước. Không chỉ hướng vào sự ổn định, phát triển của Việt Nam và Trung Quốc, mà còn

hướng vào ổn định, phát triển của khu vực và thế giới. Điều này khẳng định, đường lối

đối ngoại của Việt Nam nói chung, ngoại giao với Trung Quốc nói riêng là đúng đắn,

sáng tạo, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, phù hợp với xu thế của thời

đại, chứ không phải “chệch hướng” như những gì các thế lực thù địch, phản động xuyên

tạc./.

SỰ THẬT LỊCH SỬ CỦA CHIẾN THẮNG 30/4/1975 LÀ ĐIỀU KHÔNG PHẢI BÀN CÃI

 Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là cuộc chiến tranh chính

nghĩa, nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống

nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Với âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam và khu vực, đế quốc Mỹ đã hất cẳng thực dân Pháp, nhảy vào xâm

chiếm nước ta, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, phục vụ cho mưu đồ

sen đầm khu vực. Mỹ đã đưa vào đây hơn nửa triệu quân và sử dụng tất cả các loại vũ

khí, kỹ thuật hiện đại nhất, kể cả vũ khí hóa học với mưu toan đè bẹp ý chí chiến đấu

của dân tộc ta, buộc chúng ta phải khuất phục. Điển hình của sự thảm khốc, tàn bạo đó

là quân đội Mỹ đã dùng pháo đài bay B.52, ném bom hủy diệt Hà Nội và một số thành

phố khác, hòng “đưa miền Bắc Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá”. “Cây muốn lặng, mà gió

chẳng muốn ngừng”, như thế, thử hỏi cuộc chiến tranh của nhân dân Việt Nam chống

quân xâm lược Mỹ là chính nghĩa hay phi nghĩa?

Cũng như các dân tộc khác, dân tộc Việt Nam không muốn chiến tranh, luôn thiết

tha hòa bình, khát vọng hạnh phúc, nhưng đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai buộc chúng ta

phải cầm súng chiến đấu chống lại chúng để giành độc lập cho dân tộc. Những hành

động chà đạp lên độc lập, chủ quyền lãnh thổ, can thiệp, áp đặt,… là điều trái với luân

thường, đạo lý và luật pháp quốc tế. Ở đâu có tình trạng đó, tất yếu nhân dân sẽ đứng

lên chống lại. Điều đó, càng không thể được đối với dân tộc Việt Nam, một dân tộc có

lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, có truyền thống quật cường đấu tranh

chống giặc ngoại xâm. Với chân lý “không có gì quí hơn độc lập, tự do”, “Nam Bắc một

nhà”, “Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam”; “sông có thể

cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”… dưới sự lãnh đạo của

Đảng, nhân dân ta ở cả hai miền Nam, Bắc đã đồng tâm, hiệp lực, không ngại hy sinh,

gian khổ, đoàn kết chiến đấu chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa, tàn bạo của đế quốc

Mỹ và bè lũ tay sai giành thắng lợi với mốc son chói lọi là Đại thắng Mùa xuân

30/4/1975.

Chiến thắng 30/4/1975 sẽ mãi mãi tiếp thêm năng lượng, tinh thần, phát huy các

giá trị sáng tạo, cổ vũ nhân dân và dân tộc ta đi tới, hướng tới phát triển bền vững và

hiện đại hóa trong công cuộc đổi mới, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt

Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

XUYÊN TẠC NGÀY CHIẾN THẮNG 30/4/1975 LÀ CÓ TỘI VỚI LỊCH SỬ DÂN TỘC

Trong những ngày tháng 4 lịch sử nhân dân cả nước lại được sống trong những

ngày tháng hết sức sôi động, hào hùng, rạo rực của mùa Xuân năm 1975, mốc son chói

lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, ngày giải phóng hoàn toàn miền

Nam, thống nhất đất nước, thì trên trang mạng xã hội danlambao xuất hiện bài viết “lại

một năm nữa tháng 4 đen”. Tác giả bài viết đã cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ

nhận lịch sử hào hùng của dân tộc, phủ nhận sự hy sinh xương máu của biết bao thế hệ

người con ưu tú đã không tiếc tuổi xuân của mình để cống hiến cho nền độc lập tự do

của Tổ quốc. Xin nêu ra để bạn đọc hiểu rõ hơn về bản chất và tính chính nghĩa của

cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược của nhân dân Việt Nam.

Những luận điệu trong bài viết trên là hoàn toàn sai trái, đã xuyên tạc, phủ nhận

lịch sử một cách trắng trợn và lố bịch. Chiến thắng 30/4/1975 là sự tôn vinh sức mạnh

và niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam, của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.

Nhưng tác giả bài viết lại cho rằng: Chỉ còn vẻn vẹn một tháng nữa là tới ngày Quốc

Hận 30/4/1975. Nếu coi ngày 30/4/1975, là ngày “quốc hận”, thì quả là một cái nhìn sai

lệch và xuyên tạc sự thật lịch sử, đi ngược lại với tinh thần khoan dung, đồng thuận,

đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam; tự reo rắc hận thù, chia rẽ khối đại đoàn kết dân

tộc, đi ngược lại với trào lưu tiến bộ của lịch sử nhân loại là hoà bình, hợp tác và phát

triển. Song, sự thật những gì diễn ra ở miền Nam suốt hai thập kỷ qua đã tự nó nói lên

tất cả về cái tồn tại trong quá khứ của chính thể Việt Nam Cộng hòa do Mỹ dựng lên là

bù nhìn, phản động, tàn ác, dã man. Đã không đem lại độc lập, tự chủ cho dân tộc

nhưng lại hứa hẹn đem lại cho dân tộc, đó chỉ là một chính thể lệ thuộc, sai khiến về

mọi mặt. Do đó, giải phóng miền Nam, xóa bỏ một trật tự lỗi thời, lạc hậu, phản động,

một chế độ tay sai, bù nhìn, một sản phẩm trái mùa của lịch sử là một tất yếu khách

quan. Cuộc đấu tranh của dân tộc Việt Nam để giải phóng miền Nam thống nhất đất

nước là một thắng lợi của chính nghĩa, đem lại độc lập, tự do thật sự cho nhân dân, mở

ra kỷ nguyên mới cho dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Nuối tiếc cái đã lùi vào quá khứ, dĩ vãng để gieo rắc ý thức “quốc hận” là có tội với

chính đồng bào, dân tộc mình, với chính quá khứ hào hùng của lịch sử dân tộc. Tư

tưởng, quan điểm đó là sự nuôi dưỡng, kích động sự thù địch, chia rẽ dân tộc một cách

có chủ đích cố xuyên tạc sai sự thật lịch sử, tiếp tay cho kẻ thù, có hại cho tinh thần hòa

hợp, đoàn kết dân tộc, cần phải phê phán, bác bỏ. 

NHỮNG LÝ TƯỞNG VÀ GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP CỦA CÁCH MẠNG THÁNG MƯỜI NGA ĐỐI VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga đã đưa ra lời giải chính xác trên

thực tế về phương hướng, mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc, đó chính là chủ

nghĩa xã hội và vai trò của giai cấp công nhân trong cuộc cách mạng giải phóng này.

Theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng

giữa đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữa sứ mệnh lịch sử

của giai cấp công nhân, nhân dân lao động với tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: Cách mạng Tháng Mười Nga đã “mở ra con

đường giải phóng cho các dân tộc và cho cả loài người, mở ra thời đại mới trong lịch sử,

thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư sản lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới”.

Từ thành quả Cách mạng Tháng Mười của những người Bônsêvích Nga, giai cấp

công nhân, nhân dân lao động Việt Nam không chỉ tìm thấy đồng minh, có được sự ủng

hộ quốc tế to lớn, mà còn giúp họ vận dụng thành công những phương pháp, cách thức,

kinh nghiệm trong cách mạng giải phóng dân tộc, như đúc rút mang tính chân lý của

Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào

khác con đường cách mạng vô sản”.

Thực tiễn cũng đã minh chứng, Cách mạng Tháng Mười Nga và thời đại mới do

nó tạo nên một nhân tố thời đại quan trọng, đó là: Từ việc nghiên cứu Cách mạng Tháng

Mười Nga, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác – Lênin và đi theo con đường thời đại mà Cách

mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi dựng và tham gia sáng lập Đảng

Cộng sản Pháp (tháng 12-1920); Người dầy công truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào

trong nước và chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa

xuân năm 1930; Người đã thức tỉnh các tầng lớp nhân dân, nhất là giai cấp công nhân

nhất tề đứng lên gánh vác sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Tháng Tám thành công, khai

sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.

Tinh thần cách mạng không ngừng của Cách mạng Tháng Mười Nga tiếp tục

được giai cấp công nhân Việt Nam tiếp bước, thực hiện mục tiêu: Độc lập dân tộc gắn

liền với chủ nghĩa xã hội; giải phóng dân tộc để đi lên chủ nghĩa xã hội, giải phóng giai

cấp, giải phóng con người. Những kinh nghiệm của chủ nghĩa xã hội thời chiến ở Liên

Xô được vận dụng sáng tạo trong “kháng chiến kiến quốc”, đặc biệt là trong thời kỳ vừa

xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng ở miền Nam, thống

nhất đất nước ở Việt Nam.


Trải qua 105 năm, dù chủ nghĩa xã hội hiện thực đã từng chịu những tổn thất

nặng nề, nhưng “Những thành tựu có quy mô và tầm vóc lịch sử thế giới của chủ nghĩa

xã hội là không thể phủ nhận, nó đã từng là giá trị thể hiện bản chất ưu việt của chủ

nghĩa xã hội, mãi mãi còn in dấu trong lương tâm, ký ức nhân loại” của Cách mạng

Tháng Mười Nga vẫn có tầm ảnh hưởng sâu rộng và sức sống bất diệt.

Những lý tưởng và giá trị tốt đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga đã, đang và sẽ tiếp

tục cổ vũ, dẫn đường cho giai cấp công nhân Việt Nam xây dựng một xã hội – xã hội

chủ nghĩa: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đại hội XIII của Đảng

khẳng định, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải

kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và coi đó là một vấn đề mang

tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng tư tưởng vững chắc

của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. Đây cũng chính là phương

hướng, khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của giai cấp công nhân và mọi

giai tầng khác trong xã hội trong thực hiện sứ mệnh phát triển đất nước phồn vinh, hạnh

phúc theo những giá trị thời đại khởi nguồn từ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại./.

PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG THEO HƯỚNG LƯỠNG DỤNG, NGÀY CÀNG HIỆN ĐẠI

 Trong các nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển công

nghiệp quốc phòng ở các giai đoạn trước đây đã xác định chủ trương và nhiệm vụ phát

triển tiềm lực khoa học – công nghệ của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, phấn đấu

thực hiện một số nhiệm vụ trọng điểm mang tính đột phá, mũi nhọn để tiếp cận và làm

chủ được các ngành công nghệ mới liên quan tới chế tạo vũ khí. Tập trung đầu tư sản

xuất thành công các chủng loại vũ khí, trang bị, khí tài hiện đại và chiến lược, trong đó

có những chủng loại “Made in Việt Nam” đạt trình độ tiên tiến, hiện đại tương đương so

với thế giới và khu vực để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa Quân đội. Chúng ta cần ưu tiên

ứng dụng hiệu quả các công nghệ nền tảng, các thành tựu của cuộc Cách mạng công

nghiệp lần thứ Tư, thực hiện “đi tắt, đón đầu” trong một số lĩnh vực công nghệ quân sự

đặc thù để tạo chuyển biến bước ngoặt về năng lực thiết kế – chế tạo các sản phẩm có

tính đột phá về tính năng chiến thuật – kỹ thuật. Ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến,

lưỡng dụng, tiến tới làm chủ công nghệ nền, công nghệ lõi trong nghiên cứu, thử

nghiệm, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có hàm lượng công nghệ cao.

Công nghiệp quốc phòng là một bộ phận của công nghiệp quốc gia, vừa sản xuất

phục vụ nhu cầu tiêu dùng quân sự, vừa tham gia sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng

dân dụng. Đẩy mạnh ứng dụng các công nghệ mới vào nghiên cứu, thiết kế, chế tạo sản

phẩm quốc phòng, đồng thời sản xuất các sản phẩm dân sinh cũng như đẩy mạnh phát

triển, chuyển giao một số công nghệ cho công nghiệp dân sinh. Phát triển công nghiệp

quốc phòng theo hướng lưỡng dụng sẽ khai thác tốt tiềm năng, phát huy tốt nội lực

trong xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng để đáp ứng đồng thời các yêu cầu

của quốc phòng – an ninh và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Qua

đó, giảm bớt sự phụ thuộc, đa dạng hóa việc tiếp cận công nghệ, nguồn lực trong quá

trình thực hiện các mục tiêu chiến lược đã đề ra. Tăng cường chuyển giao công nghệ,

liên doanh, liên kết, hợp tác cùng nghiên cứu phát triển mẫu vũ khí mới, hợp tác về đào

tạo nhân lực, phát triển thị trường quốc tế và xây dựng thương hiệu, xuất khẩu sản phẩm

quân sự, lưỡng dụng và sản phẩm kinh tế. Tham gia các chuỗi giá trị toàn cầu trong

phân công chuyên môn hóa sản xuất, trước hết là các sản phẩm kinh tế và lưỡng dụng.

Như thế, vừa đáp ứng yêu cầu tăng cường khả năng quốc phòng để làm tròn nghĩa vụ

bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ đời sống nhân dân.

NÂNG CAO NĂNG LỰC QUỐC PHÒNG ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC, BẢO VỆ HÒA BÌNH

 Xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng, an ninh vững mạnh về mọi mặt

được Đảng ta xác định là “nhiệm vụ cơ bản, vừa có ý nghĩa cấp bách trước mắt, vừa là

nhiệm vụ chiến lược lâu dài; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn

dân, toàn quân”.

Tăng cường khả năng quốc phòng, đương nhiên không thể thiếu hiện đại hóa vũ

khí, trang thiết bị quân sự. Tuy nhiên, Việt Nam luôn chủ trương chỉ tập trung hiện đại

hóa vũ khí, trang bị quân sự để phục vụ mục đích bảo vệ Tổ quốc. Nền quốc phòng của

Việt Nam là nền quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ. Tăng cường tiềm lực

quốc phòng để bảo vệ Tổ quốc, cho nên, Việt Nam chủ trương tăng cường khả năng

quốc phòng bằng nội lực trong điều kiện, khả năng của mình, không tham gia liên minh

quân sự, không liên kết với nước này để chống lại nước kia, không cho nước ngoài đặt

căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng

vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Theo đánh giá của các tổ chức

quốc tế, thì trong hơn 10 năm gần đây, sức mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã

có sự thay đổi căn bản, đã hình thành khả năng triển khai quân sự để bảo vệ Tổ quốc.

Đến nay, công nghiệp quốc phòng Việt Nam cơ bản bảo đảm tốt nhu cầu của lực lượng

vũ trang, nhất là về vũ khí thông thường và một số loại vũ khí công nghệ cao.

Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, toàn diện như hiện nay,

đặc biệt hội nhập quốc tế về công nghiệp quốc phòng được xác định là một kênh không

tách rời của quá trình hội nhập quốc tế, thì xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng

hiện đại là tất yếu khách quan, phù hợp với xu hướng phát triển công nghiệp quốc

phòng thế giới. Để sẵn sàng đối phó thắng lợi với vũ khí công nghệ cao của địch nếu

xảy ra chiến tranh trong tương lai, bên cạnh yếu tố chính trị, tinh thần, con người và các

yếu tố khác cấu thành sức mạnh tổng hợp của quốc gia, việc làm chủ các loại vũ khí,

trang bị kỹ thuật mới, tiên tiến, hiện đại là yêu cầu cấp thiết, khách quan.

CẦN TỈNH TÁO NHẬN DIỆN VÀ KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG QUAN ĐIỂM SAI TRÁI, XUYÊN TẠC VỀ CHÍNH SÁCH KINH TẾ TẠI VIỆT NAM

Sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu rất quan trọng, khá

toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật. Tuy nhiên, các thế lực thù địch không ngừng tuyên

truyền những luận điệu sai trái, xuyên tạc bác bỏ KTTT định hướng XHCN của Việt

Nam. Vấn đề này, đòi hỏi cần tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh phản bác

những quan điểm sai trái, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.

Kinh tế thị trường XHCN là sự tìm tòi, thể hiện cả về lý luận và thực tiễn của

CNXH trong thời đại ngày nay. Đây cũng là bước đột phá trong tư duy lý luận của Đảng

ta trong thời kỳ đổi mới, là sự lựa chọn khách quan, phù hợp với xu thế vận động chung

của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, khi đề cập đến mô hình kinh tế này, một số luận

điểm cho rằng KTTT và định hướng XHCN như “nước và lửa”, không thể kết hợp với

nhau. Họ khẳng định: KTTT là của chủ nghĩa tư bản (CNTB), rằng KTTT không dung

hợp với CNXH, việc chuyển sang KTTT là chuyển sang CNTB, rằng đó chỉ là “tấm áo

khoác CNXH” cho nội dung TBCN, rằng đó là “râu ông nọ cắm cằm bà kia”, là “đầu

Ngô mình Sở”. Có người còn ví von bằng hình ảnh rằng nền KTTT như con “hổ đói”,

còn định hướng XHCN là “con thỏ non”, nếu thả chung với nhau, KTTT sẽ ăn thịt định

hướng XHCN.


Thực tiễn cho thấy những quan niệm nêu trên, nếu không phải là những luận điệu

ác ý của các thế lực thù địch thì cũng là những quan niệm phiến diện của những người ít

tiếp nhận thông tin. Phải chăng, các quan điểm này có cội nguồn lý luận từ thuyết xã hội

hậu công nghiệp nêu ra từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đây là sự xuyên tạc thiếu căn

cứ bởi lẽ, thực tế lịch sử cho thấy, kể từ khi xã hội phân chia thành giai cấp cùng với sự

xuất hiện của nhà nước thì nền kinh tế ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều chịu sự định

hướng chính trị của một giai cấp nhất định trong xã hội. Đó là giai cấp nắm trong tay

quyền lực nhà nước, thông qua nhà nước, giai cấp cầm quyền đề ra những chủ trương,

chính sách để bảo vệ lợi ích của mình, trước hết là lợi ích kinh tế. Thật vậy, nếu kinh tế

thị trường TBCN được định hướng bởi nền chính trị, nhà nước của giai cấp tư sản,

nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng tối đa phục vụ tốt nhất cho lợi ích của giai cấp tư sản thì

KTTT, định hướng XHCN được định hướng bởi nền chính trị của giai cấp công nhân –

giai cấp có lợi ích cơ bản thống nhất với lợi ích của Nhân dân lao động và toàn thể dân

tộc. Bởi thế, một trong những nét đặc sắc mang bản chất của KTTT định hướng XHCN

là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng

bước đi, từng chính sách và suốt quá trình phát triển, không hy sinh tiến bộ, công bằng

xã hội, môi trường để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.

Thực tế, những quan điểm của các thế lực thù địch, phản động, xuyên tạc tình

hình kinh tế tại Việt Nam luôn nhằm hướng tới mục tiêu xóa bỏ hệ tư tưởng, sự lãnh đạo

của Đảng đối với Nhà nước. Do đó, chúng ta cần luôn đề cao cảnh giác, tỉnh táo nhận

diện rõ bản chất xấu xa và mục đích đen tối của các thế lực thù địch và kiên quyết đấu

tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng

của Đảng, bảo vệ công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây

dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong tình hình mới./.

VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI NỀN BÁO CHÍ VIỆT NAM

 Đằng sau những bình phẩm, xuyên tạc tình hình tự do báo chí ở Việt Nam với

giọng điệu “nhân quyền sau Đảng quyền”, Lê Quốc Quân – cái tên không còn xa lạ trên

diễn đàn “Voatiengviet” đang cổ súy cho thứ “tự do báo chí” vô nguyên tắc”, báo chí

“phi chính trị hóa”, “phi đảng tính”… Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, vô căn cứ với

dã tâm muốn tách rời hoạt động của báo chí khỏi sự lãnh đạo của Ðảng. Bởi, trong sự

phát triển chung của báo chí gắn với sự phát triển của đất nước, của xã hội, không thể

tách rời sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí. Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày

3/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí

toàn quốc đến năm 2025 nêu rõ quan điểm: “Báo chí là phương tiện thông tin, công cụ

tuyên truyền, vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của Nhân

dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hoạt

động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

Rõ ràng, ở Việt Nam hiện nay báo chí không thể có cái gọi là “phi chính trị”, “phi

giai cấp”, báo chí phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tiễn

cho thấy nhờ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Ðảng, hoạt động của báo chí đã thật sự

phát huy được tính cách mạng, dân chủ, khoa học và nhân văn; là công cụ sắc bén, thực

hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, bảo

vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhân dân, đóng góp rất quan trọng vào phát triển đất

nước phồn vinh, hạnh phúc. Cùng với những thành tựu của cách mạng Việt Nam, báo

chí cách mạng Việt Nam đã có sự chuyển mình mạnh mẽ. Là một trong những kênh

thông tin quan trọng, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, Nhân dân. Do đó, mọi mưu toan

“phi chính trị hóa” đối với hoạt động báo chí, cố tình tách báo chí ra khỏi sự lãnh đạo

của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đều là ảo tưởng mà thôi.

Tóm lại, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của Lê Quốc Quân về tự do báo chí ở

Việt Nam chỉ là những tiếng nói tiêu cực, lạc lõng của những kẻ cố tình đi ngược lại với

ý chí nguyện vọng của Nhân dân và sự phát triển bền vững của đất nước, nhân dân ta và

của nền báo chí cách mạng đáng tự hào của chúng ta.

QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM

 

Mới đây, Lê Quốc Quân – cái tên không còn xa lạ trên diễn đàn “Voatiengviet” đã

đăng tải và phát tán nội dung “Tin đồn, tự do báo chí và cải tổ chính trị”. Vẫn chiêu bài

cũ rích “tự do báo chí” với tiếng nói lạc điệu, mơ hồ, y cho rằng “nhà báo Việt Nam

đang bị (hoặc tự) “bịt miệng”, từ đó quy chụp ở Việt Nam “nhân quyền, sau Đảng

quyền”. Thực chất đây chỉ là sự phụ họa bình phẩm, xuyên tạc tình hình tự do báo chí ở

Việt Nam hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước đối với

nền báo chí cách mạng Việt Nam. Song, cả phương diện lý luận và thực tiễn đã cho

chúng ta thấy:

Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho

báo chí Việt Nam phát triển. Cùng với đó, sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước là

hiện thực sinh động cho báo chí Việt Nam phát triển lớn mạnh cả về quy mô, tổ chức,

lực lượng, phương tiện, công nghệ làm báo và sức ảnh hưởng, lan tỏa trong xã hội.

Về phương diện chính trị, pháp lý: Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo vệ

quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận như một giá trị quan trọng của nền dân chủ xã hội


chủ nghĩa. Điều 25 Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (năm 2013)

quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội

họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Theo Luật

Báo chí 2016, công dân được tham gia vào các quy trình sáng tạo, sản xuất sản phẩm

báo chí, tiếp nhận báo chí, ngôn luận trên báo chí theo quy định (Điều 11). Về phần

mình, cơ quan báo chí và nhà báo được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được

Nhà nước bảo hộ, không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng (Điều 13);

được tạo mọi điều kiện tốt nhất để hoạt động nghề nghiệp. Không ai có quyền cản trở

nhà báo khai thác và thể hiện thông tin theo đúng quy định của pháp luật (Điều 25). Tất

nhiên, cũng như ở mọi lĩnh vực, mọi quốc gia, tự do báo chí phải trong khuôn khổ chứ

không phải là thứ tự do vô giới hạn, vô chính phủ, đứng ngoài pháp luật. Luật Báo chí

2016 quy định: “Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận

trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức

và công dân” (Điều 13).

Thực tiễn đã chứng minh, báo chí cách mạng Việt Nam ngày càng lớn mạnh,

quyền tự do báo chí được bảo đảm. Tính đến hết năm 2023, Việt Nam có khoảng 41.000

người đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí, với 20.507 người được cấp thẻ nhà báo.

Nhiều tờ báo đã chuyển đổi thành cơ quan báo chí đa phương tiện, đa loại hình, hiện

diện trên môi trường internet. Các loại hình báo chí di động, báo chí mạng xã hội, báo

chí trí tuệ nhân tạo… xuất hiện, thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận đa giác quan (nghe-nhìn-

đọc) ở mọi lúc, mọi nơi của công chúng. Bên cạnh đó, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

báo chí phát triển. Hiện nay đã có gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt

Nam. Các cơ quan truyền thông quốc tế như: CNN, TV5, NHK, DW, Australia

Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với

công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay

pháp lý nào. Như vậy, cả cơ sở chính trị, pháp lý đã khẳng định và thực tiễn đã chứng

minh quyền tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bảo đảm. Điều này có ý

nghĩa bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, sai trái của Lê Quốc Quân về bảo

đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam./.

TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

 Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, công tác tôn giáo ở Việt Nam ngày

càng tốt hơn. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về

“Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày

12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công

tác tôn giáo đã có những bước đổi mới có tính đột phá, thừa nhận “tôn giáo là vấn đề

còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân;

đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” và “tôn

giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là

những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội,

không chỉ khẳng định sự “tồn tại lâu dài” của tôn giáo, mà còn phát triển lên mức cao

hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với

quan điểm đó, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng vừa quan


tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh việc

chống lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Hòa trong dòng chảy lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam, với sức mạnh

được hun đúc từ mạch nguồn văn hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc,

tự chủ, tự cường, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thương người như thể thương

thân”, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định trong những mức độ khác

nhau vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội. Không chỉ đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tôn giáo còn là một bộ

phận cấu thành của văn hoá Việt Nam. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn

giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Bằng những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn giáo ở Việt Nam đã phát huy, lan

toả các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác ái ấy vào đời sống xã hội, góp phần tạo

nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, ứng xử nhân văn, nhân ái của dân tộc ta, đóng

góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu

người, giúp đời, chung tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây

dựng đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết dân tộc, đồng lòng đồng sức của toàn thể

nhân dân Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài, chúng ta tin tưởng rằng, sự tương đồng

trong mục tiêu phấn đấu vì con người, vì sự phồn vinh của đất nước, tín đồ các tôn giáo,

trước hết là con dân Việt, công dân Việt, sẽ sống “tốt đời, đẹp đạo”, mãi tiếp bước trên

con đường “đồng hành với dân tộc”, vượt lên mọi thách thức và đập tan mọi âm mưu

đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt

Nam. Đưa đất nước vững bước đi lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước

mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

SAU GẦN 40 NĂM ĐỔI MỚI, VIỆT NAM CÓ NỀN KINH TẾ NĂNG ĐỘNG, ĐANG TRÊN ĐÀ PHÁT TRIỂN VỚI THÀNH QUẢ ĐÁNG TỰ HÀO

Với những ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước và dân tộc ta, Nguyễn Văn Tuấn

trong bài viết “Tại sao khó có thể tự hào là người Việt Nam” đã đưa ra những luận điệu

thiếu thiện chí, thiếu khách quan, phủ nhận sạch trơn nền kinh tế của đất nước, rằng,

Việt Nam “thất bại về kinh tế”, “không có bất cứ một tập đoàn kinh tế nào làm ăn thành

công”. Tuy nhiên thực tế cho thấy, qua gần 40 năm đổi mới, đất nước đã ra khỏi khủng

hoảng kinh tế – xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có

thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;

bộ mặt đất nước, đời sống của nhân dân thật sự thay đổi. Theo số liệu của Tổng cục

Thống kê, GDP năm 2023 của cả nước ước tính tăng 5,05% so với năm trước, đưa quy

mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ

USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284

USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Như vậy đến cuối năm 2023, thu nhập bình quân

đầu người của Việt Nam đã đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm. Việt Nam có nhiều tập

đoàn kinh tế phát triển vươn tầm khu vực và thế giới như tập đoàn Viettel, FPT,

Vingroup…góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Điều đó cho thấy, những

luận điệu của Nguyễn Văn Tuấn trở nên lạc lõng, thiếu khách quan.

Có thể thấy, thực tiễn về nền văn hóa tiên tiến, giàu truyền thống, đậm đà bản sắc

dân tộc về những thành quả kinh tế đáng tự hào ở Việt Nam là minh chứng hùng hồn để

bác bỏ những luận điệu sai trái, thiếu khách quan, với những ý đồ chính trị đen tối của

Nguyễn Văn Tuấn. Là người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này, chúng ta

cảm thấy tự hào về truyền thống văn hóa giàu bản sắc của dân tộc, với sự phát triển của

đất nước. Chúng ta cần phải được lên án mạnh mẽ và bác bỏ những quan điểm sai trái,

thù địch của những kẻ mang trong mình dòng máu Việt nhưng lại ẫu trĩ về mặt nhận

thức, nhận những đồng tiền dơ bẩn để rồi quay lại giày xéo lên truyền thống, thành quả

quả tổ tiên, quê hương đất nước mình./.

VIỆT NAM CÓ NỀN VĂN HÓA LÂU ĐỜI TIÊN TIẾN, ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

 Với âm mưu thâm độc nhằm phủ nhận những giá trị truyền thống văn hóa của

dân tộc, Nguyễn Văn Tuấn đã đăng tải bài viết với tựa đề “Tại sao khó có thể tự hào là

người Việt Nam” với những lời lẽ, luận điệu cảm tích, thiếu khách quan về nền văn hóa

Việt Nam là có “Truyền thống và văn hóa nghèo nàn & thiếu bản sắc tích cực”. Tuy

nhiên, thực tiễn cho thấy, Việt Nam có nền văn hiến lâu đời, lịch sử hào hùng và một

nền văn hóa giàu bản sắc, thống nhất trong đa dạng. Đây là niềm tự hào, là tài sản quý

giá của quốc gia, cội nguồn của sức mạnh nội sinh, hun đúc khối đại đoàn kết toàn dân

tộc. Việt Nam có 54 dân tộc với những giá trị văn hóa truyền thống giàu bản sắc và lịch

sử lâu đời hàng ngàn năm nay vẫn đang được bảo tồn, phát huy. Trải qua lịch sử hàng

ngàn năm dựng nước và giữ nước, các dân tộc anh em đã sáng tạo nên kho tàng văn hóa

độc đáo, phong phú với các giá trị tốt đẹp, thể hiện sinh động quá trình sinh sống, lao

động, dựng xây và bảo vệ đất nước, khắc họa cốt cách và vẻ đẹp con người Việt Nam

cần cù, nhân ái, khoan dung, hiếu khách, giàu lòng yêu nước. Chúng ta cũng tự hào khi

có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể được thế giới công nhân. Tính đến thời

điểm tháng 5/2023, Việt Nam đã được UNESCO công nhận: 8 Di sản Thế giới, 15 Di

sản Văn hóa Phi vật thể, 9 Di sản Văn hóa Tư liệu. Đây là bức tranh phong phú, sinh

động, giàu bản sắc của nền văn hóa Việt Nam, là minh chứng đanh thép phản bác lại

những luyện điệu phiến diện của Nguyễn Văn Tuấn về nền văn hóa và truyền thống của

dân tộc./.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN THÀNH TỰU CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM

 Với đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, Nhà nước, phát huy thế và lực mới

của đất nước, công tác đối ngoại của Việt Nam đã đạt được những kết quả toàn diện,

quan trọng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực

bên ngoài cho phát triển kinh tế – xã hội và nâng cao vị thế, uy tín đất nước. Thế nhưng

với mưu đồ xấu, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc, các thế lực thù địch, phản động

vẫn ra sức xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại.

Bài viết: “Khi rõ ràng, sòng phẳng… sợ gì là chủ trương đối ngoại của chế độ” của

Đăng Đình Mạnh đang được phát tán trên nhiều diễn đàn phản động là một ví dụ. Y cho

rằng: “Thành tựu đối ngoại của chính quyền cộng sản là tự tán dương; Đảng Cộng sản

không có công trạng gì (!)”. Đây là luận điệu phi lý, phiến diện, không phản ánh đúng

kết quả công tác đối ngoại của Việt Nam, cần đấu tranh, bác bỏ kịp thời.

Thực tế cho thấy, trong thời kỳ đổi mới Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ

đạo quan trọng về đối ngoại, nổi bật là Nghị quyết số 34-NQ/TW ngày 09/01/2023 của

Bộ Chính trị về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại

hội XIII của Đảng. Cùng với đó, Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng ban hành nhiều chỉ thị,

đề án quan trọng khác về đối ngoại và các lĩnh vực khác liên quan đến đối ngoại như

quốc phòng, an ninh, kinh tế… nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và triển khai

đồng bộ, hiệu quả đường lối đối ngoại của Đảng. Theo đó, Việt Nam đã từng bước tạo

dựng và gia tăng mức độ đan xen lợi ích với các đối tác, nhất là các đối tác lớn, đối tác

quan trọng đối với lợi ích an ninh và phát triển của mình. Thực hiện minh bạch hóa

chính sách, quy trình hoạch định và triển khai chính sách, trong đó có việc định kỳ công

bố Sách Trắng quốc phòng, Sách Xanh ngoại giao; đồng thời tham gia hầu hết các tổ

chức quốc tế lớn và nghiêm chỉnh tuân thủ các cam kết quốc tế.

Thực tiễn cho thấy, sau gần 40 năm đổi mới đất nước, chiến lược sáng suốt, đúng

đắn trong công tác đối ngoại đã góp phần quan trọng giữ vững môi trường hòa bình, ổn

định, tạo thuận lợi cho công cuộc đổi mới, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống

nhất và toàn vẹn lãnh thổ; vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng

được củng cố.

Tính đến tháng 9/2023, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao chính thức với 193

quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên Liên hợp quốc). Mạng lưới các mối quan

hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện tiếp tục được củng cố, mở rộng Việt Nam hiện

có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 7 cường quốc là: Trung Quốc (2008), Liên

bang Nga (năm 2012), Ấn Độ (2016), Hàn Quốc (2022), Mỹ (9/2023), Nhật Bản

(11/2023) và Australia (2024). Quan hệ với các nước từng bước đi vào chiều sâu, đan

xen lợi ích được tăng cường. Nước ta đã thúc đẩy ký kết và thực hiện nhiều hiệp định

thương mại tự do thế hệ mới, trong đó có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên

Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA),

Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP)…


Đảng Cộng sản Việt Nam đã thiết lập quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia.

Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 nước. Các tổ chức

hữu nghị nhân dân có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.

Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn

quốc tế quan trọng. Chúng ta được bạn bè quốc tế tin tưởng, tín nhiệm đề cử đăng cai,

tổ chức nhiều hội nghị quốc tế lớn và đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế quan trọng.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp

quốc như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014 – 2016, 2023 – 2025; Ủy ban Di sản

Thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013 – 2017; Hội đồng Kinh tế – Xã hội của Liên hợp

quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016 – 2018…

Những thành tựu đã đạt được cũng như thực tiễn sinh động về hoạt động đối

ngoại của Việt Nam là minh chứng rõ ràng nhất để bác bỏ các luận điệu xuyên tạc, phủ

nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại. Từ đó, củng cố sự tin cậy

của các nước đối với Việt Nam; góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để

phát triển đất nước./.

Tái diễn những luận điệu sai trái, xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975

Gần nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng cứ mỗi dịp 30/4, khi nhân dân cả nước kỷ niệm, ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc thì trên mạng xã hội, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị tái diễn điệp khúc xuyên tạc về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử của đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng như bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta. 

          Đó là thắng lợi vẻ vang của toàn thể dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đánh bại những thế lực thực dân, đế quốc hùng mạnh. Vẫn luận điệu cũ, một bộ phận người Việt vốn từng ở bên kia chiến tuyến trở lại điệp khúc ta thán về cái gọi là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”, “ngày tắm máu”… Vì cho đến hôm nay, họ vẫn không nhìn thẳng để công nhận một sự thật lịch sử, đó là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, là cuộc chiến tranh vệ quốc, bảo vệ giang sơn, bờ cõi, thống nhất non sông. Gần nửa thế kỷ hòa bình, xây dựng đất nước ngày càng thịnh vượng, phát triển, dân tộc ta với tinh thần hòa hiếu gác lại quá khứ chứ không bao giờ phủ nhận, lãng quên quá khứ. 

Di chứng, hậu quả chiến tranh, sự hy sinh, mất mát sau chừng ấy năm chiến tranh kết thúc thì ở nhiều làng mạc, thôn xóm vẫn còn hiện hữu. Thế nhưng, các thế lực thù địch vẫn không nhìn thẳng vào sự thật, luôn cố tình đánh tráo, xuyên tạc bản chất, ý nghĩa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, xuyên tạc Chiến thắng 30/4/1975. Những ngày gần đây, chúng đăng tải nhiều bài viết, video, hình ảnh sai lệch, xuyên tạc trên Internet, các trang mạng xã hội, tìm cách phủ nhận thành quả của cuộc kháng chiến trường kỳ của quân và dân cả nước. Hàng trăm bài viết kèm các hình ảnh phản cảm dưới tiêu đề “ngày quốc hận”, “tháng tư đen” được chia sẻ, lan truyền trên mạng xã hội để hướng lái dư luận, đánh tráo bản chất chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Cùng với đó, chúng ca ngợi chế độ dân chủ, tự do và kinh tế phát triển dưới thời chính quyền Sài Gòn; đòi vinh danh chế độ Việt Nam Cộng hòa, thậm chí có ý kiến còn đòi chia đôi lại đất nước giống như trước năm 1975. Từ đó, các đối tượng phủ định ý nghĩa Chiến thắng 30/4/1975, đòi từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà nhân dân Việt Nam đã lựa chọn và kiên trì xây dựng; bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, chia rẽ Đảng với nhân dân, kích động hận thù, ly khai; phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân; làm giảm ý chí quyết tâm, đóng góp xây dựng đất nước của nhân dân, trong đó có đồng bào ta sống xa Tổ quốc; cố tình đả kích, phủ nhận chính sách và nỗ lực hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta… Nhiều bài viết với nội dung sai trái, tiêu cực được đăng tải trên Internet như: “Tháng tư vẫn là một kỷ niệm đau buồn cho những người ly hương vì mất nước”;  “tháng tư là tháng vo gạo bằng nước mắt”; “tháng tư là tháng tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa bị những người lính cộng sản giết một cách man rợ”; “mỗi năm đến ngày 30/4 thì vết thương lại nhức nhối trong lòng”; “tháng tư quốc hận, xin nghiêng mình tưởng niệm những nạn nhân đã ra đi không đến bến bờ và xin ngưỡng mộ những người đã hết những gì có được, ra đi để lập lại cuộc đời trên đất nước tự do”… 

Một số bài viết cố tình xuyên tạc rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và đại thắng mùa xuân 1975 của chúng ta là “hoàn toàn vô nghĩa, lẽ ra dân tộc Việt Nam đã có thể tránh được cuộc chiến tranh”; vu cáo đây là cuộc “nội chiến”, “huynh đệ tương tàn” giữa hai miền Nam - Bắc, “không có kẻ thua, người thắng, chỉ nhân dân là chịu thiệt thòi”; cho rằng cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “không cần thiết” và hoàn toàn “có thể tránh khỏi”… Gần đây, trên một số trang mạng, website, blog cá nhân của các phần tử cơ hội chính trị phát tán nhiều tin, bài xuyên tạc, đòi “định danh lại ngày 30/4 cho phù hợp” vì không chấp nhận 30/4 là ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cho rằng “không nên gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng”! Thậm chí, dưới danh nghĩa hòa hợp, hòa giải dân tộc, các đối tượng phản động, cơ hội chính trị còn đưa ra luận điệu cho rằng chỉ khi nào Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ quyền lãnh đạo đất nước, chỉ khi nào Việt Nam lựa chọn đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có thể thực hiện việc hòa hợp, hòa giải dân tộc. Các đối tượng tìm cách chia sẻ, lan truyền trên các fanpage, facebook của các tổ chức, cá nhân chống đối với rất nhiều comment cổ súy, “té nước theo mưa”…

Không dừng ở việc xuyên tạc trên mạng xã hội mà số đối tượng chống đối mới đây còn xây dựng một bộ phim được gọi là “Cảm tình viên” (The Sympathizer) được quay tại Thái Lan, tái hiện lại Việt Nam thời kỳ trước năm 1975. Nội dung kể về hành trình của một người tình báo cộng sản nằm vùng trong bộ máy nguỵ quân, sau ngày giải phóng tiếp tục hoạt động tình báo, sau đó theo đám phản động lưu vong về nước. Nhân vật này có sự thay đổi nhận thức khi vào trong trại cải tạo, lung lạc tinh thần và cuối cùng trốn chạy sang Mỹ vì cho rằng chỉ có tư tưởng của Mỹ mới tiến bộ, nhân văn. Với nội dung xuyên tạc như vậy, bộ phim được công chiếu ngay sát thời điểm kỷ niệm chiến thắng 30/4, với ý đồ tiêu cực, xuyên tạc chiến thắng của nhân dân Việt Nam. Chúng còn tổ chức những buổi hòa nhạc kệch cỡm, kêu gọi ủng hộ “ngày quốc hận”, tổ chức tưởng nhớ những người lính Việt Nam Cộng hòa, phủ nhận toàn bộ công lao của quân và dân ta…

Để làm nên chiến thắng đó, quân và dân Việt Nam đã phát huy sức mạnh tổng hợp khối đại đoàn kết, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng, làm nên Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đi đến thắng lợi cuối cùng, non sông Việt Nam thu về một mối. Đó là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta.

Sưu tầm

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2024

GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

 

Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định “Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.  Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta.

Trong thời gian tới việc đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường ở nước ta cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:

1 - Xây dựng, chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng.

Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là điều kiện chính trị tiên quyết bảo đảm có một Nhà nước đủ mạnh, trong sạch để quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế thực hiện theo định hướng XHCN. Vì vậy, cần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, chống lợi dụng dân chủ để mưu cầu lợi ích riêng, cục bộ. Cần xây dựng Đảng thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, quán triệt sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh cần tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hóa, biến chất. Chú trọng xây dựng và củng cố các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên. không ngừng đào tạo, rèn luyện và kết nạp được những quần chúng ưu tú vào hàng ngũ của Đảng.

2- Thực hiện phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó xây dựng kinh tế nhà nước vững mạnh đủ sức nắm giữ vai trò chủ đạo, cùng với nó là kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đồng thời phát huy cao nhất sức mạnh của tất cả các thành phần kinh tế khác hoạt động lâu dài trong khuôn khổ của pháp luật tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

3- Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, đây là yếu tố quan trọng bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế. Do vậy, Nhà nước cần tập trung làm tốt  chức năng định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường; tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển; hỗ trợ phát triển, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống an sinh xã hội; bảo đảm tính tích cực và bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của kinh tế thị trường.

4- Tích cực đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chống chủ nghĩa cá nhân.

Đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trở thành một nhiệm vụ cấp bách trước mắt của toàn Đảng, toàn dân ta. Do vậy, vấn đề này cần phải được nhìn nhận thẳng thắn, trực diện và thực hiện một chiến lược triệt để phòng, chống tham nhũng một cách thật sự hiệu quả với sự tham gia của toàn Đảng, toàn dân và các thành phần kinh tế. Trước hết là đổi mới, hoàn thiện thể chế và chính sách, giảm bớt và loại bỏ những kẽ hở; đồng thời luôn luôn giáo dục con người ý thức tôn trọng pháp luật, thực hiện kiểm soát, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh, công khai đối với những cán bộ, công chức tham nhũng.

5- Thực hiện sự thống nhất, gắn bó hữu cơ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển ở tất cả các giai đoạn phát triển của kinh tế thị trường. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải thực hiện tốt vấn đề phân phối, đặc biệt chú trọng quản lý thật tốt thu nhập cá nhân từ đó xây dựng cơ chế điều tiết phân phối thu nhập, hình thành nên chính sách phân phối hợp lý, bảo đảm tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội.

6 - Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị - xã hội. Để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thì lực lượng quốc phòng phải đủ mạnh, phải là công cụ sắc bén để đủ sức mạnh chủ động đập tan mọi âm mưu phá hoại, xâm lược, chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong bất cứ tình huống nào, tạo ra môi trường kinh tế - chính trị - xã hội ổn định, thuận lợi,...cũng là giữ vững định hướng XHCN.

                                                                                                       

 

GIỮ VỮNG VÀ TĂNG CƯỜNG BẢN CHẤT GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG THỜI KỲ MỚI

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta ngay từ ngày đầu thành lập đa xác định bản chất giai cấp công nhân là nguyên lý cơ bản nhất trong học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, là vấn đề cốt lõi trong công tác xây dựng Đảng. Đảng ta ra đời từ một nước nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, do đó vấn đề xây dựng Đảng mang bản chất giai cấp công nhân càng trở nên quan trọng. Thực tiễn từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn luôn coi trọng xây dựng bản chất giai cấp công nhân của Đảng, bảo đảm cho Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm với nhiệm vụ cách mạng vẻ vang là lãnh đạo các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân thực sự là một bài học lớn trong công tác xây dựng Đảng của Đảng ta vẫn được Đại hội XIII tiếp tục khẳng định.

Ngày nay, trong điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), kết hợp mở cửa với bên ngoài, cán bộ, đảng viên của Đảng lại được phép làm kinh tế tư nhân, do đó họ hằng ngày, hằng giờ phải chịu sự tác động của những nhân tố tiêu cực, kể cả những hoạt động chống phá Đảng thì vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng càng trở nên quan trọng và bức thiết. Đại hội XIII của Đảng xác định “Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong thời kỳ mới cần thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau:

Một là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề sống còn của dân tộc Việt Nam, được vung đắp và bảo vệ bằng trí tuệ và xương máu của biết bao thế hệ, đa thấm sâu vào máu thịt của những con người Việt Nam từng theo Đảng chiến đấu, hy sinh suốt gần một thế kỷ qua. Mục tiêu đó vừa thiêng liêng, vừa cao cả và không thể có sự lựa chọn nào khác. Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước mà chúng ta thực hiện trong 35 năm qua không nhằm mục tiêu nào khác ngoài việc tiếp tục tiến lên theo con đường của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đa lựa chọn. Đồng thời, kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội cũng chính là nguồn gốc của sự tồn tại và đổi mới thành công. kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì phải phấn đấu cho sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Bởi dân có giàu thì nước mới mạnh, sự phồn vinh của đất nước không thể tách rời tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân, không thể tách rời xây dựng xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đó không chỉ là mục tiêu, lý tưởng của chủ nghĩa xã hội mà còn là nhân tố bảo đảm vững chắc độc lập dân tộc.

Hai là, kiên định và vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó cũng chính là một nội dung chủ yếu thể hiện bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Để thực hiện điều đó, đối với toàn Đảng mà trước hết là các cấp ủy đảng và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ lý luận phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; trên cơ sở đó phải biết vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương và cơ sở. Có như vậy mới bảo đảm cho lý luận có sức sống trong thực tiễn, khắc phục được khuynh hướng giáo điều, bảo thủ trong cán bộ, đảng viên; thường xuyên coi trọng công tác tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp những vấn đề thực tiễn đặt ra, đồng thời phải biết kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ, năng lực tư duy lý luận; kiên quyết đấu tranh chống mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và những tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, sai trái trong cán bộ, đảng viên. Tiếp tục vận dụng sáng tạo chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”

Ba là, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Đây là những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt cơ bản của Đảng, đồng thời là tiêu chí xác định bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận bản chất giai cấp công nhân, là xóa bỏ tận gốc nguồn sức mạnh của Đảng. Kinh nghiệm các Đảng Cộng sản cho thấy, hễ xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng sẽ trở thành một thứ câu lạc bộ, tạo điều kiện cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái, vô chính phủ hoạt động, cuối cùng làm tan rã Đảng về mặt tổ chức, đi đến thủ tiêu bản thân Đảng. Trong tình hình hiện nay, quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ cần chú ý trên cả hai phương diện là nhận thức đúng và thực hiện tốt. Thực sự coi tập trung là tập trung trí tuệ, tập trung lực lượng, tập trung sức mạnh, tập trung ý chí, tập trung hành động. Nhưng để có được tập trung thì phải đi đôi với dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Thiếu dân chủ, không dân chủ, vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức… thì tập trung chỉ còn lại là tập trung quan liêu. Ngược lại, dân chủ không gắn với tập trung sẽ trở thành dân chủ vô tổ chức, vô kỷ luật, mất kỷ cương. Đại hội XIII của Đảng chỉ ra : “Trong những năm tới  phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[1]. Đây là vấn đề trở nên thực sự cần thiết để giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng hiện nay.

Bốn là, thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Bản chất giai cấp công nhân của Đảng được biểu hiện sinh động, cụ thể, rõ ràng và dễ thấy, nhất là thông qua đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng hiện nay bên cạnh những mặt tích cực, tiến bộ vẫn đang được giữ vững và phát huy thì một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm đường lối, chính sách của Đảng, giảm sút lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hóa biến  chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, quản lý doanh nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ. Vì vậy, quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là tấm gương sáng về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng là vấn đề trở nên cấp thiết để giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng hiện nay.

Năm là, củng cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Sức mạnh của Đảng được bắt nguồn từ nhân dân. Nhờ có cơ sở xã hội sâu rộng trong nhân dân mà Đảng ta được nuôi dưỡng, được bảo vệ và trưởng thành như ngày nay. Liên hệ mật thiết với nhân dân là vấn đề sống còn của Đảng Cộng sản, nếu cắt đứt mối liên hệ này, Đảng không còn cơ sở để tồn tại. V.I.Lênin từng cảnh báo hai nguy cơ lớn nhất đối với một Đảng cầm quyền là sai lầm về đường lối và xa rời quần chúng nhân dân. Đảng Cộng sản muốn thực hiện được mục tiêu lý tưởng của mình thì phải củng cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống, thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng phải thể hiện được vấn đề đó trong toàn bộ hoạt động của mình.

Sáu là, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại.

Đây là một trong những nhân tố bảo đảm thắng lợi và là một bài học chiến lược của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo kháng chiến, mãi mãi giữ nguyên giá trị. Ngày nay trong sự nghiệp đổi mới đoi hỏi chúng ta phải phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực, thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế; tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững, trên cơ sở giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó cũng chính là nhân tố cơ bản giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng hiện nay.

                                            

 



[1] Đảng cộng sản Việt Nam, văn kiện ĐHĐ toàn quốc lần thứ XIII, Nxb CTQG, H.2021, tập 1, tr.180

Nhận thức đúng những luận điệu xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng của các thế lực thù địch

 

Từ khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, hệ thống chủ nghĩa xã hội tan rã, các thế lực thù địch không ngừng thực hiện âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong khi chúng đang đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới, bên cạnh những thuận lợi, thời cơ thì cũng xuất hiện những khó khăn, thách thức. Những khó khăn, thách thức đó, một mặt do những vấn đề mới, những mâu thuẫn mới nảy sinh khi công cuộc đổi mới ngày càng đi vào chiều sâu; mặt khác, do những hạn chế, yếu kém, khuyết điểm chưa được khắc phục kịp thời, đồng thời tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Tình hình khách quan đó đã tác động đến nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Một bộ phận cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu, bản lĩnh chính trị không vững vàng, dao động về tư tưởng, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin; tình trạng nhạt đảng, xa rời chính trị, phai nhạt lý tưởng đã và đang diễn ra. Một số cán bộ, đảng viên, thậm chí cả cán bộ cao cấp mất lòng tin vào chủ nghĩa Mác - Lênin, vào lý tưởng xã hội chủ nghĩa, giảm sút ý chí chiến đấu, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Nhận thức của không ít cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, không phân biệt đúng - sai ở tầm quan điểm về những vấn đề lớn như đánh giá về bản chất của thời đại, về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội, chủ  nghĩa Mác - Lênin, về nguyên nhân sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu, về thời kỳ quá độ và định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, về vai trò của kinh tế tư nhân, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... bên cạnh đó, những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch như: Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX - thời đại của nền văn minh cơ khí, còn bây giờ, thế kỷ XXI - thời đại của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế tri thức, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế nên không còn thích hợp nữa; rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là sản phẩm của Việt Nam mà du nhập từ phương tây nên không phù hợp với điều kiện Việt Nam... đã tác động đến tư tưởng, nhận thức của một số người.

Những luận điệu đó xét cho cùng là để hậu thuẫn, biện hộ cho những kẻ cơ hội chính trị. Bởi, đứng trên quan điểm khách quan mà xem xét, có thể khẳng định: Một số luận điểm cụ thể của C. Mác và Ph. Ăngghen, V.I. Lênin ra đời cách đây rất lâu, không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay, đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua hoặc bị  nhận thức sai lầm nên cần nhận thức lại cho đúng, song những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh thần khoa học, cách mạng và biện chứng của nó vẫn giữ nguyên giá trị. Họ không thấy được rằng, hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà chủ nghĩa Mác - Lênin nêu lên là không thay đổi, vẫn luôn có giá trị bền vững, lâu dài. Họ cũng không thấy hoặc cố tình không thấy rằng trong hơn 30 năm đổi mới, Đảng ta luôn có sự phát triển về tư duy lý luận, luôn khẳng định sức sống, giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời loại bỏ những nhận thức không đúng, ấu trĩ, giáo điều, chủ quan, nóng vội hoặc duy ý chí về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chủ nghĩa xã hội, phân biệt những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin với những luận điểm cụ thể của các ông gắn liền với những hoàn cảnh cụ thể lúc đó mà sau này đã bị lịch sử vượt qua. Họ cũng không thấy rằng, thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với điều kiện lịch sử mới ở Việt Nam trên một loạt vấn đề. Chẳng hạn như: vấn đề mục tiêu và đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ; xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; về phát triển con người, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế... Không có sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin thì không có những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà chúng ta đã đạt được qua hơn 30 năm đổi mới.

Trong số những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ có các thế lực thù địch, cơ hội chính trị mà có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên dao động về ý thức hệ, về niềm tin, về lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Có người đòi sửa đổi Cương lĩnh của Đảng theo hướng đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng (chỉ giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh), chỉ giữ lại mục tiêu độc lập dân tộc, bỏ mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Những ý kiến phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin đã hiểu không đúng bản chất, nội dung của chủ nghĩa Mác - Lênin, quy chụp và áp đặt chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ thiên về đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản, bạo lực trấn áp. Để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, họ đem đối lập một cách giả tạo chủ nghĩa Mác - Lênin với dân tộc (họ nói: “cứ nhắm mắt theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì phản bội dân tộc”, hoặc cứ “theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì không bảo vệ được chủ quyền quốc gia”); họ còn đem đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với sự phát triển của đất nước (họ nói “Đảng coi trọng chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không coi trọng sự phát triển”).

Những quan niệm này hoàn toàn không hiểu hoặc cố tình phủ nhận rằng, trước đây chỉ khi tìm đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng giai cấp lao động và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nhận thức, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin để đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, nhờ đó mới có thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945, đánh thắng thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Đúng như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: chủ nghĩa Mác - Lênin là cái “cẩm nang thần kỳ”, “mặt trời chói lọi” soi sáng con đường cách mạng Việt Nam, con đường phát triển đất nước. Vì vậy, nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là một trong những nội dung quan trọng để có cơ sở lý luận khoa học đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

                                                                              

VAI TRÒ CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN VÀ TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI CỦA ĐẢNG TA

 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ to lớn, vai trò và vị thế cao như ngày nay. Từ một nước nhược tiểu, nghèo đói, ngày nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, nâng cao, nhiều thành tựu về phát triển kinh tế - xã hội được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao”.

Cơ đồ, vai trò và vị thế của Đất nước như vậy là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam, dưới ánh sáng soi đường của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế mà hiện nay nhiều thế lực thù địch lợi dụng các trang mạng xã hội rêu rao, nói xấu, xuyên tạc sự vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào tình hình thực tiễn đất nước của Đảng ta; phủ nhận kết quả Đại hội Đảng lần thứ XIII; phản đối chế độ một đảng ở Việt Nam; tô hồng chế độ tư bản chủ nghĩa; kêu gọi “thay đổi” con đường phát triển đất nước… Tất cả đều là những chiêu bài đã cũ rích, những luận điệu thối nát, trò “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là thành tựu tư tưởng vĩ đại của con người, do C. Mác và Ph. Ăngghen đặt nền móng tại Đức vào khoảng đầu thế kỷ XIX; được V.I. Lênin kế tục, bảo vệ và phát triển từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX tại Nga. Đây là học thuyết khoa học, cách mạng và nhân văn duy nhất đề ra mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người cũng như chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức nhằm đạt được mục tiêu đó. Mác đã luận giải một cách khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản, về khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa và chỉ ra con đường đấu tranh cách mạng để giành chính quyền về tay nhân dân... Lênin đã bổ sung, phát triển lý luận của Mác - Ăngghen để hình thành nên Chủ nghĩa Mác - Lênin.

Kế thừa những thành tựu lý luận vĩ đại của Mác, Ăngghen và Lênin, trên cơ sở tiếp thu các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cùng tinh hoa văn hóa nhân loại, Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở nước ta. Người đã giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa quốc gia và quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi to lớn trên khắp các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại. Hồ Chí Minh đã sáng tạo phương pháp cách mạng, chỉ ra lực lượng cách mạng và xây dựng các tổ chức cách mạng khoa học, triệt để trên tinh thần “Nước lấy dân làm gốc” và phát huy sức mạnh tổng hợp, của bạo lực chính trị với bạo lực vũ trang, của truyền thống và hiện đại, của dân tộc với quốc tế...

Dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi vẻ vang trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ chỗ khẳng định Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991), Đảng đã bổ sung tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng và khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Văn kiện Đại hội XII yêu cầu toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải: Kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đó là lời khẳng định giá trị vững bền và ý nghĩa to lớn của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Có thể nói, công cuộc đổi mới ở nước ta thực chất là sự kế thừa và phát triển sáng tạo bản chất tư tưởng cách mạng và khoa học của Mác, Lênin và Hồ Chí Minh vào thực tiễn. Nhờ có đổi mới, kinh tế phát triển năng động với mức tăng trưởng khá; môi trường chính trị, văn hóa, xã hội ổn định và phát triển; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng… đó là những minh chứng sinh động, khẳng định kiên định và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam./.

 

ĐẨY MẠNH NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN, TỔNG KẾT THỰC TIỄN TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA

 

Để đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong Quân đội cần phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn; phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, phương tiện truyền thông, lực lượng đấu tranh chuyên sâu và hệ thống thiết chế văn hóa. Các viện nghiên cứu, học viện, nhà trường, các cơ quan chức năng, đội ngũ các nhà khoa học trong Quân đội cần triển khai các đề tài, công trình nghiên cứu lý luận, nhất là những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH ở nước ta, về sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội,...; quán triệt và thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 09/02/2018 của Ban Bí thư về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển CN Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới” Chỉ thị 124-CT/QUTW ngày 31/3/2011 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong giai đoạn mới. Thường xuyên bám sát đời sống mọi mặt tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, chủ động dự báo sự vận động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, những khuynh hướng, tình huống có thể xảy ra đối với sự phát triển của đất nước. Trong đó, dự báo nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị trong nội bộ là việc làm rất quan trọng. Việc nghiên cứu, dự báo cần được thực hiện ở các quy mô khác nhau, ở nhiều loại hình cơ quan, đơn vị; qua đó, đề xuất với lãnh đạo, chỉ huy những biện pháp phòng, chống, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “DBHB” của các thế lực thù địch. Các đơn vị cần coi trọng việc sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút ra những bài học kinh nghiệm trong đấu tranh trên lĩnh vực TT,VH. Đồng thời, phát huy vai trò của các cơ quan báo chí, xuất bản, phương tiện truyền thông, các đơn vị nghệ thuật Quân đội trong đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch; tạo ra nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về đề tài chiến tranh cách mạng, về lực lượng vũ trang,... có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao. Toàn quân cần tiếp tục củng cố và nhân rộng lực lượng đấu tranh trên mạng; coi trọng những người có bản lĩnh chính trị, trình độ lý luận, chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có khả năng diễn đạt và dũng khí, quyết tâm đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước. Bên cạnh đó, cần thường xuyên quan tâm nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ lý luận và chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ các nhà khoa học xã hội và nhân văn quân sự của các học viện, nhà trường, cơ sở nghiên cứu và các phóng viên, biên tập viên ở các cơ quan báo chí quân đội. Đồng thời, quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, có cơ chế, chính sách bảo vệ, khen thưởng phù hợp đối với những lực lượng làm nhiệm vụ trực tiếp đấu tranh chống “DBHB” trên lĩnh vực TT,VH; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, tạo sự liên kết, phối hợp, hỗ trợ chặt chẽ, hiệu quả; khắc phục tình trạng “mạnh ai nấy làm” hoặc phối hợp, hiệp đồng mang tính “thời vụ”. Các đơn vị phải thường xuyên quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho CB,CS; phát huy có hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa, tạo môi trường văn hóa quân sự trong sạch, lành mạnh trong từng cơ quan, đơn vị.

 

TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐẤU TRANH CHỐNG LẠI ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRÊN LĨNH VỰC TƯ TƯỞNG, VĂN HÓA TRONG QUÂN ĐỘI

 

Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng Quân đội “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mới. Để Quân đội hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, là biện pháp cơ bản để Quân đội đấu tranh có hiệu quả chiến lược “DBHB” của các thế lực thù địch và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Do vậy, các cấp cần phải giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội; đồng thời, tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) và Nghị quyết 513-NQ/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) “Về tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy, gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”. Với phương châm gắn chặt giữa “xây” và “chống”, lấy “xây” là chính, cấp ủy các cấp cần tập trung lãnh đạo xây dựng nội bộ từng đơn vị vững mạnh về mọi mặt; trong đó, chú trọng gắn xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng cấp ủy với xây dựng đội ngũ cán bộ chủ trì, tạo nền tảng vững chắc trong đấu tranh phòng, chống “DBHB” trên lĩnh vực TT,VH. Cùng với đó, các đơn vị cần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh có hiệu quả với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng, cửa quyền…, tăng cường công tác bảo vệ nội bộ, không để xảy ra hiện tượng cán bộ, đảng viên và quần chúng trong cơ quan, đơn vị bị kẻ địch lôi kéo, móc nối; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những quan điểm, tư tưởng sai trái thẩm lậu vào đơn vị.

Một trong những vấn đề quan trọng hiện nay là, cấp ủy các cấp cần gắn giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đạo đức cách mạng với thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, Thường vụ Quân ủy Trung ương về vấn đề xây dựng Đảng hiện nay, nhất là Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết số 847-NQ/TW ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới; Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 16/6/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XIII) về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong tình hình mới; trọng tâm là khắc phục những hạn chế, khuyết điểm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, công tác cán bộ. Đồng thời, thực hiện nghiêm túc các quy chế, quy định về quản lý nội bộ, quản lý tài liệu và bảo vệ chính trị nội bộ; không để các ấn phẩm văn hoá độc hại, tài liệu phản động thẩm lậu vào đơn vị; quản lý chặt chẽ thông tin qua mạng internet, điện thoại di động, không để CB,CS bị tác động bởi những diễn đàn xấu độc.