Thứ Ba, 2 tháng 7, 2024

Đâu tranh phản bác quan điểm sai trái tác động tiêu cực đến xây dựng ý thức xã hội

 ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC QUAN ĐIỂM SAI TRÁI TÁC ĐỘNG TIÊU CỰC ĐẾN XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI


Ý thức xã hội là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc. Hiện nay, các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền những quan điểm sai trái về công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó chúng tấn công trực diện vào hạt nhân tư tưởng cốt lõi của ý thức xã hội mới. Bài viết phân tích những nội dung cơ bản của xây dựng ý thức xã hội mới, vạch trần một số luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, đồng thời đề xuất các giải pháp đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái tác động tiêu cực đến xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta.


1. XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM 


Đời sống vật chất và tinh thần là hai mặt không thể thiếu và cùng tồn tại song hành trong đời sống xã hội. Giữa chúng có sự gắn bó, tác động, tương hỗ, làm phong phú cho nhau song cũng có thể kìm hãm nhau trong quá trình phát triển xã hội. Ý thức xã hội mới với tư cách là một bộ phận quan trọng của đời sống tinh thần, nếu được xây dựng và phát huy tốt có thể chuyển hóa thành nguồn lực, sức mạnh và động lực để phát triển kinh tế, ổn định xã hội, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công cuộc xây dựng CNXH thành công, bên cạnh chú trọng phát triển kinh tế, xây dựng nền tảng vật chất, cần hết sức quan tâm xây dựng ý thức xã hội mới, tạo dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.


Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Ý thức xã hội mới Việt Nam có khởi nguồn từ ý thức cách mạng của giai cấp vô sản, đã được khái quát trong lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; là sự kế thừa tư tưởng xã hội nhân văn, tốt đẹp, vì sự phát triển của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh.


Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Tại Đại hội XIII, một trong năm bài học kinh nghiệm được Đảng ta rút ra qua nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XII và cũng là quan điểm chỉ đạo hàng đầu trong thực hiện đường lối đổi mới trong giai đoạn tới là: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”.


Nhìn từ góc độ tâm lý xã hội, ý thức xã hội mới chính là tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán, ước muốn, khát vọng, niềm tin... của cộng đồng dân tộc Việt Nam vào sự nghiệp cách mạng, vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội, những đổi thay của cuộc sống hằng ngày... Ý thức xã hội của cộng đồng dân tộc Việt Nam hiện nay còn là kết quả của quá trình củng cố và khơi dậy tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn, ý chí, khát vọng hùng cường của dân tộc, tinh thần đoàn kết, đồng thuận của cộng đồng, niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc...


Nhìn từ góc độ các hình thái ý thức xã hội, xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam cũng chính là việc xây dựng, bồi đắp ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức... cho người dân trong xã hội.


Từ góc nhìn giai cấp - dân tộc, ý thức xã hội mới Việt Nam là ý thức cách mạng của giai cấp công nhân và cộng đồng dân tộc Việt Nam, hình thành và phát triển trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là sự kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, phản ánh lợi ích của cộng đồng dân tộc; đồng thời, cũng là sự kế tục tư tưởng xã hội cao đẹp trong lịch sử tư tưởng của nhân loại.


Không thể phủ nhận, tinh thần, tư tưởng, niềm tin, khát vọng là yếu tố quan trọng tạo nên ý chí, lòng quyết tâm, là tiền đề, cơ sở để có hành động thống nhất, mạnh mẽ, hiệu quả. Thực tế cho thấy, trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam, chính khát vọng thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc, cùng niềm tin sắt son vào Đảng, vào Bác Hồ và con đường cách mạng đã trở thành nguồn lực tinh thần, kiến tạo sức mạnh để dân tộc ta chiến thắng kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước và xây dựng xã hội mới.


Với tinh thần đó, ý thức xã hội mới là bộ phận quan trọng, góp phần định hướng tư tưởng chính trị, hệ giá trị văn hóa, đạo đức... trong đời sống tinh thần cộng đồng dân tộc Việt Nam. Không chỉ có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần, ở góc độ khác, ý thức xã hội còn còn trở thành nguồn lực đặc biệt, là động lực nội sinh của dân tộc, tạo thành sức mạnh trong quá trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.


GS Joseph Nye, người khởi nguồn cho lý thuyết sức mạnh mềm đã nói về Việt Nam rằng: thực chất, Việt Nam đã chiến thắng trong hai cuộc chiến với hai đế quốc lớn trong thế kỷ XX nhờ nhiều vào “sức mạnh mềm”. Mặc dù đối phương có vũ khí và tiền bạc vượt trội, Việt Nam đã vượt qua và nhận được sự ủng hộ của bạn bè quốc tế nhờ “vũ khí mềm” là chính nghĩa, khát vọng độc lập, thống nhất và lòng yêu nước. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.


2. NHẬN DIỆN NHỮNG LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM


Luận điệu xuyên tạc nhằm phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


Để phủ nhận tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận của hệ tư tưởng chính trị Việt Nam - hệ tư tưởng XHCN, các thế lực thù địch đã tuyên truyền nhiều luận điệu sai trái, xuyên tạc. Chẳng hạn như: chủ nghĩa Mác chỉ là sản phẩm của nền công nghiệp cơ khí thế kỷ XIX, không thể áp dụng trong nền khoa học và công nghệ hiện đại với quy mô toàn cầu hiện nay; chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ những điều kiện kinh tế - xã hội của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX nên không còn phù hợp với thực tiễn hiện nay; chủ nghĩa Mác là sản phẩm của nền công nghiệp phương Tây, không phù hợp với văn hóa phương Đông và Việt Nam; sự sụp đổ của mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng rõ nhất cho sự sai lầm và tính chất ảo tưởng của học thuyết Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng cơ sở, do vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không thể vận dụng vào Việt Nam...


Từ những luận điệu sai trái đó, các thế lực thù địch cho rằng, không thể lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - thứ học thuyết đã trở nên lỗi thời, lạc hậu, chỉ phù hợp với thế kỷ XIX, XX, đặc biệt là chủ nghĩa Mác chỉ phù hợp với nền văn minh phương Tây... làm nền tảng cho hệ tư tưởng chính trị của Việt Nam - một quốc gia phương Đông trong thế kỷ XXI.


Luận điệu xuyên tạc về những chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng CNXH


Bằng nhiều cách thức, các thế lực thù địch phủ nhận tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay. Chúng cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, “bảo thủ” duy trì con đường đi lên CNXH là “trái với quy luật”, “không phù hợp với thời đại mới”...


Lợi dụng những hiện tượng tiêu cực, những vấn đề bất ổn còn tiềm ẩn trong đời sống xã hội; tính chất phức tạp của thời kỳ quá độ có sự đan xen, cùng tồn tại giữa cái cũ và cái mới, cái tốt và cái xấu; lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện tham ô, tham nhũng, quan liêu, xa dân của một bộ phận cán bộ, đảng viên..., các thế lực thù địch đã phủ nhận toàn bộ thành quả to lớn chúng ta đạt được trong hơn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước.


Trong khi cả hệ thống chính trị và nhân dân Việt Nam đang quyết liệt thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng thì chính các hoạt động này bị các thế lực thù địch xuyên tạc thành các hoạt động “thanh trừng phe nhóm”, “đấu đá nội bộ”... Nhiều quan điểm trong văn kiện của Đảng cũng bị bóp méo, xuyên tạc. Chúng xuyên tạc vấn đề “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” là duy tâm chủ quan, trống rỗng, phi thực tế, phản khoa học,...


Những luận điệu chống phá ấy không chỉ nhằm bóp méo tính đúng đắn, khoa học, cách mạng trong lý luận của Đảng mà còn bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước; gây mất đoàn kết trong cộng đồng, các tầng lớp dân cư, bào mòn niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp cách mạng. Thực trạng này đã được đánh giá khái quát: “Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn này ở chỗ chúng tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, hoang mang, dao động, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tạo tâm lý bức xúc, chống đối trong xã hội”. Điều đó ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam trên nhiều cấp độ, cả về ý thức lý luận cũng như ý thức xã hội thông thường.


3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHẢN BÁC CÁC LUẬN ĐIỆU CHỐNG PHÁ, XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC ĐẾN QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG Ý THỨC XÃ HỘI MỚI VIỆT NAM


Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng ý thức xã hội mới là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, trong đó đấu tranh phản bác luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ vừa có tính lâu dài, vừa thường xuyên và quyết liệt trước mắt. Để thực hiện hiệu quả nhiệm vụ đó, cần tập trung vào các giải pháp sau:


Thứ nhất, xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam hiện nay cần gắn với xây dựng nền kinh tế mới, nền văn hóa mới và con người mới, từng bước thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đó là nền tảng quan trọng nhất phủ định những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, củng cố niềm tin của nhân dân.


Lý luận nhận thức của triết học Mác - Lênin chỉ rõ, để nhận biết nhận thức, tư duy, lý luận cũng như các quan điểm của con người là đúng hay sai, phản ánh đúng hiện thực khách quan hay duy tâm chủ quan cần dựa vào thực tiễn - đó là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để kiểm tra chân lý. Bởi lẽ, chỉ có thực tiễn mới có thể vật chất hóa được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó có thể chứng minh, kiểm nghiệm được nhận thức, chỉ dẫn đó là đúng đắn hay sai lầm. Những nhận định cũng như các chỉ dẫn lý luận hay những định hướng trong các văn kiện của Đảng hoàn toàn có thể nhận biết được tính đúng đắn, khoa học thông qua việc áp dụng vào quá trình cải biến xã hội.


Trên thực tế, sau đại dịch, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong quý I năm 2022 tăng rõ rệt, GDP đạt 92,175 tỷ USD, tăng 5,03% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc (4,8%) và Xinhgapo (3,4%). Bên cạnh đó, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam liên tục tăng trong bảng xếp hạng của Liên hợp quốc (từ vị trí 128/187 năm 2011 lên vị trí 117 năm 2020).


Hệ thống chính trị cũng như cộng đồng người dân Việt Nam luôn nỗ lực để phát triển đất nước, con người và đã đạt được những thành tựu lớn, vị thế đất nước được nâng cao là điều không thể phủ nhận. Các thành tựu cụ thể đạt được trên các lĩnh vực trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước là bằng chứng hùng hồn, chứa đựng sức mạnh to lớn, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, xóa tan những cái nhìn hoài nghi, qua đó củng cố nền tảng tư tưởng của Đảng một cách vững chắc.


Thứ hai, tấn công trực diện nhằm phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.


Cần có những bài viết trực tiếp, tấn công trực diện với những dẫn chứng sinh động, các luận điểm đanh thép, cách tiếp cận thuyết phục để phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, khẳng định tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội XIII khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”.


Hiện nay, trên nhiều ấn phẩm báo, tạp chí và phát thanh, truyền hình đã xây dựng các chuyên mục định kỳ đăng tải các bài viết vạch trần bản chất của các luận điệu, quan điểm mà các thế lực thù địch, phản động tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH ở Việt Nam. Những hoạt động thiết thực này đã có sức lan tỏa cao, tạo ra những ảnh hưởng tích cực trong việc định hướng dư luận xã hội trong và ngoài nước.


Bên cạnh đó, cần tăng cường xử lý tình trạng phát tán, lan truyền tin giả, xấu độc trên các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Tiktok... Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, đẩy lùi suy thoái tư tưởng, đạo đức cần được thực hiện thường xuyên. Trong cuộc đấu tranh đó cần phát huy tối đa vai trò của người dân để phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, bảo vệ sự nghiệp cách mạng.


Thứ ba, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục đại chúng, tăng cường cung cấp thông tin chính thức một cách kịp thời, hiệu quả cả ở trong nước cũng như nước ngoài, qua đó hạn chế tác động tiêu cực của những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.


Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, xây dựng đời sống ấm no cho người dân là một quá trình lâu dài, là mục tiêu trung tâm trong tiến trình cách mạng. Dù đạt được những thành tựu to lớn, song quá trình đổi mới đất nước còn một số bất cập, hạn chế. Vì vậy, cần nắm chắc tình hình tư tưởng, xử lý thông tin, định hướng dư luận kịp thời, tránh để các đối tượng cơ hội, thù địch lợi dụng để xuyên tạc, chống phá. Cần tận dụng triệt để internet, mạng xã hội, đa dạng hóa hình thức giáo dục, tuyên truyền, động viên, cổ vũ các phong trào thi đua yêu nước, gương người tốt, việc tốt, các nhân tố tích cực trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.


Cần dự báo sát, chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, kịp thời xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm sự thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận trong xã hội... Chủ động cung cấp thông tin chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội.


Thứ tư, áp dụng các biện pháp pháp lý trong công tác đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng, xây dựng ý thức xã hội mới.


Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, bổ sung, hoàn thiện các quy định pháp luật liên quan đến phòng, chống thông tin xấu, độc trên mạng xã hội, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đẩy mạnh thực hiện Luật An ninh mạng là những căn cứ pháp lý quan trọng để phòng ngừa, đấu tranh với các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải các thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt tới dư luận xã hội.


Xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam là một quá trình lâu dài, vừa “xây” vừa “chống”, trong đó, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái là một trong những giải pháp cơ bản, là nội dung không thể thiếu để xây dựng ý thức xã hội mới Việt Nam. Đây là cuộc đấu tranh đặc biệt, cần phát huy tính tích cực, chủ động của các chủ thể mà hạt nhân là Đảng, Nhà nước, cấp ủy các cấp, đồng thời không thể thiếu sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không phải là việc riêng của Đảng mà còn là việc chung, là trách nhiệm chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”./.



 Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không chỉ mở lối, chỉ đường giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, mà còn là cơ sở, nền tảng để dân tộc ta, đất nước ta phát triển, trường tồn. Vì vậy, vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề quan trọng, cấp thiết trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam.

Thấu hiểu cảnh nước mất, nhà tan, cả dân tộc bị dìm trong lầm than, nô lệ, ngày 05/ 6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân thay vì ngồi chờ ngoại viện như các vị tiền bối. Và đích đến đầu tiên của Người là mẫu quốc để “... xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về để giúp đồng bào chúng ta”1.

Nguyễn Ái Quốc phát biểu tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, năm 1920. Ảnh tư liệu

Với hành trình đó, đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, lấy tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đã gửi “Bản yêu sách 8 điểm” tới Hội nghị Versailles, đòi những quyền dân tộc tự quyết, nhưng không được chấp nhận. Người hiểu rằng: “... muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”2. Trong hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đi đến nhiều nơi, nghiên cứu, tìm hiểu nhiều trào lưu, nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, như: cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789),... và Người phát hiện đó là “những cuộc cách mạng không đến nơi”, chỉ phục vụ lợi ích cho thiểu số người giàu, còn giai cấp công nhân và các giai tầng khác vẫn sống trong cảnh nghèo khổ.

Sau gần 10 năm tìm kiếm, khảo nghiệm, tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc được tác phẩm “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin và nhận thấy: “Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!”3. Điều này làm chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở đây lý luận cách mạng, khoa học - con đường cứu nước đúng đắn, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, giải phóng con người một cách triệt để nhất.

Với trải nghiệm thực tế và tư duy độc lập, sáng tạo, Nguyễn Ái Quốc luôn nuôi dưỡng ý chí đấu tranh và phát triển đất nước theo con đường mới - con đường xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1921 - 1930 là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc ra sức tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, bắt đầu một thời kỳ hoạt động cách mạng sôi nổi, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác - Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước Xô-viết - quê hương của V.I.Lênin vĩ đại. Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên - tổ chức cách mạng có khuynh hướng cộng sản; ra báo Thanh Niên để truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, đồng thời mở các lớp huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Những bài viết của Người được tập hợp, xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh có giá trị lý luận sâu sắc, đem đến cho dân tộc ta con đường cách mạng đúng đắn, đấu tranh giải phóng khỏi ách nô lệ, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sau khi chuẩn bị cẩn trọng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mở ra bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo sự thắng lợi của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta.

Sau 30 năm bôn ba trở về nước, tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 tại Pác Bó (Cao Bằng), quyết định “thay đổi chiến lược” cách mạng giải phóng dân tộc: đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu; sáng lập Mặt trận Việt Minh để tổ chức vận động, tập hợp lực lượng cách mạng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc; tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng; chuẩn bị lực lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hưởng ứng Lời kêu gọi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với quyết tâm: “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, tháng Tám năm 1945 nhân dân ta đã nhất tề đứng lên Tổng khởi nghĩa, giành chính quyền, thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi vĩ đại đó là thắng lợi của hành trình khát vọng thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - “kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”4.

Kế thừa, vận dụng giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Đảng ta luôn quan tâm nghiên cứu, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn; đồng thời, vận dụng sáng tạo trong suốt tiến trình cách mạng nước ta cũng như trong từng giai đoạn lịch sử, được thể hiện trên một số vấn đề cốt lõi.

Thứ nhất, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây là sự nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh đạo cách mạng qua nhiều giai đoạn khác nhau. Khi Đảng ra đời, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc xác định rõ mục tiêu: “Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập”5 để đi tới xã hội cộng sản. Với tư tưởng xuyên suốt là độc lập dân tộc, trong giai đoạn 1939 - 1945, các hội nghị Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và độc lập trên hết, Tổ quốc trên hết. Từ đó đoàn kết, phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc Việt Nam làm nên thắng lợi của cách mạng Tháng Tám bằng tinh thần, ý chí “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nguồn: tapchicongsan.org.vn

Bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho chủ nghĩa xã hội, Đảng ta xác định bảo vệ vững chắc nền độc lập mới giành được, tiếp tục cách mạng giải phóng dân tộc, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Với đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi với Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, được thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong thời kỳ này, chủ nghĩa xã hội trở thành mục tiêu trực tiếp, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc là nhiệm vụ tối cao, huy động mọi giai cấp, tầng lớp để thực hiện với tinh thần “Mỗi người làm việc bằng hai”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”,... bảo đảm chi viện cho chiến trường miền Nam đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.

Đất nước hoàn toàn được độc lập, thống nhất. Từ năm 1975 đến nay, nhiệm vụ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được thể hiện trong việc xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới toàn diện đất nước từ năm 1986, Đảng ta đổi mới tư duy, từng bước xác định đúng mô hình đặc trưng của chủ nghĩa xã hội với 6 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (tháng 6/1991) và 8 đặc trưng trong Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bổ sung, phát triển (2011). Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;...”6. Như vậy, sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể hiện ngay trong đường lối lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực sau gần 40 năm đổi mới đất nước. Điều đó khẳng định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thấm nhuần sâu sắc giá trị của lý luận cách mạng, khoa học, Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, đẩy mạnh, xây dựng chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước. Trong những năm qua, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức nhiều hội nghị, ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) về “Một số vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đã có sự bổ sung, đổi mới rất căn bản về phạm vi và nội dung, bao gồm toàn bộ các vấn đề “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Tại các nhiệm kỳ đại hội của Đảng, nhất là Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “...phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”7. Đồng thời, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Những quy định của Đảng được thực hiện quyết liệt từ Trung ương đến các địa phương với quan điểm kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút mà không chờ đến hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng được thực hiện kịp thời, nghiêm minh, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng ở các cấp. Tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã thi hành kỷ luật 105 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 22 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương Đảng8. Có thể khẳng định rằng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, góp phần quan trọng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ ba, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường trong công tác quốc phòng, an ninh. Quán triệt sâu sắc tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn xác định củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ rất quan trọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, làm cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”9. Theo đó, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được thực hiện bằng sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý điều hành của Nhà nước; luôn kiên định nguyên tắc chiến lược, linh hoạt về sách lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán thực hiện chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, thực hiện “bốn không”, được cụ thể hóa thông qua hệ thống các văn bản, như: Luật Quốc phòng, Sách Trắng quốc phòng Việt Nam 2019, Chiến lược Quốc phòng Việt Nam, Chiến lược Quân sự Việt Nam, Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, v.v. Hoạt động đối ngoại quốc phòng được thực hiện linh hoạt, mềm dẻo dựa trên nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tăng cường mở rộng hợp tác quốc phòng với tất cả các nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng với hơn 100 quốc gia, bao gồm 5 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và các cường quốc trên thế giới, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, góp phần hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.

Nguồn: TS. DƯƠNG MINH HUỆ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

 Nghệ An ban hành Chỉ thị tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh

Quang cảnh phiên họp thường kỳ tháng 5-2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An. Ảnh: Thành Duy

Theo đánh giá của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Nghệ An, thời gian qua, nhất là từ khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng” đến nay, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất, quyết liệt, đồng bộ của Ban Thường vụ Tỉnh ủy và cấp ủy đảng các cấp, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn toàn tỉnh đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.

Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng không ngừng được nâng cao; tổ chức bộ máy của các cơ quan trong hệ thống chính trị ngày càng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phương thức lãnh đạo của Đảng không ngừng được đổi mới; hoạt động của chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội có chuyển biến tích cực, rõ nét; chất lượng đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp được nâng lên và có bước trưởng thành, tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên đều có ý thức rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh còn một số hạn chế, khuyết điểm đó là: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp ủy, tổ chức đảng còn hạn chế; thực hiện quy chế làm việc chưa nghiêm, thiếu dân chủ, lạm quyền hoặc buông lỏng lãnh đạo, vẫn còn tình trạng chưa thực hiện nghiêm túc chủ trương, nghị quyết, quy định của Đảng. Công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của chính quyền các cấp, nhất là cấp cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu, hiệu lực, hiệu quả thấp. Phương thức hoạt động của mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội có nơi, có lúc chậm đổi mới, thiếu linh hoạt và chưa sâu sát thực tiễn. Một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện thiếu tâm huyết, trách nhiệm không cao, chưa thực hiện tốt vai trò nêu gương, còn đùn đẩy, né tránh việc khó, việc phức tạp... 

Để phát huy những ưu điểm, kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung lãnh đạo chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các nội dung sau:

Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; tập trung xây dựng Đảng về đạo đức gắn với đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu; thực hiện nghiêm Quy định số 144- QĐ/TW ngày 9-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Thường xuyên nắm bắt, đánh giá tình hình, diễn biến tư tưởng, định hướng thông tin cho cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận, quyết tâm trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị.

Đẩy mạnh việc sắp xếp tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tăng cường công tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp có đủ phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.

Tập trung lãnh đạo xây dựng bộ máy chính quyền các cấp chuyên nghiệp, hiệu lực, hiệu quả, thực sự của dân, do dân, vì dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc của các cấp ủy đảng.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật đảng, pháp luật của Nhà nước, việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao của cấp ủy, cơ quan, đơn vị, của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm, kiên quyết đưa ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có hành vi cản trở, gây phiền hà, nhũng nhiễu người dân và doanh nghiệp; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, tham ô, lãng phí...

 Không thể xuyên tạc tinh thần quốc tế trong sáng của những chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam

Thời gian qua, cùng với những định kiến thiếu thiện cảm trên các lĩnh vực, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị không ngừng xuyên tạc, chống phá chủ trương hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng ngày càng sâu rộng của Đảng, Nhà nước ta, trong đó có nhiệm vụ Quân đội tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đây là vấn đề không mới nhưng rất nguy hiểm, cần chủ động nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại của Đảng, nhất là quan điểm: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy các cấp toàn quân đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo công tác đối ngoại quốc phòng, đạt nhiều kết quả quan trọng, trở thành điểm sáng trong tổng thể hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế của đất nước. Tiêu biểu là Bộ Quốc phòng đã chủ động tham mưu với Đảng, Nhà nước cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Và chính những chiến sĩ “mũ nồi xanh” ấy bằng những việc làm cụ thể, đã và đang không ngừng tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quốc tế trong sáng; xứng đáng vai trò là những “sứ giả hòa bình”, làm lan tỏa hình ảnh tốt đẹp về Quân đội nhân dân Việt Nam, về đất nước và con người Việt Nam trên trường quốc tế.

Thế nhưng với bản chất phản động, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật. Họ cho rằng: việc cử lực lượng Quân đội tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là không cần thiết và cho đó là việc “ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng”. Hơn thế, họ còn lập luận: chủ trương cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là tham gia liên minh quân sự; hay hoạt động của các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam là sự can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, v.v. Từ suy diễn đó, họ hồ đồ kết luận, việc Quân đội tham gia hoạt động trên là không tuân thủ chính sách quốc phòng “bốn không” của Việt Nam, v.v.

Trước hết, cần khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái; xuyên tạc hoạt động mang đầy ý nghĩa nhân văn trên tinh thần tích cực, chủ động, có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế của Việt Nam. Mục đích của những luận điệu trên không ngoài ý đồ gây nghi ngờ, hoang mang trong nhân dân, hạ thấp uy tín, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, xuyên tạc bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Sâu xa hơn, đó còn là sự chống phá đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; phủ nhận tinh thần quốc tế vô sản trong sáng của Việt Nam, hòng phá hoại nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, làm mất lòng tin của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Bởi vậy, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân cần nêu cao cảnh giác, chủ động nhận diện, vạch trần và kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái đó.

Nữ quân nhân Quân đội nhân dân Việt Nam công tác tại Phái bộ MINUSCA và thiếu niên Cộng hòa Trung Phi. Nguồn: Cục GGHB Việt Nam

1. Minh chứng từ lịch sử

Năm 1939, với tư tưởng chính trị cực hữu, độc tài và đàn áp đối lập,... chủ nghĩa phát xít, đứng đầu là liên minh Đức - Ý - Nhật đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trên khắp các châu lục. Theo số liệu thống kê, chỉ trong 02 năm từ khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, hầu hết các quốc gia ở châu Âu; các quốc gia, vùng lãnh thổ ở Đông Á, Đông Nam Á; các nước và thuộc địa của các nước tư bản châu Âu ở châu Phi đều bị phát xít Đức và đồng minh xâm lược hoặc chấp nhận trở thành “chư hầu” của chủ nghĩa phát xít.

Để ngăn chặn chiến tranh, ngày 01/01/1942, tại Washington, đại diện lãnh đạo 26 quốc gia ký bản “Tuyên bố Liên hợp quốc”, cam kết cùng nhau chống lại chủ nghĩa phát xít trên thế giới. Thực hiện Tuyên bố này, quân đội các nước đồng minh, nhất là Hồng quân Liên Xô đã chiến đấu quả cảm, không những chặn đứng các đợt tiến công của phát xít Đức, mà còn chủ động nắm vững thời cơ thực hành phản công đánh bại quân Đức trên toàn mặt trận và thừa thắng tiến thẳng vào sào huyệt của đế chế Đức, buộc phát xít Đức và đồng minh đầu hàng vô điều kiện. Như vậy, với tinh thần đoàn kết quốc tế trong chiến đấu, các nước đồng minh chống phát xít đã làm nên chiến thắng vĩ đại, chấm dứt cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử loài người, tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa phát xít, lập lại hòa bình trên toàn thế giới. Từ minh chứng lịch sử cho thấy, để giải quyết khủng hoảng, duy trì một thế giới hòa bình và phát triển, cần có sự chung tay, góp sức của tất cả các quốc gia, dù lớn hay nhỏ. Đó cũng là tuyên bố và cam kết của các nước được thể hiện trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945; là một trong những cơ sở cho việc hình thành một cơ chế đặc biệt - hoạt động gìn giữ hòa bình, được Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc triển khai lần đầu tiên vào năm 1948.

Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về tinh thần quốc tế của giai cấp công nhân, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung. Cùng với những tuyên bố ủng hộ sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, chống áp bức, bóc lột, vì hòa bình, tiến bộ xã hội trên thế giới, thì chủ trương “thêm bạn, bớt thù”, “giúp bạn là tự giúp mình”, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới và phương châm chiến lược “kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại” trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rất rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh và luôn là quan điểm nhất quán của Đảng ta.

Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã điện thư gửi đại diện các quốc gia thành viên thường trực Liên hợp quốc, bày tỏ nguyện vọng gia nhập tổ chức quốc tế lớn nhất này. Trong thư, Người viết: “Nhân dân Việt Nam mong muốn hợp tác với Liên hợp quốc vì sự nghiệp tạo ra nền hòa bình lâu dài trên toàn thế giới”1. Cùng với đó là đường lối lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh của Đảng về đoàn kết chiến đấu giữa quân đội và nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; cũng như việc cử các chuyên gia Việt Nam sang giúp nước bạn xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh, v.v. Tinh thần “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”2, là những minh chứng sinh động khẳng định tinh thần đoàn kết quốc tế, tương trợ giúp đỡ vô tư, trong sáng chống kẻ thù chung, khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và phát triển đất nước của ba nước Đông Dương. Đặc biệt, biểu hiện trách nhiệm quốc tế trong sáng, thủy chung của Việt Nam còn được thể hiện khi hàng vạn cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện Việt Nam đã hy sinh xương máu của mình trong cuộc chiến tranh chống lại Tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng-xa-ri, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh đất nước Chùa Tháp từ bên bờ vực của sự diệt vong. Ghi nhận sự đóng góp cao cả này, Chủ tịch Thượng viện Campuchia Hun Sen khẳng định: “Chúng ta có thể hỏi rằng trên thế giới này, có đất nước nào đã giúp nhân dân Campuchia, đặc biệt là giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pôn Pốt và ngăn cản sự quay lại của chúng? Câu trả lời chính là nhân dân và Quân đội Việt Nam,… Bộ đội Việt Nam chính là đội quân nhà Phật”3. Điều đó càng làm sáng tỏ sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa với Bạn và tinh thần quốc tế trong sáng của Quân đội và nhân dân Việt Nam.

2. Cử lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc - chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong bối cảnh mới

Trung tướng Phạm Trường Sơn thăm, làm việc với lực lượng gìn giữ hòa bình của Việt Nam tại Phái bộ UNISFA. Nguồn: qdnd.vn

Kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết quốc tế trong sáng, quán triệt sâu sắc chủ trương, đường lối đối ngoại của Đảng thời kỳ đẩy mạnh hội nhập quốc tế, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã chủ động, tích cực tham mưu với Đảng, Nhà nước thực hiện có hiệu quả vai trò, trách nhiệm của Việt Nam đối với các vấn đề quốc tế mà Việt Nam ký kết; trong đó có việc cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Bằng lộ trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp thực tiễn phát triển của đất nước, tình hình khu vực và thế giới, việc cử lực lượng vũ trang tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc được Việt Nam tiến hành bài bản4, đạt được hiệu quả tích cực, được nhân dân trong nước đồng tình ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Trên cơ sở tuân thủ nguyên tắc: “... Bảo đảm độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; phù hợp với lợi ích quốc gia, dân tộc, điều kiện và khả năng của Việt Nam; tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia; chỉ tham gia hoạt động hỗ trợ khắc phục hậu quả chiến tranh, duy trì hòa bình sau xung đột, vì mục đích nhân đạo trên cơ sở đề nghị của Liên hợp quốc; chỉ triển khai ở quốc gia, khu vực đã được Liên hợp quốc thành lập phái bộ và tại các cơ quan của Liên hợp quốc”5, từ năm 2014 đến tháng 5/2024, Việt Nam đã cử hơn 800 lượt cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình tại các phái bộ của Liên hợp quốc, gồm: Nam Sudan (UNMISS), Cộng hòa Trung Phi (MINUSCA), khu vực Abyei (UNISFA), Phái bộ Huấn luyện của Liên minh châu Âu tại Cộng hòa Trung Phi. Đặc biệt, cùng với cử lực lượng tham gia hình thức cá nhân hoạt động độc lập, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử 02 đội hình đơn vị (gồm: 05 Bệnh viện dã chiến cấp 2 và Đội Công binh số 1, số 2) thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các khu vực ở châu Phi - nơi còn nhiều khó khăn, bất ổn.

Mặc dù hoạt động ở môi trường đặc thù, đa phương cùng nhiều sĩ quan, nhân viên các quốc gia trên thế giới, song bằng tinh thần nhiệt huyết và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực công tác tốt, đội ngũ sĩ quan, nhân viên “mũ nồi xanh” của Quân đội nhân dân Việt Nam luôn khắc phục khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không những được Liên hợp quốc, chỉ huy Phái bộ ở các địa bàn ghi nhận “là hình mẫu” cho nhiều nước khác, mà còn được chính quyền, nhân dân nước sở tại đánh giá cao thông qua việc tích cực tham gia thực hiện nhiều chương trình y tế nhân đạo, cứu trợ thiên tai, cứu hộ, hỗ trợ người dân vùng nông thôn nghèo khó và các trẻ em mồ côi, tàn tật, các dự án phát triển cộng đồng cho người dân bản địa, giúp giảm bớt nghèo đói, cải thiện điều kiện sống. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, tỷ lệ sĩ quan Việt Nam công tác tại các phái bộ Liên hợp quốc đạt xuất sắc và đặc biệt xuất sắc là trên 30% (trong khi đó tỷ lệ bình quân của Liên hợp quốc chỉ là 01% - 02%). Hàng trăm sĩ quan “mũ nồi xanh” của Quân đội nhân dân Việt Nam ở nhiều vị trí, được chỉ huy các phái bộ Liên hợp quốc khen thưởng. Các Bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam với năng lực chuyên môn tốt, tinh thần trách nhiệm cao, luôn là chỗ dựa tin cậy về chăm sóc sức khỏe cho nhân viên Liên hợp quốc tại địa bàn và người dân địa phương. Đội công binh số 1, số 2 sau thời gian triển khai tại Phái bộ An ninh lâm thời của Liên hợp quốc ở khu vực Abyei (UNISFA), được Chỉ huy Phái bộ đánh giá đã góp phần quan trọng làm thay đổi diện mạo của Phái bộ6. Phát biểu tại Hội nghị Tổng kết nhiệm kỳ công tác tại Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng nhấn mạnh: Với truyền thống hào hùng của dân tộc và của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng, các cán bộ, chiến sĩ Đội Công binh số 1 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 đã góp phần tô thắm thêm hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, cùng với hình ảnh chiến sĩ “mũ nồi xanh” và lá cờ đỏ sao vàng, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam, Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế và trong mắt bạn bè thế giới.

Đội Công binh Việt Nam cung cấp nước sạch cho người dân Abyei. Nguồn: qdnd.vn

Cùng với đó là những minh chứng sống động thông qua sự ghi nhận, đánh giá của các quan chức Liên hợp quốc, chỉ huy các phái bộ Liên hợp quốc; của chính quyền, người dân địa phương và bạn bè quốc tế về hiệu quả hoạt động của lực lượng “mũ nồi xanh” của Quân đội đội nhân dân Việt Nam. Trong chuyến thăm Việt Nam, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres đã phát biểu “Việt Nam là một đối tác quan trọng của Liên hợp quốc, đã có nhiều đóng góp thực chất và hiệu quả trong tham gia lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc và trên cương vị Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc”. Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc phụ trách các hoạt động hòa bình - Jean Pierre Lacroix đánh giá “Những hoạt động Việt Nam tiến hành gần đây nhằm củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động gìn giữ hòa bình rất đáng làm hình mẫu cho nhiều nước khác”; đồng thời, bày tỏ “Tôi đã tới thăm khu vực Abyei và Nam Sudan, nơi lực lượng gìn giữ hòa bình Việt Nam đang thực hiện tại các Phái bộ và đã được chứng kiến, nghe kể về những gì Bệnh viện dã chiến cấp 2 và Đội Công binh của các bạn đã góp phần hỗ trợ cuộc sống của các cộng đồng dân cư nước sở tại”. Tại Phái bộ MINUSCA, khi trao tặng giấy khen cho Trung tá Nguyễn Thị Liên, Trung tướng Daniel Traore, Chỉ huy trưởng lực lượng quân sự Phái bộ phát biểu “Lòng nhân từ, bác ái và thiện chí của cô thể hiện những giá trị cốt lõi của Liên hợp quốc. Cô xứng đáng là Đại sứ tuyệt vời của Việt Nam”. Đại úy Danso Agyei Aduse Poku, Chỉ huy căn cứ tạm thời, tiểu đoàn bộ binh Ghana tại khu vực Rumamier ghi nhận “Cuộc sống của chúng tôi tốt lên từ khi có các bạn xuất hiện. Nhiều công trình mới được xây dựng. Chúng tôi được khám chữa bệnh và cấp thuốc miễn phí. Mọi người rất thân thiện và hòa đồng”. Tại Bentiu (Cộng hòa Nam Sudan) phát biểu tại buổi chia tay Bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam, Quyền trưởng văn phòng hỗ trợ thực địa phái bộ UNMISS - Bà Jana Kony, chia sẻ: “Người dân tại UNMISS nói rằng làm ơn đừng đi, nhưng nếu các bạn phải rời đi, hãy đảm bảo rằng các bạn sẽ quay trở lại,... khi các bạn rời đi hãy biết rằng các bạn được tôn trọng”, v.v.

Tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc - bước hiện thực hóa đường lối hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng của Đảng, Nhà nước và Quân đội ta. Những đóng góp và thành công trên chặng đường 10 năm qua của các chiến sĩ “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam là minh chứng rõ ràng cho thấy, việc triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc là chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước. Từ chủ trương đúng đắn đến những kết quả “biết nói” thông qua sự ghi nhận, đánh giá cao của Liên hợp quốc và hàng loạt các hoạt động thiết thực, hiệu quả mang nhiều ý nghĩa nhân văn, nhân ái sâu sắc đối với người dân trên các địa bàn, khu vực có sự hiện diện của lực lượng “mũ nồi xanh” Quân đội nhân dân Việt Nam đã bác bỏ hoàn toàn mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; góp phần bảo vệ vững chắc đường lối và mục tiêu đối ngoại của Đảng, Nhà nước; nâng cao vị thế, uy tín và vai trò của Việt Nam trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, góp phần xây dựng môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, cùng phát triển của mọi quốc gia trên thế giới.

Nguồn: XUÂN CƯỜNG – NGHIÊM HẠNH

 Phản bác luận điệu xuyên tạc về tự do báo chí ở Việt Nam

Tự do báo chí là một trong những quyền cơ bản của con người đã được Việt Nam cam kết và nghiêm túc thực hiện theo nguyên tắc chung của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị luôn xuyên tạc thực tế đó nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Phóng viên báo chí tác nghiệp tại một sự kiện lớn. Nguồn: nhandan.vn

Vẫn “nhai lại” mớ luận điệu cũ rích.

Như thường lệ, nhân Ngày Tự do Báo chí thế giới (03/5) năm nay, Tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF)1 đã đăng tải cái gọi là “Chỉ số tự do báo chí Thế giới năm 2024”; trong đó, xếp Việt Nam đứng thứ 174/180 quốc gia, kèm theo vô số những lời “bình luận”, như: “Việt Nam vẫn là quốc gia “tồi tệ nhất” về tự do báo chí”, “Việt Nam nằm trong top 10 quốc gia giam giữ nhiều nhà báo nhất thế giới”, v.v.

Và “té nước theo mưa”, một số website, trang mạng xã hội của các tổ chức phản động, chống phá Việt Nam thi nhau đưa tin, viết bài xuyên tạc về tự do báo chí ở Việt Nam với những luận điệu, như: “Vì sao Việt Nam luôn bị “đội sổ” về tự do báo chí trên thế giới?”;  “Độc đảng thì không thể tự do báo chí”,… rồi chúng cho rằng: báo chí  ở Việt Nam “bị” Đảng, Nhà nước “đăng ký”, “kiểm duyệt”, “hà khắc”,... nhằm xuyên tạc sự nghiệp lãnh đạo, quản lý đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam về báo chí. Mục đích cuối cùng của những luận điệu đó luôn hướng tới việc đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta, kêu gọi thay đổi thể chế chính trị ở nước ta. Để hà hơi, tiếp sức cho những luận điệu xuyên tạc của bọn phản động, cơ hội chính trị, một số đài, báo phương Tây vốn định kiến với Việt Nam, như: BBC, RFI, RFA, VOA,... thi nhau la lối, suy diễn, xuyên tạc tình hình tự do báo chí của Việt Nam. Từ đó, chúng đẩy mạnh các hoạt động cổ xúy cho cái gọi là “tự do báo chí”, “xã hội dân sự” với mục đích chính trị phản động.

Song, điều đáng nói là tất cả những cái gọi là “nhận định, đánh giá” mà họ đưa ra đều dựa trên những nhận xét, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan, “nhai đi nhai lại” những điều bịa đặt về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam của RSF trong nhiều năm qua. Cả RSF và các website, trang mạng xã hội nói trên đều cố tình phớt lờ thực tế sinh động về tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong chính hoạt động thực tiễn của các phóng viên, cơ quan báo chí.

Bản thân RSF thực chất cũng chỉ là một tổ chức “nửa mùa”, nhuốm màu chính trị. Bởi, lấy danh nghĩa là tổ chức bảo vệ nền báo chí thế giới theo phương thức khoa học, “bảo vệ tự do báo chí trên thế giới, chống kiểm duyệt và tạo áp lực, giúp đỡ những nhà báo đang bị giam giữ” và hành động trên cơ sở của Điều 19, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc, nhưng RSF thường xuyên có những luận điệu quy chụp, xuyên tạc tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận của các nước, đi ngược lại chủ trương của Liên hợp quốc và trái với tôn chỉ của chính mình. Để khuếch trương uy tín, RSF ra sức bênh vực công khai những đối tượng lấy danh nghĩa báo chí để thực hiện các hành vi phạm tội, đã bị các quốc gia xử lý hình sự để chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam, tìm cách hạ uy tín, kêu gọi quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, trong đó có các đối tượng, như: Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng, v.v. Thật nực cười khi trong số những “nhà báo độc lập” theo cách gọi của RSF có cả những người chưa từng làm báo, chưa qua trường lớp báo chí, họ mới chỉ viết bài chống đối chính quyền trên mạng xã hội đã được RFS tung hô, xưng tụng. Điểm qua một vài ví dụ để chúng ta hiểu và tỏ tường bản chất thật của RFS là gì? Câu trả lời là lợi dụng cái gọi là quyền “tự do báo chí” để dựng chuyện, xuyên tạc, chống phá Việt Nam.

Không thể phủ nhận thành tựu tự do báo chí ở Việt Nam.

Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, đó là sự thật không thể phủ nhận. Về mặt pháp lý, ngay sau khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tại Điều 10 của bản Hiến pháp đầu tiên được Quốc hội thông qua ngày 09/11/1946 nêu rõ: “Công dân Việt Nam có quyền: tự do ngôn luận; tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Những quyền cơ bản này đã được hiến định xuyên suốt trong các bản hiến pháp của Việt Nam sau đó và việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định.

Luật Báo chí (năm 2016) tiếp tục khẳng định: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân”. Cũng theo Luật này, công dân được tham gia vào các quy trình sáng tạo, sản xuất sản phẩm báo chí, tiếp nhận báo chí, ngôn luận trên báo chí; các cơ quan báo chí có trách nhiệm bảo đảm công dân thực hiện quyền tự do báo chí theo quy định. Cơ quan báo chí và nhà báo được hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ, không bị kiểm duyệt trước khi in, truyền dẫn và phát sóng; được tạo mọi điều kiện tốt nhất để hoạt động nghề nghiệp, không ai có quyền cản trở nhà báo khai thác và thể hiện thông tin theo đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, nền báo chí Việt Nam có sự phát triển lớn mạnh không ngừng, đóng góp to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thực tiễn đã chứng minh, báo chí Việt Nam luôn thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân; luôn bám sát cuộc sống, phản ánh đúng, trúng, nhanh nhạy, sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội; kịp thời định hướng dư luận, tích cực đấu tranh với cái sai, điều xấu, phản bác luận điệu sai trái, thù địch. Báo chí còn là diễn đàn ngôn luận mang tính phản biện cao và là cầu nối chuyển tải ý nguyện, công cụ để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân.

Theo số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 01/2024, cả nước có 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí, 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình; hầu hết đã và đang được chuyển đổi thành cơ quan truyền thông đa phương tiện, đa loại hình, hiện diện trên môi trường internet với các loại hình báo chí di động, báo chí mạng xã hội, báo chí trí tuệ nhân tạo,... mang tính tương tác cao, đáp ứng nhu cầu báo chí mọi lúc, mọi nơi cho mọi giai cấp, tầng lớp, thành phần xã hội. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người; tính đến tháng 12/2023, tổng số người được cấp thẻ nhà báo kỳ hạn 2021 - 2025 là 20.508 trường hợp; trong đó, 7.587 trường hợp có bằng tốt nghiệp đại học trở lên ngành báo chí. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực báo chí cũng đang phát triển mạnh mẽ với gần 40 hãng truyền thông quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam và được tạo điều kiện thuận lợi mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào trong tiếp cận công chúng, trong đó có nhiều hãng truyền thông lớn, như: CNN, Reuters, TV5, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga), Bloomberg, v.v. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi trong tác nghiệp; đồng thời, có nhiều cơ chế, chính sách thuận lợi để nhà báo Việt Nam được học tập, tác nghiệp tại nước ngoài. Thực tế đó bác bỏ hoàn toàn mọi luận điệu cho rằng tình hình tự do báo chí tại Việt Nam đang ngày càng xấu đi.

Tuy nhiên, xin được nhắc lại rằng: trong mọi lĩnh vực, ở mọi quốc gia không thể có thứ tự do nào vô giới hạn, vô chính phủ, đứng ngoài pháp luật. Do đó, tự do báo chí ở bất kỳ quốc gia nào cũng phải luôn đặt trong khuôn khổ của pháp luật của quốc gia đó. Luật pháp quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia đều khẳng định quyền tự do báo chí không phải là một quyền tuyệt đối, mà phải chịu những hạn chế nhất định nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân. Chẳng hạn như, Điều 18, Hiến pháp của Cộng hòa Liên bang Ðức quy định: “Ai lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền,… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”; Điều 2385, Bộ luật Hình sự của Mỹ nghiêm cấm: “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”. Do đó, không thể lấy danh là “nhà báo tự do” mà có thể đứng ngoài vòng pháp luật. Việc các nhà báo hoặc giả danh nhà báo thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam, như: Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng, Nguyễn Lân Thắng, Lê Trọng Hùng,… đều bị trừng trị thích đáng là điều tất yếu, theo đúng pháp luật Việt Nam, chứ hoàn toàn không có chuyện Việt Nam giam giữ nhà báo “tuỳ tiện” như RSF quy chụp.

Những thông tin sai trái, thù địch, xuyên tạc về tự do báo chí ở Việt Nam là vô cùng nguy hiểm, tạo ra cái nhìn thiên lệch, thiếu thiện cảm của cộng đồng quốc tế về Việt Nam, ảnh hưởng đến thu hút đầu tư, du lịch, phát triển đất nước. Chính vì vậy, việc nhận diện, phản bác, đấu tranh chống thông tin sai lệch, xuyên tạc về tự do báo chí đòi hỏi phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị; trong đó đội ngũ nhà báo chân chính là lực lượng nòng cốt. Để hoàn thành trọng trách đó, đòi hỏi đội ngũ nhà báo phải có: (1). Bản lĩnh chính trị vững vàng, không ngừng trao dồi, nâng cao trình độ chuyên môn; thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức nghề nghiệp trong tác nghiệp. (2). Đề cao tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm xã hội, lòng tự trọng nghề nghiệp để bám sát thực tiễn cuộc sống; tiên phong, khởi tạo, định hướng dư luận bằng ngòi bút sắc bén. (3). Bằng trí tuệ để nhận diện sự thật, bản lĩnh trước những khó khăn, thử thách và dũng cảm bảo vệ lẽ phải, bảo vệ chính nghĩa, kịp thời và kiên quyết phản bác mạnh mẽ, đập tan âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị, góp phần cùng cả hệ thống chính trị bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. (4). Luôn đứng trên tâm thế, trí tuệ và niềm tự hào của nền báo chí cách mạng Việt Nam để tích cực hội nhập, tiếp thu thành tựu của thế giới để phát triển các loại hình, phương thức truyền thông tiên tiến, thỏa mãn nhu cầu báo chí, thông tin ngày càng cao của mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng nền báo chí cách mạng Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại. Làm tốt những điều trên sẽ góp phần quan trọng bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về tự do báo chí tại Việt Nam.

Nguồn: Đại tá ĐỖ PHÚ THỌ

 Kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam

Kiên định chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là chủ trương đúng đắn, tầm nhìn chiến lược, hành động nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Đó là kế sách “sâu rễ, bền gốc” để “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch đã và đang ra sức xuyên tạc, chống phá bằng nhiều chiêu trò tinh vi, xảo quyệt, đòi hỏi chúng ta phải tỉnh táo nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trong tiến trình hàng nghìn năm lịch sử, dựng nước đi đôi với giữ nước đã trở thành truyền thống quý báu; là quy luật trường tồn và phát triển của dân tộc Việt Nam. Kế thừa kinh nghiệm quý mà tổ tiên để lại, Đảng ta luôn chủ động chăm lo củng cố, xây dựng nền quốc phòng toàn dân; trong đó, kiên định chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quan điểm nhất quán, góp phần “giữ yên bờ cõi”, giữ cho “trong ấm, ngoài êm”, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Đây là kế sách “sâu rễ, bền gốc”, thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống và nghệ thuật quân sự độc đáo của tổ tiên ta; đồng thời, mang tính thời đại sâu sắc.

Là quốc gia chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, hơn ai hết, nhân dân Việt Nam hiểu rõ giá trị của “hòa bình”, yêu chuộng hòa bình luôn là khát vọng, truyền thống của dân tộc; hòa bình được coi là một “giá trị thiêng liêng” của đất nước. Thực hiện chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, Việt Nam chủ trương: không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế.

Để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước, cũng như tạo nền tảng vững chắc giải quyết những thách thức an ninh chung, Việt Nam chủ động đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với các nước; quan tâm duy trì và phát triển những mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ phù hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực phức tạp hiện nay, Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, chủ trương xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là nhằm nâng cao khả năng “tự vệ”, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, chứ không phải là chạy đua vũ trang và càng không hề có dụng ý đe dọa vũ lực hay sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế như các thế lực thù địch từng rêu rao, xuyên tạc.

Âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch

Chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta; kiên quyết, kiên trì ngăn chặn, đẩy lùi và hóa giải nguy cơ chiến tranh, xung đột “từ sớm, từ xa”, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để đưa đất nước phát triển. Đây cũng là thông điệp hòa bình mà Việt Nam nhắn gửi tới cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, với bản chất thù địch chưa bao giờ thay đổi, các thế lực chống phá Việt Nam luôn tìm mọi cách chống phá chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, tung ra luận điệu xuyên tạc, công kích chính sách đúng đắn đó của Đảng và Nhà nước ta. Chúng suy diễn, cho rằng chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là “đối sách nhu nhược”, là “hành động tự trói”, là sự “cam chịu và khuất phục” trước các nước lớn. Nham hiểm hơn, lợi dụng việc nước ta bỏ phiếu tại Liên hợp quốc về cuộc xung đột Nga - Ukraine, chúng tuyên truyền, kích động: chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính “chung chung”, rất “mơ hồ”, “không rõ ràng”, “phi thực tế”, mang nặng tư tưởng “hòa bình chủ nghĩa”. Không những thế, chúng phớt lờ, phủ nhận những đóng góp quan trọng của Việt Nam trước đây và hiện nay đối với cộng đồng quốc tế, nhất là việc tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Chúng “quên” điều đó cũng là dễ hiểu, bởi nếu nhắc lại thì đối với chúng “lợi bất cập hại”, trước mắt sẽ gây bất lợi cho các hoạt động xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam. Tráo trở và thâm độc hơn, chúng tỏ vẻ “quan tâm sâu sắc” đến sự an nguy của đất nước và “quan ngại, lo lắng” trước thực tế các nước đang hợp tác đầu tư mạnh cho quốc phòng; chúng rêu rao: khả năng và sức mạnh tổng hợp quốc gia, sức mạnh quân sự của Việt Nam hiện tại “quá yếu”, việc hiện đại hóa Quân đội chủ yếu chỉ nằm trên “nghị quyết”, thực tế thì “lạc hậu” và “không đủ sức tự vệ”, không có khả năng giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Từ đó, chúng ra sức cổ súy, “vẽ đường”, “dẫn lối”, “đề xuất” Việt Nam nên “chọn phe”, “chọn bên” để không bị cô lập trong hoạt động quốc phòng, để luôn nhận được sự “giúp đỡ hiệu quả, chí nghĩa, chí tình” của các nước lớn, nhằm “mang lại một tương lai tươi sáng hơn”. Vì thế, chúng “gợi ý” Việt Nam nên xúc tiến “liên minh quân sự”, nhất là đối với các nước có tiềm lực quân sự hàng đầu thế giới là việc làm “duy nhất đúng” lúc này, góp phần “tự cứu”, “tự vệ” và như vậy mới đủ khả năng “bảo vệ Tổ quốc vững chắc từ xa”.

Những luận điệu trên của các thế lực thù địch được che đậy, ngụy biện khá kín kẽ nên thoạt nghe có vẻ hợp lý, nhưng khi đã thấu suốt bản chất, dã tâm của chúng, sẽ không khó nhận thấy đó chỉ là sự xuyên tạc, cực kỳ nham hiểm, thâm độc. Một mặt chúng “phủ nhận sạch trơn” những giá trị nhân văn của chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; mặt khác, chúng trắng trợn bóp méo sự thật, cho rằng Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng, tăng cường sức mạnh quốc phòng “không hẳn nhằm mục đích tự vệ”, mà là chạy đua vũ trang, điều đó rất dễ châm ngòi cho chiến tranh, xung đột quân sự trong khu vực. Đây là những luận điệu hết sức lố bịch, xuyên tạc trơ trẽn, nếu chúng ta không kịp thời nhận diện, vạch trần, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, vô hiệu hóa thì sẽ dẫn đến những hệ lụy xấu, gây hoài nghi cho nhiều người, nhiều quốc gia về chính sách quốc phòng của Việt Nam, ảnh hưởng không tốt đến uy tín, vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, cùng các đại biểu tham quan Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022 (Viet Nam Defence 2022). Nguồn: xaydungchinhsach.chinhphu.vn

Cơ sở lý luận, thực tiễn khẳng định tính đúng đắn của chính sách quốc phòng “Hòa bình và tự vệ”

Hòa bình và tự vệ là những vấn đề hệ trọng của mỗi quốc gia, dân tộc. Là một đất nước đã trải qua những cuộc chiến tranh vô cùng ác liệt, đối với Việt Nam vấn đề này lại càng quan trọng, bởi nó luôn gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Trong đó, hòa bình là tiền đề cho “tự vệ tích cực” và tự vệ là cơ sở đảm bảo cho hòa bình thực sự, bền vững. Hòa bình phải luôn gắn chặt với tự vệ, một khi tách rời nhau thì sớm muộn gì hòa bình sẽ mất, tự vệ cũng chẳng còn. Vì thế, hòa bình và tự vệ luôn gắn bó hữu cơ với nhau và là quan điểm nhất quán của dân tộc Việt Nam từ lịch sử đến hiện tại.

Trong Sách trắng Quốc phòng Việt Nam (năm 2019), một lần nữa Đảng ta khẳng định: “Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ”1. Kiên định, nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”, Đảng, Nhà nước ta đã kế thừa những tư tưởng, kinh nghiệm quý của tổ tiên ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc. Đó là tư tưởng nhân văn cao cả “đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, góp phần làm nên những chiến công vang dội, viết nên những trang sử chói lọi của dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất. Với quan điểm “Thái bình tu trí lực/Vạn cổ thử giang san” (Thái bình nên gắng sức/Non nước ấy ngàn thu) - giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, nên nhà Trần hết sức chú trọng và nỗ lực giữ gìn nền hòa bình, giữ yên bờ cõi, mang lại nền “thái bình, thịnh trị” cho muôn dân.

Khi đề cập tầm quan trọng của bảo vệ - tự vệ, Đảng ta đã kế thừa, phát triển lý luận về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin, nhất là chú trọng củng cố quốc phòng, góp phần nâng cao khả năng phòng thủ, “tự vệ” chính đáng của đất nước. V.I.Lênin khẳng định: “Chính vì chúng ta chủ trương bảo vệ Tổ quốc, nên chúng ta đòi hỏi phải có thái độ nghiêm túc đối với vấn đề khả năng quốc phòng và đối với vấn đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà”; đồng thời, chỉ rõ: “Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết tự vệ”2, “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Có thể nói, lý luận về xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa của V.I.Lênin là cơ sở quan trọng để Đảng ta xác định một trong hai chiến lược quan trọng bậc nhất của quốc gia - Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và nhất quán chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; chủ động chuẩn bị tâm thế để bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Không thể “khoanh tay đứng nhìn”, “ngồi im chờ đợi” sự giúp đỡ “chí nghĩa, chí tình” từ các nước lớn “đầy thiện chí”, để giữ vững hòa bình, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ như “gợi ý” của các thế lực thù địch.

Đặc biệt, chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” còn được Đảng ta kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Trong Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”3. Lời kêu gọi của Người thể hiện khát vọng mãnh liệt về một nền hòa bình bền vững, quyết tâm sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân để giành và giữ độc lập dân tộc bằng “tự lực cánh sinh”, “dựa vào sức mình là chính”. Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”4; “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”5. Như vậy, từ rất sớm chúng ta đã chủ trương xây dựng Quân đội chính quy và hiện đại để thực hiện khả năng “tự vệ chính đáng”. Quân đội nhân dân Việt Nam từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, hoàn toàn không phải là một đội quân xâm lược. Như vậy, luận điệu xuyên tạc của các phần tử cơ hội chính trị cho rằng Việt Nam hiện đại hóa Quân đội là “châm ngòi” cho cuộc chạy đua vũ trang mới ở khu vực thực sự rất lố bịch, trơ trẽn, thiếu khách quan, phản khoa học.

Nền tảng pháp lý vững chắc để Việt Nam nhất quán với chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” là dựa vào Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, các hiệp định, hiệp ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam tham gia ký kết và là một thành viên tích cực, tin cậy, có trách nhiệm cao. Theo đó, trong quan hệ quốc tế, Việt nam cam kết thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; đồng thời, vì sự ổn định và hòa bình của khu vực và thế giới, chúng ta nêu rõ quan điểm không sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp, bất đồng với các nước; đề cao chủ trương giải quyết bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở các tiến trình pháp lý và ngoại giao. Như vậy, chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với mục đích cao cả mà Hiến chương Liên hợp quốc hướng đến, điều này cũng đập tan luận điệu của các thế lực thù địch cho rằng chính sách quốc phòng của Việt Nam là “ích kỷ”, “chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”.

Có thể thấy, để giữ vững được hòa bình, độc lập dân tộc, không thể thiếu hoạt động bảo vệ - tự vệ; hơn thế còn cần phải có sự chuẩn bị chu đáo và tổng thể các biện pháp hoạt động đủ mạnh mới đạt được mục tiêu xác định. Việt Nam thực hiện chính sách quốc phòng, gia tăng tiềm lực quốc phòng không gì ngoài mục đích tự vệ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc; đồng thời, bằng những hoạt động tích cực, hiệu quả Việt Nam ngày càng có những đóng góp quan trọng nhằm giữ vững hòa bình, ổn định; thúc đẩy mạnh mẽ hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, chủ động nâng cao khả năng “tự vệ” của đất nước, sẵn sàng đánh bại quân xâm lược, kiến tạo hòa bình là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt của các triều đại phong kiến Việt Nam. Thực tiễn kháng chiến chống quân xâm lược nhà Tống cho thấy, trước thế giặc rất mạnh, nhà Lý đã tích cực chuẩn bị kháng chiến, tăng cường khả năng phòng bị, xây dựng lực lượng quân đội tinh nhuệ, nhiều thứ quân, bố trí thế trận chống giặc “hiểm, sắc, chắc, có chiều sâu” trên những địa bàn chiến lược. Theo đó, Lý Thường Kiệt chủ động cho xây dựng phòng tuyến vững chắc trên sông Như Nguyệt, kịp thời chặn đứng cuộc tiến công của địch, lập thế, tạo thời cơ có lợi, phản công đánh bại quân xâm lược, giữ vững nền độc lập. Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống giặc Minh xâm lược, với mục tiêu bất biến là “Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh”, “mở nền thái bình muôn thủa” và với tư duy nhạy bén, chiến lược, Nguyễn Trãi chỉ rõ: “Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nước/Tha kẻ hàng mười vạn sĩ binh/Sửa hòa hiếu cho hai nước/Tắt muôn đời chiến tranh”6, chúng ta đã thể hiện rõ thiện chí và khát vọng hòa bình, chủ trương giữ hòa hiếu với các nước láng giềng, nhằm mang lại nền độc lập bền vững, “tránh họa binh đao”, có điều kiện để khắc phục hậu quả chiến tranh, dựng xây đất nước. Chính sách đó thể hiện rõ tinh thần cao thượng của tư tưởng nhân văn quân sự Việt Nam, nghệ thuật ngoại giao hết sức mềm dẻo, linh hoạt, hiệu quả, kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ, xây dựng và kiến tạo nền hòa bình bền vững, giữ yên biên thùy.

Giương cao “ngọn đuốc hòa bình”, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, từ rất sớm Việt Nam đã chủ động xây dựng tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của 03 nước Đông Dương; giúp nhân dân Campuchia tiêu diệt “chế độ diệt chủng”, góp phần bảo vệ nền độc lập, tự do của mỗi dân tộc. Mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, truyền thống đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia trải qua bao thăng trầm của lịch sử đã phát triển lên một tầm cao mới. Điều đó phù hợp với nguyện vọng chính đáng của chính phủ và nhân dân mỗi nước, đồng thời góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực và trên thế giới.

Là quốc gia có trách nhiệm cao đối với cộng đồng quốc tế, Việt Nam luôn nghiêm chỉnh thực hiện các nghĩa vụ của một quốc gia thành viên, luôn chủ động, tích cực mở rộng quan hệ hợp tác với các nước nhằm giải quyết các thách thức an ninh truyền thống và phi truyền thống vì hòa bình, ổn định, tiến bộ và phát triển. Theo đó, từ tháng 6/2014, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại các phái bộ Nam Sudan, Cộng hòa Trung Phi (MINUSCA), Phái bộ UNISFA (khu vực Abyei), trên các lĩnh vực: tham mưu, y tế, công binh, v.v. Tháng 02/2023, hưởng ứng lời kêu gọi của Liên hợp quốc đề nghị các nước và tổ chức quốc tế hỗ trợ ứng cứu, khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ và Syria, Quân đội nhân dân Việt Nam đã cử 76 cán bộ, chiến sĩ tham gia công tác cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả động đất, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng nhân dân nước sở tại về một đất nước Việt Nam yêu chuộng hòa bình, đầy trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, v.v. 

Giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch

Chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Việt Nam là sự kế thừa quan điểm, tư tưởng mang tính quy luật “dựng nước đi đôi với giữ nước” và thực tiễn phong phú trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Đây chính là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Một chính sách mang đậm tính nhân văn và thể hiện sâu sắc bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam - một dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn khát khao, nỗ lực đấu tranh giành và giữ vững nền hòa bình, độc lập ấy. Điều đó cũng trả lời cho câu hỏi vì sao Đảng, Nhà nước và Nhân dân Việt Nam luôn kiên định, nhất quán với chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”; đồng thời cũng lý giải cho việc tại sao các thế lực thù địch lại ra sức xuyên tạc chính sách quốc phòng của Việt Nam, nội dung quan trọng trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chúng đã và đang thực hiện nhằm chống phá cách mạng nước ta. Vì thế, đối với chúng ta, để đấu tranh làm thất bại những luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam của các thế lực thù địch cần phải được kết hợp chặt chẽ với đấu tranh làm thất bại các hoạt động chống phá trên rất nhiều lĩnh vực khác; trong đó, tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp chủ yếu sau.

Một là, đẩy mạnh tuyên truyền về chính sách quốc phòng “Hòa bình và tự vệ”.

Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm tạo sự thống nhất nhận thức và hành động trong quá trình đấu tranh vạch trần bộ mặt thật và âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam. Công tác tuyên truyền phải được thực hiện thường xuyên cả trong nước và ngoài nước (thông tin đối ngoại) để nhân dân trong nước, kiều bào ta ở nước ngoài và bạn bè quốc tế hiểu đúng bản chất, nội dung chính sách quốc phòng, nhất là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, vạch trần sự xuyên tạc, ngụy biện của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị; chỉ rõ cơ sở lý luận, thực tiễn khoa học, nội dung cơ bản khẳng định chính sách quốc phòng Việt Nam mang tính chính nghĩa “hòa bình và tự vệ”, để mọi người chủ động, tự giác đấu tranh trực diện, hiệu quả. Cùng với công tác tuyên truyền giáo dục phải thường xuyên nắm chắc tình hình, nhất là những động thái mới, thủ đoạn mới, chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch, để kịp thời có biện pháp đấu tranh thích ứng, phù hợp, đạt hiệu quả thiết thực. Quá trình tuyên truyền, giáo dục cần chú trọng giáo dục lòng yêu nước, khơi dậy niềm tự hào dân tộc, không ngừng củng cố niềm tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nhận thức rõ mục tiêu, tính chất ngụy biện của chiến lược “diễn biến hòa bình” nói chung, luận điệu xuyên tạc chính sách quốc phòng Việt Nam nói riêng của các thế lực thù địch đang tiến hành, cũng như tầm quan trọng cuộc đấu tranh của chúng ta với “cuộc chiến không tiếng súng” này.

Trước sự biến động nhanh, phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục cả nội dung, hình thức, phương pháp theo hướng kết hợp giáo dục theo chương trình cơ bản với tổ chức tọa đàm, hội thảo, diễn đàn thanh niên, giáo dục chuyên đề, v.v. Thông qua đó, tiếp tục củng cố vững chắc lòng tin của các quốc gia về hình ảnh đất nước, con người Việt Nam yêu chuộng hòa bình; tích cực, chủ động cung cấp thông tin chính thống, định hướng dư luận, tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, tạo sức đề kháng “tự miễn dịch” trước những thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch.

Hai làtăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, nâng cao năng lực “tự bảo vệ”, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”.

Để có được nền hòa bình, độc lập, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc như hiện nay, nhân dân ta đã phải trả một cái giá không hề rẻ bằng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh của nhiều thế hệ người Việt Nam. Đó là tài sản quý nhất, lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc, mà chúng ta phải gìn giữ bằng mọi giá, mọi cách trong khả năng của mình. Chúng ta không “ảo tưởng về hòa bình”, càng không thể trông chờ vào “một nền hòa bình viển vông” do một ai đó “vẽ ra” hoặc “ban phát”; hòa bình chỉ có thể được đảm bảo bền vững khi có nền quốc phòng đủ mạnh, đủ sức răn đe những cái “đầu nóng” luôn toan tính “nhòm ngó” thôn tính chúng ta. Thực tế hiện nay cho thấy, không trân trọng “hòa bình”, không nâng cao khả năng “tự vệ”, cả tin theo những “bánh vẽ” mà người khác “ban tặng”, thì hậu quả là đất nước rối loạn, nhân dân ly tán và hậu quả là nhãn tiền. Cho nên, tăng cường sức mạnh quốc phòng là kế sách bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tiễn của Đảng, Nhà nước ta.

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam cho thấy, trong bất kỳ giai đoạn cam go nào, trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, sự lãnh đạo của Đảng luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi. Tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng là công việc trọng yếu của quốc gia - dân tộc ngay cả trong thời bình, nhất là trong những thời điểm nền độc lập dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng, đất nước lâm nguy. Thấu triệt điều đó, Đảng, Nhà nước tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong xây dựng tiềm lực vững mạnh, lực lượng rộng khắp, thế trận quốc phòng vững chắc, từ đó nâng cao khả năng huy động quốc phòng, nhằm ứng phó hiệu quả với mọi tình huống, luôn giữ vững sự chủ động, không để bất ngờ về chiến lược. Chú trọng xây dựng khu vực phòng thủ các cấp vững chắc, nhất là các địa bàn chiến lược, trọng yếu và trên cả nước, tạo thế trận “liên hoàn, hiểm hóc, vững chắc, có chiều sâu”. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, làm nòng cốt trong sự nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Chú trọng nghiên cứu, nâng cao năng lực tác chiến trên không gian mạng, chiến tranh thông tin và các hình thái chiến tranh mới, nhằm đảm bảo sự chủ động và giành thắng lợi khi đất nước xảy ra chiến tranh xâm lược. Đẩy mạnh đầu tư, nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và ngày càng hiện đại; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Ba làphát huy sức mạnh tổng hợp, vận dụng linh hoạt, sáng tạo các hình thức, biện pháp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá chính sách quốc phòng.

Thực tiễn cho thấy, các thế lực thù địch không từ âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào để chống phá ta trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng và chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ”. Thậm chí chúng còn liên tục thay đổi cách thức, biện pháp chống phá, với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, đa dạng và sâu rộng cả về nội dung và hình thức. Vì thế, chúng ta cần phải bám sát thực tiễn, nhận diện đúng đối tượng, nội dung xuyên tạc, thời điểm tập trung chống phá của chúng để trên cơ sở đó sử dụng tổng thể các biện pháp, phương thức, lực lượng phòng, chống đạt hiệu quả thiết thực.

Về lực lượng đấu tranh, cần phát huy cả lực lượng trong và ngoài nước, lực lượng chuyên trách và lực lượng rộng rãi, trong đó vai trò của cơ quan Ban Chỉ đạo 35, Lực lượng 47, đội ngũ chuyên gia các cấp, các cơ quan truyền thông, báo chí, xuất bản,… là rất quan trọng. Về phương thức đấu tranh, cần phải linh hoạt, sáng tạo kết hợp chặt chẽ cả hình thức tuyên truyền miệng, tuyên truyền trong các sự kiện chính trị - xã hội, lễ hội truyền thống, tuyên truyền thông tin đối ngoại, tuyên truyền trên các trang mạng xã hội, trên internet, v.v. Cần phải chủ động đấu tranh, giữ vững trận địa chính trị, tư tưởng, chiếm lĩnh trận địa thông tin và tích cực đổi mới sao cho linh hoạt, sáng tạo, với phương thức đa dạng, hiệu quả; đồng thời, chuẩn bị tốt cả về lực lượng, phương tiện và cách thức tiến hành, chú trọng đấu tranh trên môi trường không gian mạng. Cùng với đó, phải coi trọng phân tích, đánh giá, phản biện, chỉ ra những mặt hạn chế, tồn tại, kịp thời đúc rút những bài học hay, kinh nghiệm quý để nhân rộng trong toàn xã hội, v.v.

Bốn làđẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, nhằm kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Tiếp tục mở rộng và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo quan điểm chỉ đạo của Đảng về công tác đối ngoại và đối ngoại quốc phòng, coi đây là kế sách “sâu rễ, bền gốc” giữ nước “từ khi nước chưa nguy” bằng biện pháp hòa bình, góp phần bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Kết hợp chặt chẽ các lực lượng, biện pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin đối ngoại, giúp cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, nhân dân và đồng bào ta ở nước ngoài, cộng đồng quốc tế hiểu rõ hơn về chính sách quốc phòng “hòa bình và tự vệ” của Đảng và Nhà nước ta. Trong quan hệ quốc tế, cần kiên định nguyên tắc độc lập dân tộc gắn với bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ là bất biến, nhưng phải căn cứ vào tình hình cụ thể, xử lí khôn khéo, mềm dẻo, linh hoạt theo phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Trên cơ sở bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, xác định rõ đối tác, đối tượng để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tránh bị cô lập, lệ thuộc hoặc ở vào thế buộc phải “chọn bên”, “chọn phe”; không để nước ta trở thành chiến trường, địa bàn xung đột lợi ích chiến lược của các nước, nhất là các nước lớn. Tăng cường và ngày càng thắt chặt quan hệ hữu nghị, tốt đẹp, xây dựng “biên cương xanh”, nâng cao chất lượng hiệu quả, đi vào chiều sâu, thực chất hoạt động giao lưu hữu nghị quốc phòng với các nước láng giềng. Tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc; đa dạng hóa đối tác hợp tác quân sự quốc phòng; đẩy mạnh quan hệ đối ngoại quốc phòng bằng nhiều hình thức: tham gia các diễn đàn của khu vực và quốc tế, trao đổi đoàn, hợp tác huấn luyện, đào tạo, tuần tra chung, chia sẻ kinh nghiệm, thông tin, v.v. Tăng cường hợp tác trong ứng phó và giải quyết các thách thức an ninh phi truyền thống; tham gia tích cực, hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, tìm kiếm cứu nạn, hỗ trợ nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh,... góp phần không ngừng tăng cường uy tín, tiềm lực, sức mạnh quốc gia trên trường quốc tế, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Nguồn: PHÙNG CHẤT - CAO VƯƠNG