Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

 Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. ST

 HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ MỘT ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở VIỆT NAM - SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN CỦA LỊCH SỬ


Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân. Thực tiễn cũng cho thấy, chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh lịch sử-xã hội ở Việt Nam.

Những nghịch lý và hệ lụy của chế độ đa đảng

Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một khuynh hướng tổ chức đời sống chính trị-xã hội xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 với xu hướng tuyệt đối hóa sự đa dạng, đối kháng của các đảng chính trị. Chế độ đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.

Lịch sử chính trị thế giới cho chúng ta một số bài học để thấy rằng hệ thống đa đảng đối lập nhiều khi không dẫn các quốc gia theo con đường này đến hòa bình, ổn định và phồn vinh, mà ngược lại nó dẫn đến sự bất hòa, phân lập, thậm chí là tê liệt của bộ máy công quyền. Trở lại bối cảnh lịch sử của nước Đức cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nước Đức thời kỳ này tồn tại nhiều đảng phái chính trị, mỗi đảng đại diện cho những lợi ích xã hội được xác định rõ ràng, tranh giành quyền lực và lợi lộc từ quyền lực, thỏa hiệp và ký kết thỏa hiệp với nhau khi nào có thể. Sự chia rẽ trong đời sống chính trị không chỉ dẫn đến hậu quả đau đớn cho Đức vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 mà hiện vẫn còn dẫn tới sự bất ổn chính trị, làm gia tăng nghèo đói và bạo loạn ở nhiều nước trên thế giới.

Nhìn lại cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập” diễn ra năm 2011 cho thấy điều đó. Phân hóa giàu nghèo, tham nhũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi dậy lật đổ chính quyền tại một loạt quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông. Nhưng sau khi lật đổ chính quyền, điều mà người dân trông chờ là một nền chính trị ổn định, ít tham nhũng, quan tâm đến đời sống của đại đa số người dân, những gì mà các thế lực bên ngoài rao giảng đã không được thực thi trên thực tế. Thay vào đó là sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái và thế lực chính trị. Cho đến hiện tại, ở các quốc gia này, không có một đảng chính trị hay một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thống nhất, lãnh đạo đất nước khiến xã hội vẫn chưa đi vào ổn định và phát triển.

Thể chế đa đảng với cách thức tổ chức cho phép các đảng đối lập phản đối chính sách của đảng cầm quyền nhằm thực hiện dân chủ, nhưng nghịch lý của nó là khiến chính phủ trở nên phân rã và chia rẽ. Sự phân cực chính trị làm phân tán nguồn lực và các chính sách đem lại lợi ích cho đa số người dân thường sẽ khó được thực thi. Bởi khi không nắm chính quyền, các đảng chính trị sẽ có nhiệm vụ là tìm mọi cách phê phán chính sách của đảng đối lập; mục đích chính của việc làm này không phải là để có tiếng nói phản biện nhằm làm cho chính sách được thực thi một cách tốt hơn mà là để giành giữ lá phiếu cho đảng mình trong các lần bầu cử tiếp theo.

Nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia tổ chức theo chế độ đa đảng đối lập, chúng ta sẽ thấy các đảng chính trị để tranh giành quyền lực, họ không dựa trên lợi ích của đông đảo người dân nhằm giải quyết các vấn đề mà xuất phát từ lợi ích của đảng phái, thậm chí là lợi ích cá nhân hẹp hòi. 

Sự lựa chọn cho ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam

Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân.

Tại Việt Nam, vào cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, cùng với sự phát triển của các phong trào yêu nước, các tổ chức cộng sản đảng đã ra đời mà tiêu biểu là An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Tân Việt Cách mạng Đảng. Sau khi ra đời 3 tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên sự xuất hiện và tồn tại 3 tổ chức cộng sản đảng cùng hoạt động cách mạng đã dẫn đến sự chia rẽ nguồn lực, các đảng công kích lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Sự chia rẽ, công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thời kỳ này đã gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng và gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.

Để chấm dứt sự chia rẽ và công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản, đầu tháng giêng năm 1930, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là minh chứng lịch sử cho chúng ta thấy cách thức tổ chức một đảng duy nhất cầm quyền, đây là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với đặc trưng văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.

So với thể chế đa đảng đối lập, nhiều quan điểm cho rằng các quốc gia có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước đó là “chế độ độc đảng toàn trị”. Hằng năm, các báo cáo về chỉ số tự do dân chủ (Democracy Index) vẫn dựa vào tiêu chí đa đảng đối lập để đánh giá mức độ tự do, dân chủ của một quốc gia. Dựa vào các báo cáo này, họ rao giảng rằng các quốc gia như Việt Nam có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước thì xu hướng chung “đảng đó sẽ độc chiếm quyền lực, tiếm đoạt các chức năng của nhà nước, kiểm soát toàn bộ đời sống của xã hội nói chung, của cá nhân nói riêng”. Họ "khuyến cáo" rằng, "Việt Nam cần phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” để thực hiện dân chủ"(!).

Tuy nhiên phải hiểu rằng, dù đề cập đến dân chủ như một giá trị tốt đẹp, dân chủ như một hình thức cai trị, một cách thức ra các quyết định chung hay dân chủ như một chế độ chính trị thì tất cả các ngữ nghĩa này đều không bắt nguồn từ cách thức tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Dù là chế độ một đảng nhưng chúng ta đã, đang thực hiện dân chủ theo những cách riêng, phù hợp với đặc trưng văn hóa, tập quán, lối sống và năng lực thực hành dân chủ của người dân Việt Nam.

Lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam đã cho chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo đất nước, đó là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với phong tục, tập quán, năng lực thực hành dân chủ của người Việt. Nếu ai đó nói với chúng ta rằng Việt Nam cần phải học hỏi các quốc gia trên thế giới, phải xóa bỏ chế độ độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam để tổ chức đời sống chính trị theo chế độ đa đảng, nhất là đa đảng đối lập giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới thì chúng ta đừng hoang mang, dao động, mà hãy nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia theo chế độ đa đảng, đặc biệt là hệ thống đa đảng đối lập đã được phân tích cụ thể ở phần trên. Hãy nhìn vào cuộc sống hiện tại của người dân ở các quốc gia đã trải qua "mùa xuân Ả Rập" hay trải qua "cách mạng sắc màu", những người đã tin theo những lời xúi giục đó, họ đang khát khao như thế nào về một cuộc sống yên bình, ổn định, không có xung đột, đói nghèo và tội phạm gia tăng để cân nhắc quan điểm và lựa chọn hành động cho đúng.

Cho đến hiện nay, chế độ đa đảng, đặc biệt là đa đảng đối lập với đại diện theo tỷ lệ vẫn được các quốc gia phương Tây sử dụng như một “tiêu chuẩn của các nền dân chủ tiên tiến”. Lịch sử tổ chức đời sống chính trị trên thế giới lại cho chúng ta thấy rằng, dân chủ không bắt nguồn từ cách thức chúng ta tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Nếu bạn đọc ở đâu đó hay nghe ai đó thuyết giảng rằng Việt Nam cần phải xây dựng chế độ đa đảng giống như mô hình của nhiều quốc gia phương Tây, thì bạn hãy nhớ rằng: Hiện nay, trên thế giới đang có hàng chục quốc gia lựa chọn thể chế "đa nguyên, đa đảng" nhưng đang chìm trong đói nghèo, khủng hoảng chính trị triền miên. Chúng ta có lợi thế hơn họ bởi chúng ta có những tấm gương trước mắt để học hỏi và lựa chọn. Sự lựa chọn đúng đắn nhất của chúng ta là: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là sự lựa chọn cho sự ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta và sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam.

Cần hiểu đúng về “ngoại giao cây tre”

 

Ngại giao cây tre” là khái niệm được nhắc nhiều trong những năm gần đây. Đây là trường phái ngoại giao được đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện, trong đó trường phái ngoại giao này được xây dựng trên phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Vậy cụm từ “ngoại giao cây tre” có từ bao giờ?

Vào tháng 8/2016, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trường phái ngoại giao độc đáo, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Đến tháng 12/2021, tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư tiếp tục nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, can trường trước mọi khó khăn, thử thách, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”.

Qua đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, làm sâu sắc thêm cơ sở hình thành, đặc trưng về trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.

Trên cương vị là người đứng đầu Đảng, với tư duy đối ngoại sâu sắc mang tầm chiến lược cao và thực tiễn trải nghiệm hoạt động ngoại giao phong phú, sinh động, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cho ra đời cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””.  Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương khẳng định, cuốn sách của Tổng Bí thư là kim chỉ nam cho đường lối, chủ trương của Đảng về công tác đối ngoại; đóng góp to lớn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn về xây dựng CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam.

Đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương đánh giá, cuốn sách có giá trị vô cùng to lớn bởi đây là công trình đầu tiên mang tính hệ thống, tập hợp những phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư về lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao. Các bài viết thể hiện một cách cụ thể, sâu sắc và sinh động sự đóng góp to lớn, quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư trên nhiều cương vị khác nhau trước đây và với cương vị là lãnh đạo cao nhất của Đảng ta hiện nay trong việc xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại của Việt Nam; đồng thời, khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, toàn diện, xuyên suốt của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với công tác đối ngoại trên cả ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Bàn về những thành tựu đối ngoại và những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí Thongsavanh Phomvihane, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định: “Những thành tựu của Việt Nam nói chung, những thành tựu trong công tác đối ngoại nói riêng cũng chính là những thành tựu, là bài học kinh nghiệm quý báu cho đất nước Lào… Đặc biệt, Đảng, Nhà nước Lào đánh giá cao ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc nhấn mạnh 6 nhóm vấn đề là mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng đầy vẻ vang trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam”.

Trong bài viết “Giá trị thời đại của trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”, đồng chí Hàn Phương Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc, Chủ tịch Học hội ngoại giao và quan hệ quốc tế CHARHAR đã chia sẻ cảm xúc: “Ngoại giao “cây tre Việt Nam” là vừa kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa tích cực mở rộng trong lĩnh vực ngoại giao, bảo vệ và phát triển lợi ích quốc gia của Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn tính linh hoạt và tính nguyên tắc, nỗ lực thích ứng với thế giới không ngừng biến đổi; mặt khác, cùng với việc phát triển các quan hệ ngoại giao hiện có, thiết lập các quan hệ hợp tác mới. Đây chính là nền tảng ngoại giao để Việt Nam vẫn phát triển ổn định, lành mạnh dù đứng trước tình hình thế giới vô cùng phức tạp”.

Còn rất nhiều chính khách, học giả, nhà nghiên cứu thế giới đánh giá cao đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta, ghi nhận những cống hiến to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong quá trình phát triển đất nước, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Ngăn chặn các đối tượng truyền đạo trái phép

 

Thời gian gần đây tại Việt Nam, do bị đấu tranh mạnh nên hoạt động của tổ chức “Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ”  hay còn gọi là “Hội thánh Đức Chúa trời làm chứng cho Chúa Giesu” do Ahn Sahng Hong sáng lập đã được kiềm chế, nhiều người đã tự nguyện bỏ sinh hoạt đạo.

Tại  địa bàn tỉnh Yên Bái, mặc dù hoạt động của "Hội thánh của Đức Chúa trời" không diễn ra phổ biến, nhưng một số đối tượng vẫn lén lút hoạt động và tìm mọi cách để dụ dỗ, lôi kéo người dân tham gia. Do đó, người dân cần hết sức cảnh giác, kịp thời thông báo cho cơ quan chức năng khi phát hiện hoạt động của các đối tượng này.

Khoảng 14h30 ngày 12/12, trong khi đối tượng Phạm Thị Ngọc Huyền, có HKTT tại số 3, đường An Dương Vương, Quận Tây Hồ, TP Hà Nội là thành viên của tổ chức “Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ” đang tổ chức tuyên truyền, vận động, dụ dỗ, lôi kéo các thành viên trong một gia đình tại tổ 12, phường Yên Ninh, TP Yên Bái tham gia “Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ” thì bị lực lượng Công an TP Yên Bái phát hiện, kịp thời ngăn chặn. Đồng thời thu giữ nhiều sách, tài liệu và máy tính xách tay có chứa các nội dung tuyên truyền về “Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ”.

Tại đây đối tượng khai nhận đã sử dụng các tài liệu và các video, hình ảnh do mình tự sưu tầm và biên soạn để tuyên truyền, dụ dỗ cho một số người dân trên địa bàn TP Yên Bái tham gia vào tổ chức “Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ”.

“Buổi đầu thì chưa có gì đâu, những cái buổi sau nó mới tăng dần lên. Họ đưa ra những cái vấn đề thực trạng của xã hội bây giờ xong nói là do quỷ sa tăng gây ra. Lúc nào cũng dụ dẫn rất là ngọt ngào để đưa các bác vào làm các việc xấu. Bây giờ các bác muốn tránh các việc xấu thì phải tin theo Chúa. Họ dẫn dắt mình như thế đấy” - Ông Nguyễn Hồng Chuyên, một người dân ở Phường Yên Ninh, TP Yên Bái cho biết.

Theo thông tin từ lực lượng An ninh Công an TP Yên Bái cung cấp, qua rà soát, xác minh, đến thời điểm hiện tại trên địa bàn TP Yên Bái không có các đối tượng cốt cán của tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ" hoạt động và cư trú, tuy nhiên vẫn có các đối tượng thành viên của tổ chức này lén lút hoạt động, tìm cách dụ dỗ, lôi kéo người dân tham gia vào tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ".

 “Những cái nội dung chúng em chia sẻ ví dụ như là về con tàu Nô-ê, về vũ trụ, trái đất, tức là có đặt niềm tin là Chúa sáng tạo…thì để cho người ta tin. Giờ thì em cũng nhận thức được là em sai rồi.” - Đối tượng Phạm Thị Ngọc Huyền chia sẻ sau khi viết bản tường trình và cam kết không tái phạm tuyên truyền đạo trái phép tại cơ quan Công an.

Sáu tháng đầu năm 2023, lực lượng Công an trong cả nước đã phát hiện, xử lý 12 vụ, 85 đối tượng hoạt động, sinh hoạt theo "Hội thánh của đức Chúa trời", gây mất ANTT. Hầu hết các đối tượng này đều bị các đối tượng cốt cán của tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ" dụ dỗ, mua chuộc để tiến hành tuyên truyền, lôi kéo người dân tham gia tổ chức.

“Cái nguy hiểm nhất là phá vỡ thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Cái thứ 2 nó làm cho đình trệ phát triển kinh tế mỗi gia đình, bởi vì họ suốt ngày sa đà vào cái họp hành, đi quyên góp các thứ. Mà cái quyên góp này không phải là để giúp đỡ người nghèo, những trường hợp khó khăn, mà là quyên góp cho cái đạo đức Chúa trời mẹ của họ. Mình xem thì là mỗi tháng là phải bỏ ra 10% thu nhập, chưa kể là còn phải quyên góp này khác.” - Bà Nguyễn Thị Tuyết Mai, ở tổ 12, Phường Yên Ninh, TP Yên Bái, từng chứng kiến các đối tượng đến tuyên truyền về tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ" chia sẻ.

Thiếu tá Nguyễn Trung Hậu - Đội trưởng Đội An ninh, Công an TP Yên Bái cho biết: Tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ là một tổ chức tà đạo, hoạt động trái pháp luật, tiềm ẩn nhiều phức tạp, tiêu cực. Đi trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc. Qua một số vụ việc chúng tôi đã điều tra thì cho thấy các đối tượng này còn lợi dụng việc tuyên truyền về tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ" để thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật như lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Chính vì vậy người dân cần hết sức cảnh giác, không tin, không nghe theo và kịp thời báo với chính quyền địa phương, lực lượng Công an khi phát hiện hoạt động của các đối tượng này, để kịp thời xử lý”.

Việt Nam luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo và tạo điều kiện thuận lợi cho những tổ chức tôn giáo được cấp phép hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên cũng kiên quyết đấu tranh với những hành vi núp bóng tôn giáo để làm ảnh hưởng đến trật tự xã hội, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục truyền thống. Do đó, mỗi người dân cần tỉnh táo trước những luận điệu tuyên truyền của tổ chức "Hội thánh của Đức Chúa trời mẹ", không để các đối tượng dụ dỗ, lôi kéo thực hiện các hoạt động gây mất ANTT.

Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện “phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng”

 

Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng cách mạng xuyên suốt của Đảng và dân tộc Việt Nam; là con đường đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại để đưa đất nước ta ngày càng phát triển, trường tồn, nhân dân ta ấm no, hạnh phúc. Đó cũng là mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Trong suốt gần 80 năm qua, đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong Quân đội luôn thấm nhuần, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì mục tiêu cao cả đó. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan mà một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Do đó, để kịp thời kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, khắc phục những biểu hiện này là nhiệm vụ cấp bách, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ các giải pháp.

Một là, cấp ủy, tổ chức đảng nêu cao tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình, nhận rõ, kiên quyết đấu tranh với biểu hiện “phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng”. Thực tiễn cho thấy, biểu hiện suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên được thể hiện đa dạng, ở nhiều mức độ khác nhau, thậm chí được che giấu rất tinh vi. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần nêu cao tính chiến đấu thường xuyên và liên tục thông qua tự phê bình, phê bình mới làm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng nhận ra và kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện đó; giúp nhau sửa chữa, khắc phục. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất, là “thang thuốc hay nhất”, “hữu hiệu nhất” để sửa chữa chữa khuyết điểm. Để thực hiện tốt, các cấp ủy, tổ chức đảng phải duy trì thường xuyên, nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình; đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên phải có “dũng khí”, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, “dám nói”, trên tinh thần vì sự tiến bộ của tổ chức, của đồng chí, đồng đội để đấu tranh với bản thân, với đồng chí, đồng đội, thậm chí là cấp trên về những biểu hiện phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Song, kiên quyết tránh động cơ cá nhân trong tự phê bình và phê bình làm ảnh hưởng đến uy tín, phẩm chất của tổ chức, cán bộ, đảng viên.

Hai là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đây là giải pháp quan trọng để phát hiện, ngăn chặn từ sớm, từ xa những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, nhất là trong tình hình hiện nay. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng… chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên”1. Vì vậy, để tạo sức mạnh trong đấu tranh, ngăn chặn biểu hiện phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra đảng các cơ quan, đơn vị cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát định kỳ, đột xuất để kịp thời cảnh báo, phòng ngừa và xử lý sai phạm. Nội dung kiểm tra, giám sát phải toàn diện, được tiến hành thường xuyên; chú trọng kiểm tra, giám sát về tư tưởng chính trị, thực hiện Cương lĩnh chính trị, các nghị quyết, nguyên tắc sinh hoạt của Đảng. Quá trình thực hiện cần phối hợp chặt chẽ với công tác bảo vệ chính trị nội bộ, các biện pháp hành chính, kiên quyết xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm theo tinh thần không có “vùng cấm”; đưa ra khỏi bộ máy cơ quan Đảng, Nhà nước những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất làm trong sạch nội bộ.

Ba là, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” với “chống”; tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Đây là giải pháp nền tảng, xuyên suốt góp phần làm cho mọi cán bộ, đảng viên luôn giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng cách mạng. Theo đó, công tác giáo dục phải bao quát trên tất cả các nội dung, song cần tập trung vào những vấn đề cốt lõi là: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mục tiêu, lý tưởng cách mạng; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Quân ủy Trung ương; đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần suốt đời phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân của người cán bộ, đảng viên. Trong quá trình giáo dục phải chỉ ra, kiên quyết đấu tranh với nhận thức sai trái, luận điệu xuyên tạc; những biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi cán bộ, đảng viên. Qua đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, khơi dậy niềm vinh dự, tự hào, khát vọng cống hiến, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, “vượt qua chính mình” trước những “cám dỗ” về vật chất, danh lợi, địa vị và sự lôi kéo, kích động của các thế lực thù địch, ra sức phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng cách mạng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Bốn là, xây dựng tổ chức cơ sở đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường tốt để rèn luyện, đấu tranh với những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên. Tổ chức cơ sở đảng là nơi đảng viên sinh hoạt, công tác; nơi quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên. Vì vậy, để đấu tranh hiệu quả với những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, việc xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là giải pháp cơ bản, cấp bách. Theo đó, các tổ chức cơ sở đảng tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XIII) Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gắn với thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (khóa XIII) về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới, Nghị quyết số 847 của Quân ủy Trung ương, v.v. Qua đó, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nhất là khả năng đấu tranh trước những hiện tượng tiêu cực, biểu hiện suy thoái, chủ nghĩa cá nhân của cán bộ, đảng viên.

Năm là, nêu cao ý thức “tự soi, tự sửa” trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi cán bộ, đảng viên. Phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng là một trong những biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, nó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nếu lơ là, xem nhẹ, buông lỏng, thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống sẽ là mảnh đất màu mỡ dẫn tới tha hóa, biến chất, thậm chí phản bội Tổ quốc. Thực tế cho thấy, những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật có nguyên nhân căn bản từ việc thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao tinh thần “tự soi, tự sửa”, thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, cả trong tư tưởng, suy nghĩ và hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”2. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức về tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, đó không chỉ là yêu cầu của cấp ủy, tổ chức đảng, mà thực hiện tốt góp phần làm cho bản thân ngày càng hoàn thiện hơn. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải có quyết tâm cao, kế hoạch tu dưỡng, rèn luyện; đăng ký với cấp ủy, tổ chức đảng để theo dõi, giám sát, đôn đốc, nhắc nhở; định kỳ kiểm điểm, đánh giá, kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm.

Chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện “phai nhạt, phản bội mục tiêu, lý tưởng cách mạng” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, tuy đã được ngăn chặn bước đầu, song vẫn diễn biến phức tạp, làm suy yếu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức mạnh, sự đoàn kết, thống nhất trong mỗi tổ chức đảng, phai nhạt phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, giảm sức mạnh chiến đấu của Quân đội ta. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, là nhiệm vụ cấp bách, thường xuyên; đòi hỏi cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị cần nhận thức sâu sắc, quyết tâm chính trị cao, hành động quyết liệt, chủ động, sáng tạo, thực hiện đồng bộ các giải pháp. Qua đó, không chỉ tạo ra nguồn cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, đẩy lùi biểu hiện phai nhạt mục tiêu, lý tưởng cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, mà còn tô thắm và làm sáng mãi phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.

Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, làm thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội

     Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội luôn là vấn đề sống còn của Quân đội, vấn đề then chốt trong phòng chống, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội. Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, cần phải.

 Trước hết cần tăng cường giáo dục giác ngộ sâu sắc về bản chất giai cấp công nhân, nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng cho cán bộ, chiến sĩ toàn quân. Điều đó sẽ có tác dụng trực tiếp ngăn chặn sự xâm nhập, lây lan, tiến tới “vô hiệu hóa” luận điệu “phi chính trị hóa” Quân đội, “Quân đội trung lập” của các thế lực thù địch. Thực hiện vấn đề này, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng phải làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhận thức sâu sắc rằng, quân đội bao giờ cũng mang bản chất của một giai cấp nhất định, không có quân đội phi giai cấp, siêu giai cấp. Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng, Bác Hồ tổ chức, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện; là quân đội kiểu mới mang bản chất giai cấp công nhân, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Đồng thời, công tác giáo dục chính trị - tư tưởng phải làm cho bản chất giai cấp công nhân của Quân đội ngày càng thấm sâu, trường tồn và phát triển mạnh mẽ trong tư tưởng, tình cảm của mỗi cán bộ, chiến sĩ. Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần chú trọng xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, ý chí quyết tâm cao, năng lực, tác phong công tác tốt, lối sống trung thực giản dị; luôn kiên định con đường cách mạng của Đảng, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quyết tâm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo.

Hai là, xây dựng các tổ chức đảng trong Quân đội thật sự trong sạch, vững mạnh tiêu biểu. Đây là nội dung rất quan trọng, làm cơ sở để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đốỉ, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Vì vậy, phải thường xuyên chăm lo xây dựng tổ chức đảng các cấp trong Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Theo đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, Quân ủy Trung ương về công tác xây dựng Đảng theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; gắn việc triển khai thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị, Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XIII) với thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 847-NQ/QUTW về Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, xây dựng các tổ chức đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, lãnh đạo đơn vị chấp hành nghiêm đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Ba là, coi trọng xây dựng môi trường văn hóa trong sạch, lành mạnh ở các đơn vị Quân đội. Hiện nay trước sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội và tác động ảnh hưởng lớn của văn hóa xấu độc, các tệ nạn xã hội,… đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, chiến sĩ, đòi hỏi các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng “môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú” gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”; xây dựng “Đơn vị văn hoá” với đẩy mạnh phong trào Thi đua Quyết thắng. Trong đó, chú trọng xây dựng các điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt; giữ vững, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; kết hợp giữa bồi dưỡng nâng cao lập trường chính trị, tư tưởng với xây dựng đời sống văn hoá; xây dựng cảnh quan môi trường với củng cố nền nếp chính quy, rèn luyện kỷ luật, tạo ra những chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa - tinh thần của bộ đội, góp phần xây dựng ý chí quyết tâm vượt khó khăn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Bốn là, kiên quyết đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, vạch trần bản chất phản động, phản khoa học của âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội. Đấu tranh trực diện với địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận chống âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội có tầm quan trọng đặc biệt và trở thành mặt trận nóng bỏng, gay go, quyết liệt hiện nay. Nhiệm vụ cơ bản trong đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận chống âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của kẻ thù là bảo vệ và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới; đấu tranh làm rõ luận điệu cho rằng “quân đội trung lập về chính trị”, “quân đội phi giai cấp” là vô căn cứ, phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Đồng thời, tiếp tục khẳng định Quân đội ta mang bản chất giai cấp công nhân, được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo, thực hiện mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Để tiến hành đấu tranh có hiệu quả trên lĩnh vực này, cần chú trọng và thực hiện tốt công tác đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lý luận và lực lượng nòng cốt (lực lượng 47) toàn quân có đủ phẩm chất và năng lực, nhạy bén, sắc sảo trong đấu tranh và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho lực lượng này tích cực tham gia đấu tranh với địch.

Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”3 đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Bởi vậy, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội sẽ luôn là “tấm lá chắn bất khả chiến bại” bảo đảm cho Quân đội có “sức đề kháng mạnh mẽ”, “miễn dịch” hoàn toàn với mọi thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch. Đồng thời, đó cũng là vũ khí sắc bén để đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái xuyên tạc, phủ nhận tính khoa học và thời đại của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong Quân đội. Làm cho Quân đội ta luôn trung thành với Đảng, chiến đấu vì lý tưởng, mục tiêu của Đảng, mãi xứng đáng truyền thống quyết chiến, quyết thắng, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng./.

Làm phá sản mọi sự xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch

     Đấu tranh làm phá sản mọi sự xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch là nội dung trọng tâm, nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong “cuộc chiến trong thời bình” của Đảng, Nhà nước, Nhân dân và Quân đội ta hiện nay. Để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này, chúng ta phải thực hiện tổng thể nhiều nội dung, biện pháp; trong đó, tập trung làm tốt những nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, đề cao cảnh giác, kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm phá sản mọi sự xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch. Mọi biểu hiện chủ quan, lơ là, mất cảnh giác, hoặc mắc sai lầm đối với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, “phi chính trị hóa” Quân đội ta nói chung, sự xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” nói riêng đều rất nguy hiểm, sẽ khiến chúng ta phải “trả giá”. Do đó, trong bất cứ hoàn cảnh, tình huống nào, cũng phải đề cao cảnh giác, tuyệt đối không lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong đấu tranh. Tuy nhiên, tinh thần cảnh giác, kiên quyết đấu tranh phải trên cơ sở nhận rõ thực chất những luận điệu xuyên tạc và tính chất nguy hiểm, tác hại của sự xuyên tạc đó. Không thể đánh đồng hiện tượng vi phạm kỷ luật, sự suy thoái, tha hóa về đạo đức, lối sống của một số cán bộ, chiến sĩ với sự xuyên tạc, chống phá, hạ thấp phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch, tuy giữa chúng có quan hệ với nhau nhất định; càng không thể nhầm lẫn những hiện tượng đó với bản chất tốt đẹp của Quân đội ta và giá trị, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Muốn đấu tranh có hiệu quả, không chỉ hô hào khẩu hiệu chung chung, mà nhất thiết phải tổ chức tốt việc đấu tranh ở tất cả các cơ quan, đơn vị trong toàn quân; thường xuyên bồi dưỡng lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực và dũng khí đấu tranh.

Thứ hai, quán triệt sâu sắc quan điểm và phương châm tích cực, chủ động trong đấu tranh. Kết hợp chặt chẽ giữa tích cực, chủ động “đấu tranh” làm phá sản mọi luận điệu xuyên tạc với việc “giữ vững, nâng cao và phát huy” phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”; lấy “giữ vững, nâng cao và phát huy” là chính, tích cực chủ động “đấu tranh” là quan trọng. Kiên quyết khắc phục những biểu hiện thụ động, bị động, hoặc chỉ hô hào chung chung. Phải vạch rõ bản chất phản động, phản khoa học và tính chất nguy hiểm, những tác hại của những luận điệu xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” mà các thế lực thù địch đang tiến hành. Đồng thời, thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; quản lý chặt chẽ việc sử dụng, tham gia hoạt động trên Internet, mạng xã hội của mọi quân nhân; nắm bắt tư tưởng, tâm trạng, nguyện vọng của cán bộ, chiến sĩ. Kết hợp chặt chẽ quản lý tư tưởng với quản lý kỷ luật, giáo dục thuyết phục với các biện pháp hành chính, tự phê bình và phê bình; kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở, xử lý, ngăn chặn những hành vi tán phát các thông tin xấu độc, xuyên tạc.

Thứ ba, đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao bản lĩnh chính trị, giác ngộ mục tiêu lý tưởng chiến đấu, xây dựng ý chí quyết tâm, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng cho mọi quân nhân, tạo sự “miễn dịch” cần thiết, gia tăng sức “đề kháng” để ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và xâm nhập của các luận điệu xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị (khóa XIII), Chỉ thị số 87-CT/QUTW, ngày 08/7/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Chỉ thị số 855-CT/QUTW, ngày 12/8/2019 của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28/12/2021 của Quân ủy Trung ương về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới. Qua đó, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và những “tư tưởng tiến bộ, tích cực thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đẩy lùi những sai trái”1, thực hiện tốt việc “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, “lấy thông tin tích cực đẩy lùi thông tin tiêu cực”. Trên cơ sở đó, tạo nên sự vững vàng, nhạy bén về tư tưởng, chính trị cho cán bộ, chiến sĩ; gia tăng sức “đề kháng” và khả năng “miễn dịch“tự bảo vệ”, ngăn chặn, loại trừ sự thẩm thấu và tác động bởi những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Thứ tư, phát huy tinh thần tự giác, nỗ lực phấn đấu, nêu gương của cán bộ, chiến sĩ. Tinh thần tự giác, nỗ lực phấn đấu, nêu gương trong giữ gìn, phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của cán bộ, chiến sĩ là động lực và sức mạnh to lớn làm phá sản mọi sự xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” của các thế lực thù địch. Việc giữ vững và phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, cũng như việc đấu tranh làm phá sản mọi sự xuyên tạc phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” phụ thuộc quyết định vào cán bộ, chiến sĩ nhận thức và hành động như thế nào, thể hiện cụ thể trong thực tiễn huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cũng như trong sinh hoạt đời thường ra sao. Mọi sự “đổ lỗi” cho hoàn cảnh khách quan nhằm biện minh cho sự suy thoái về đạo đức, lối sống, sự suy giảm hình ảnh tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” của cán bộ, chiến sĩ đều là không đúng và cần phải loại trừ. Trong quan hệ với nhân dân, cán bộ, chiến sĩ Quân đội phải thực sự yêu mến, kính trọng nhân dân; hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; bảo vệ, giúp đỡ nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đồng thời, vận động, thuyết phục nhân dân tham gia cách mạng, ủng hộ, giúp đỡ Quân đội; giữ nghiêm kỷ luật quan hệ với nhân dân, thực hiện tốt “đi dân nhớ, ở dân thương”, “không đụng đến cái kim, sợi chỉ của nhân dân”, v.v. Trong đó, cần đặc biệt nêu cao tinh thần trách nhiệm nêu gương, sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ trì, cán bộ chính trị các cấp phải thực sự là tấm gương mẫu mực, trong sáng về tự tu dưỡng, rèn luyện và tiêu biểu trong đấu tranh bảo vệ giá trị, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.

Giải pháp bảo vệ Tổ quốc bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới

     Bảo vệ Tổ quốc bằng nghệ thuật chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới, đánh địch bằng mưu kế, thắng địch bằng thế thời, đó là thượng sách giữ nước của dân tộc. Một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực thì không một thế lực nào có thể đánh bại được. Để tiến hành một cuộc chiến tranh nhân dân đích thực, trong điều kiện đối phương sử dụng vũ khí công nghệ cao, cần có các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi các nguy cơ xung đột và chiến tranh, chuẩn bị mọi mặt để tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Một là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững chắc, có sức mạnh tổng hợp cao, có sức đề kháng mạnh mẽ và có khả năng ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh, sẵn sàng chuyển thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức đúng đắn cho toàn dân về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chuẩn bị thế trận chiến tranh nhân dân trong điều kiện mới ngay từ thời bình. Tập trung giáo dục để mọi người có nhận thức đúng về tình hình các mặt, về đối tượng, đối tác, dự kiến các tình huống quốc phòng, an ninh, mục tiêu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Hết sức chú trọng bồi dưỡng để có nhận thức đúng về vũ khí công nghệ cao, khắc phục tư tưởng sợ sệt, lo ngại, thiếu niềm tin vào khả năng sức mạnh của đất nước. Từ đó, có quyết tâm cao trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận, coi trọng xây dựng hệ thống chính trị, “thế trận lòng dân”, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, xây dựng các thành phần của thế trận quân sự, gắn xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân với xây dựng thế trận an ninh nhân dân. Xây dựng nền quốc phòng toàn dân không ngừng hiện đại là cơ sở chủ yếu để tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc thắng lợi. Về lực lượng, là cơ sở để mở rộng lực lượng, đáp ứng yêu cầu chiến tranh. Về tiềm lực, là cơ sở quan trọng huy động các khả năng tiềm tàng của đất nước phục vụ nhu cầu của chiến tranh. Về thế trận, là cơ sở chủ yếu để chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Xây dựng Quân đội nhân dân hiện đại phải toàn diện cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, trang bị kỹ thuật, xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, huấn luyện và bảo đảm. Coi trọng nâng cao trình độ năng lực, tổ chức, trang bị, vũ khí và nghệ thuật tác chiến; trong đó, hiện đại hóa về vũ khí, trang bị có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao. Chúng ta luôn khẳng định con người là nhân tố quyết định nhưng cũng với những con người ấy, nếu có vũ khí, trang bị tốt hơn thì hiệu suất tác chiến sẽ cao hơn. Vì vậy, cùng với xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao cần kết hợp chặt chẽ giữa cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị hiện có với sản xuất, mua sắm trang bị hiện đại cho Quân đội, tập trung trang bị các loại vũ khí chiến lược có tầm đánh xa, uy lực lớn, độ chính xác cao, nâng cao khả năng răn đe từ thời bình và đánh thắng nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Đầu tư hơn nữa xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững chắc, bảo vệ từng địa bàn, địa giới hành chính, phát huy cao nhất sức mạnh của nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, chỗ dựa vững chắc cho toàn dân đánh giặc.

Ba là, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học quân sự, nhất là nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân. Coi trọng công tác nghiên cứu dự báo, nhất là dự báo chiến lược, dự báo các thách thức, tình huống quốc phòng, an ninh, hình thái chiến tranh có thể xảy ra. Trong nghiên cứu về đối tượng tác chiến, chú trọng đối tượng có thể tiến hành chiến tranh xâm lược quy mô lớn, không coi nhẹ đối tượng xâm lấn biên giới, biển, đảo. Nghiên cứu về chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao và các giải pháp phòng, chống vũ khí công nghệ cao. Nghiên cứu phát triển lý luận tác chiến chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, nhất là các loại hình tác chiến mới xuất hiện: tác chiến bảo vệ biển, đảo; tác chiến phòng thủ; tác chiến đánh địch tiến công hỏa lực; tác chiến tiến công tổng hợp; tác chiến không gian mạng; tác chiến điện tử,… kế thừa kinh nghiệm từ chiến tranh giải phóng, nhưng không sa vào chủ nghĩa kinh nghiệm, các nghiên cứu phải phù hợp các điều kiện tác chiến mới của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.

Không thể xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng

 

Hiện nay, trước sự phát triển của vũ khí, phương tiện, hình thái chiến tranh, có quan điểm cho rằng, đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là không phù hợp. Đây là nhận thức, quan điểm sai lầm, thiếu cơ sở khoa học, cần kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Trước hết chúng ta phải khẳng định: Chiến tranh nhân dân là đường lối duy nhất đúng để phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nếu buộc phải tiến hành chiến tranh. Chiến tranh nhân dân - một trong những sáng tạo về nghệ thuật tiến hành chiến tranh của Việt Nam là đường lối kế thừa xuất sắc truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, khi phải chống lại những đội quân xâm lược lớn mạnh hơn ta nhiều lần, tổ tiên ta đã vận hành thắng lợi nghệ thuật “lấy yếu chống mạnh, lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều”, dựa trên cơ sở phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc. Thời bình thực hiện giữ nước từ khi nước chưa nguy, với các chính sách “ngụ binh ư nông”, “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”, dựa vào dân để giữ nước. Thời chiến đánh giặc bằng sức mạnh của toàn dân tộc “chúng chí thành thành, cử quốc nghênh địch”, cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc. Dựa vào dân làm kế “vườn không, nhà trống”, đánh giặc bằng mọi lực lượng, mọi loại vũ khí, ở mọi lúc, mọi nơi,… để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý, viết nên truyền thống vẻ vang, đánh giặc giữ nước bằng sức mạnh của toàn dân tộc. Thời nào cũng vậy, khi đã phát huy được cao độ sức mạnh của toàn dân tộc, thì không một thế lực nào khuất phục được dân tộc ta - đó là thực tế mà không thế lực nào có thể phủ nhận.

Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong thời kỳ đổi mới đất nước, đường lối chiến tranh nhân dân vẫn là đường lối cơ bản, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong tổ chức, chuẩn bị và sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc (nếu xảy ra). Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay có sự phát triển, thay đổi rất khác trước, dự báo đối tượng tác chiến sẽ sử dụng phổ biến vũ khí công nghệ cao, vũ khí thông minh cùng những phương thức tác chiến mới. Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngày càng cao, nhất là nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, biên giới, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, ly khai, giữ vững hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong tình hình ấy, đường lối chiến tranh nhân dân, quốc phòng toàn dân trong đấu tranh bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn còn nguyên giá trị. Mọi luận điểm phủ nhận, xuyên tạc đường lối chiến tranh nhân dân chỉ là mưu đồ chống phá của các thế lực thù địch. Trên thực tế, chúng ta chưa bao giờ coi nhẹ vũ khí công nghệ cao; tuy nhiên, vũ khí công nghệ cao không phải là “vũ khí vạn năng”, nó cũng có những hạn chế, bởi nó được chế tạo theo hệ thống, vận hành theo hành trình, quy luật, một số loại còn chịu ảnh hưởng rất lớn của địa hình, thời tiết, một số loại còn bay thấp, tốc độ không cao, v.v. Nếu có các giải pháp hợp lý vẫn có thể hạn chế hiệu quả của vũ khí công nghệ cao, kể cả các giải pháp thô sơ, truyền thống. Nhưng vũ khí dù có hiện đại đến đâu vẫn do con người sử dụng, vì thế không thể coi nhẹ yếu tố con người, mà đường lối chiến tranh nhân dân là đường lối phát huy cao độ yếu tố con người, với phẩm chất kiên cường, bất khuất, có ý chí, quyết tâm cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, chiến đấu vì quê hương, đất nước. Vũ khí công nghệ cao có thể phá hủy được một số mục tiêu cố định, sát thương được một bộ phận lực lượng vũ trang và nhân dân ta, nhưng không thể đánh được tất cả mọi nơi trên đất nước Việt Nam và càng không thể là vũ khí bất khả xâm phạm; còn Đảng, còn Quân đội, còn Nhân dân, chúng ta còn chiến thắng. Đó chính là chiến tranh nhân dân.

Lực lượng tiến hành chiến tranh nhân dân là lực lượng toàn dân, có mặt ở khắp mọi nơi, tạo thế trận rộng khắp, có thể bắn hạ tên lửa hành trình, máy bay không người lái, máy bay bay thấp, có thể đánh hiểm vào các khu vực bố trí vũ khí công nghệ cao của địch trên các môi trường, địa hình,... bằng các lực lượng đặc biệt tinh nhuệ. Trong tương lai, nếu buộc phải tiến hành chiến tranh, chúng ta vẫn phải kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân, nhưng có sự phát triển ở trình độ cao và vẫn phải đánh với đối phương có vũ khí, trang bị hiện đại hơn ta, thậm chí hiện đại hơn ta rất nhiều lần. Chỉ có chiến tranh nhân dân mới phát huy được cao nhất sức mạnh của toàn dân tộc đánh thắng quân xâm lược, kể cả chiến tranh bằng vũ khí công nghệ cao và chỉ có chiến tranh nhân dân mới có nhiều giải pháp hạn chế vũ khí công nghệ cao. Đây cũng là câu trả lời đanh thép để bác bỏ luận điệu xuyên tạc, phủ nhận đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

Không thể phủ nhận thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm các quyền dân sự và chính trị

     Trong những năm qua, việc triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp về đảm bảo các quyền dân sự và chính trị cho người dân với nhiều thành tựu đạt được là nỗ lực rất lớn của Việt Nam. Qua đó, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đó là thực tiễn sinh động, không ai có thể phủ nhận.

Trước hết, Việt Nam luôn nỗ lực xây dựng, hoàn thiện pháp luật về đảm bảo quyền dân sự và chính trị cho người dân; được hiến định đầy đủ trong Hiến pháp năm 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”1. Đồng thời, quy định rõ: “mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác, việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”2. Việc cụ thể hóa Hiến pháp, cũng như các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên bằng các bộ luật, luật và các văn bản quy phạm pháp luật cũng luôn được Nhà nước ta quan tâm. Chỉ riêng từ tháng 01/2019 đến tháng 12/2022, Quốc hội Việt Nam đã thông qua gần 60 luật, nghị quyết có liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Song song với đó, Việt Nam không ngừng hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước để bảo đảm các quyền dân sự, chính trị và khuôn khổ pháp luật về xử lý các hành vi xâm phạm các quyền này, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự, Luật Quốc phòng, Luật Công an nhân dân, Luật Xử lý vi phạm hành chính, v.v. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức phản biện xã hội cũng được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật, như: Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Công đoàn, v.v. Đồng thời, ban hành, sửa đổi, bổ sung luật, quy định xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của người dân Việt Nam. Ngoài ra, Việt Nam tích cực hoàn thiện các khuôn khổ pháp luật khác, tạo điều kiện thuận lợi nhất, bảo đảm cho cá nhân, đặc biệt là các nhóm dễ bị tổn thương được thụ hưởng các quyền dân sự và chính trị, được tiếp cận thông tin, nâng cao nhận thức và có điều kiện thuận lợi trong thực hiện các quyền này, như: Luật Trợ giúp pháp lý; Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, v.v.

Hai là, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung, pháp luật về các quyền dân sự và chính trị nói riêng được Nhà nước Việt Nam xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, được tiến hành thường xuyên, liên tục, đạt nhiều kết quả quan trọng. Theo đó, các cấp, ngành từ Trung ương đến địa phương luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác này bằng nhiều chủ trương, giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Chính sách pháp luật được truyền tải đến người dân bằng nhiều kênh khác nhau, với sự phong phú, đa dạng về hình thức, phương pháp, cách thức tiến hành; từ các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm chuyên sâu, đến các hình thức phổ thông, tiếp cận mọi người dân trên mọi vùng miền của đất nước. Công tác truyền thông chính sách được đẩy mạnh với các chuyên mục chuyên sâu về phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện truyền thông đại chúng của Trung ương và địa phương, được thể hiện bằng tiếng phổ thông cùng 13 tiếng dân tộc thiểu số và tiếng nước ngoài. Các cơ quan báo chí tích cực phối hợp với các ban, ngành, đoàn thể địa phương xây dựng và thực hiện các chuyên mục pháp luật ngày càng chặt chẽ, sáng tạo, hiệu quả. Việc ứng dụng công nghệ thông tin, mạng xã hội bằng fanpage, zalo, sử dụng nhắn tin qua các mạng di động để tăng tính tương tác, hấp dẫn cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được đẩy mạnh thực hiện rộng rãi. Đồng thời, chú trọng đăng tải các văn bản pháp luật, nhất là những văn bản pháp luật mới ban hành, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật lên cổng, trang thông tin điện tử của bộ, cơ quan, tổ chức ở trung ương và địa phương. Giai đoạn 2013 - 2023, các cấp, các ngành đã tuyên truyền, phổ biến pháp luật trực tiếp cho hơn 9.429.000 lượt người dân; biên soạn và cấp phát miễn phí gần 512.000.000 tài liệu pháp luật, nhiều tài liệu được dịch ra tiếng dân tộc thiểu số, tiếng nước ngoài. Qua đó, góp phần quan trọng trong nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về quyền dân sự, chính trị ở nước ta.

Ba là, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thi hành kịp thời, đầy đủ, nhất quán và nghiêm minh pháp luật về bảo đảm các quyền dân sự và chính trị của người dân. Tiêu biểu như: quyền bầu cử và ứng cử của công dân được quy định cụ thể, được bảo đảm thực thi nghiêm minh, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo. Công dân Việt Nam đủ 18 tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử vào Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Cuộc bầu cử Quốc hội khóa XV (nhiệm kỳ 2021 - 2026), tỷ lệ cử tri tham gia bỏ phiếu đạt 99,6%, cao nhất từ trước đến nay và có thể nói khó có quốc gia nào khác sánh được. Điều đó cho thấy, người dân ngày càng ý thức được quyền của mình và quyền chính trị đó ngày càng được Nhà nước ta đảm bảo tốt hơn.

Các thế lực thù địch thường xuyên tạc, vu khống Việt Nam “bóp ngặt” tự do ngôn luận, báo chí, tín ngưỡng, tôn giáo. Tuy nhiên, đó chỉ là những xảo ngôn thiếu căn cứ. Bởi lẽ, không có một quốc gia nào “bóp ngặt” tự do ngôn luận, báo chí mà lại có số lượng các cơ quan báo chí đông đảo, với đầy đủ các loại hình và phát triển mạnh mẽ như vậy. Lại càng không thể là một quốc gia đứng tốp đầu về tốc độ phát triển internet và người dùng mạng xã hội như Việt Nam. Hiện nay, nước ta có 797 cơ quan báo chí, gồm 127 báo và 670 tạp chí; đến tháng 01/2023, Việt Nam có 72,1 triệu người dùng Internet, tương đương 73,2% dân số; có hơn 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số và khoảng 161,6 triệu kết nối di động đang hoạt động, tương đương 164% dân số. Các cuộc tranh luận, chất vấn, phản biện về chủ trương, chính sách không chỉ diễn ra tại nghị trường Quốc hội, mà còn diễn ra sôi nổi tại các cuộc tọa đàm, hội thảo, bàn luận,… với sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị, xã hội và người dân. Đây là minh chứng khẳng định quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do thông tin ở Việt Nam luôn được bảo đảm.

Chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng

     Trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” luôn là nhiệm vụ cấp bách của cả hệ thống chính trị. Trước những âm mưu, thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của thế lực thù địch trên không gian mạng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn chủ động, kiên quyết trong nhận diện, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”.

Để nâng cao chất lượng đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng trước hết cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, tinh thần cảnh giác, ý chí, quyết tâm cho cán bộ, đảng viên. Phải kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, môi trường internet trong sạch là chính. Cùng với đó, phải huy động sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, của mọi cán bộ, đảng viên; khơi dậy tinh thần yêu nước, ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức tự giác, hành động tích cực trong đấu tranh chống quan điểm sai trái, phê phán những tư tưởng lệch lạc, mơ hồ, dao động; lên án những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm, tư tưởng sai trái trên internet, phải thể hiện là một người sử dụng mạng xã hội thông minh, dứt khoát không ấn thích, không bình luận, không chia sẻ những thông tin không rõ nguồn gốc, không chính thống, không xác định là đúng hay sai…. Đồng thời, khi tham gia mạng xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên phải là một tuyên truyền viên đắc lực, thể hiện rõ quan điểm, thái độ đúng đắn, có những bình luận, chia sẻ, phân tích, tuyên truyền những thông tin chính thống, phản bác những thông tin, bài viết, hình ảnh, video sai lệch, phản động.. để quần chúng nhân dân làm theo. 

Trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0, việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng là nhiệm vụ quan trọng, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Do đó, các cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục, nâng cao ý thức, trách nhiệm, phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng, góp phần xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” và đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự gương mẫu, trước hết là trong cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên không gian mạng.

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

     Tin giả đang nổi lên thành vấn nạn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn nạn tin giả diễn ra tràn lan, gây thiệt hại lớn trên nhiều lĩnh vực, phương diện, nhất là các thế lực thù địch sử dụng tin giả để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta.

Để khắc chế, đẩy lùi vấn nạn tin giả, với trách nhiệm rất cao, Việt Nam đã đề xuất thành lập đội phản ứng của ASEAN về tin giả và được các quan chức cao cấp ASEAN đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, cách thức vận hành đội phản ứng nhanh để đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn là bài toán nan giải. Cùng với đó, việc phát huy vai trò của Trung tâm an ninh mạng quốc gia và Trung tâm phòng, chống tin giả tuy đạt kết quả bước đầu khả quan nhưng vẫn thụ động; chủ yếu là ứng phó, xử lý sự cố, sự việc khi có tình huống mà chưa đề cao đúng mức tính chủ động trong dự báo, ngăn chặn, đẩy lùi tin giả từ sớm, từ xa...

Cùng với đó, để khống chế, đẩy lùi tin giả thì công tác cung cấp, định hướng thông tin chính thống phải được xem là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu. Theo đó, cơ quan chức năng phải thực sự “đi trước, đón đầu” trong việc cung cấp thông tin chính xác, đồng bộ, rộng khắp; biến thông tin chính thống thành dòng chủ lưu trong đời sống thông tin xã hội để ngăn chặn, phòng ngừa, đẩy lùi tin giả. Khi xuất hiện tình huống tin giả, cơ quan chức năng cần có ngay các giải pháp quản lý, khống chế cả về số lượng, phạm vi, mức độ, cường độ lây lan của tin giả trên không gian mạng. Phải nỗ lực khắc chế, đẩy lùi tin giả từ khi chúng vừa manh nha hình thành, hay chí ít là khi chúng xuất hiện nhỏ lẻ, chứ không thể để tin giả lây lan rộng khắp, trở thành "điểm nóng" trên MXH rồi mới “theo đuôi”, đi tìm cách khắc phục, xử lý...

Vấn đề đáng bàn ở đây là vì sao những tin tức giả mạo, bịa đặt trắng trợn vẫn có thể xuất hiện kéo dài trên MXH, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng chưa có cơ quan chức năng kịp thời đứng ra nhận trách nhiệm hoặc chủ động đấu tranh, cung cấp thông tin chính thống nhằm điều chỉnh, uốn nắn, định hướng dư luận ở những thời điểm nhạy cảm? Phải chăng vẫn còn vướng mắc nào đó về mặt cơ chế, hay là do chi phối bởi căn bệnh sợ trách nhiệm? Đây là vấn đề cần nhìn nhận thấu đáo để nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục.

Trên tinh thần đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống, đẩy lùi vấn nạn tin giả, Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ hơn trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông; hoàn thiện quy định, quy chế phát ngôn định hướng dư luận; quy rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu và cơ quan chức năng trong việc quản lý, đấu tranh với vấn nạn tin giả. Đó là những vấn đề cần lưu tâm, ưu tiên thực hiện.

Một giải pháp quan trọng nữa là cần đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan quản lý truyền thông Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong việc phát hiện, khống chế, đẩy lùi tin giả; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức xác minh và nhà cung cấp MXH để đối phó với vấn nạn tin giả trong khu vực và trên thế giới; tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cấp, ngành, cơ quan, địa phương trong cả nước nhằm chủ động ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tán phát, ủng hộ, cổ xúy tin giả nhằm những mục đích tiêu cực, phản động, vi phạm pháp luật.

Cảnh giác với âm mưu xúi giục, kích động thanh niên

 

Trong tình hình hiện nay, khi âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước nhằm vào các tầng lớp là người trung niên, cao tuổi bị thất bại, các thế lực thù, phản động, bất mãn gia tăng chống phá với các luận điệu, như: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên”; "nhiệm vụ của thanh niên là phải đứng lên đấu tranh chống độc tài, đòi tự do, dân chủ”...

Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới. Tuy nhiên, dịp này, các thế lực phản động tập trung hướng vào kêu gọi, kích động đối tượng thanh thiếu niên càng cho thấy dã tâm và sự nham hiểm của chúng. Nếu những người trẻ tuổi thiếu hiểu biết và bản lĩnh sẽ dẫn tới hoài nghi, dao động, phai nhạt lý tưởng, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo.

Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, chăm lo cho lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí, sứ mệnh to lớn của thanh, thiếu niên; xác định thanh, thiếu niên là rường cột của nước nhà, Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước, đồng thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ và lắng nghe ý kiến của thanh niên... Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện những chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... tạo thuận lợi để thanh niên trưởng thành, đảm trách những vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị.

Thực tế trên là rất rõ ràng và không ai có thể phủ nhận. Qua đó càng cho thấy, luận điệu quy chụp “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái. Âm mưu xúi giục, kích động thanh niên "đứng lên đòi tự do, dân chủ, chống độc tài” của các thế lực thù địch là hết sức phản động, thâm độc. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không rơi vào cái bẫy nham hiểm của những kẻ dã tâm chống phá đất nước, luôn tìm mọi cách "chọc gậy bánh xe", gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ nước ta.

 

Cảnh giác trước các âm mưu lôi kéo, kích động

     Xem thông tin kết thúc phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự “Khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân; khủng bố; tổ chức cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh trái phép; che giấu tội phạm” xảy ra tại huyện Cư Kuin (tỉnh Đắk Lắk), nhiều bác nghỉ hưu không khỏi bất ngờ. Trong giờ uống trà buổi tối, chuyện này được bàn luận sôi nổi.

- Tôi nghĩ với tính chất, hành vi khủng bố dã man, tàn bạo, nguy hiểm, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như vậy thì mức án các bị cáo phải chịu nặng hơn. Thực tế, không chỉ người dân nước ta mà cả thế giới đều lên án mạnh mẽ hành vi khủng bố. Các nước đều đấu tranh kiên quyết và triệt để, không khoan nhượng với tội phạm khủng bố...

Cựu chiến binh Sơn vừa dứt lời, bác Mẫn cũng bày tỏ bức xúc:

- Đúng thế! Đó là chưa kể, những kẻ khủng bố hoạt động có tổ chức nhằm thực hiện mưu đồ lật đổ chính quyền nhân dân, chống phá đất nước, làm xáo trộn cuộc sống bình yên của cả huyện, cả tỉnh. Tại phiên tòa, tất cả bị cáo và luật sư bào chữa, trợ giúp viên pháp lý cho các bị cáo đều đồng ý với bản luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Ngay một số trang mạng phản động lần này cũng không thể có ý kiến phản đối tội danh của các bị cáo, bởi những hành vi nguy hiểm và tội lỗi các bị cáo gây ra đã quá rõ ràng. Đáng lẽ tòa phải tuyên phạt thích đáng hơn. 

Thấy các “bạn hưu” đều không đồng tình với mức án “nhẹ” mà tòa sơ thẩm tuyên phạt các bị cáo trong vụ khủng bố ở Đắk Lắk vào đêm 10-6, rạng sáng 11-6-2023, bác Hòa, nguyên là cán bộ ngành tư pháp, giải thích:

- Các bác nói cũng hợp lý, vì với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội khủng bố gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng như vậy thì mức án pháp luật quy định rất nặng. Tại phiên tòa, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt tử hình đối với 2 bị cáo, tù chung thân đối với 11 bị cáo, các bị cáo khác đề nghị mức án từ 12 tháng đến 20 năm tù giam. Khi nói lời sau cùng, các bị cáo đều bày tỏ đã nhận rõ hành vi phạm tội của mình và rất ăn năn hối cải, xin được Đảng, Nhà nước, pháp luật, nhân dân và Hội đồng xét xử xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt để sớm về đoàn tụ với gia đình, làm lại cuộc đời. Đồng thời, các bị cáo cũng xin lỗi những gia đình người bị hại và mong được tha thứ; mong mọi người không nghe theo kẻ xấu, không làm những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật. Nhận thấy hầu hết bị cáo là người dân tộc thiểu số, hiểu biết còn hạn chế, dễ bị các đối tượng xấu lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo, kích động làm những việc trái pháp luật; sau khi xem xét khách quan, toàn diện vụ án, các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, đặc biệt là thực hiện chính sách khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt các bị cáo mức án thấp hơn Viện Kiểm sát nhân dân đề nghị. Cụ thể là tuyên phạt 10 bị cáo mức án tù chung thân, các bị cáo khác bị phạt từ 9 tháng đến 20 năm tù. Như vậy, mức án này thể hiện rõ chính sách nhân văn của Đảng, Nhà nước ta, hợp lý và hợp tình. Nếu các bị cáo có trình độ hiểu biết mà phạm tội thì chắc sẽ bị xử phạt nặng hơn, các bác ạ!

Nghe ông Hòa phân tích thấu đáo, mọi người đều gật gù bày tỏ sự đồng tình. Cựu chiến binh Thắng tiếp lời:

- Tôi thấy bài học rút ra là mỗi chúng ta phải hết sức cảnh giác để không bị lôi kéo, kích động. Các cấp chính quyền cần tăng cường tuyên truyền để người dân hiểu biết pháp luật, nhận rõ những âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước. Mỗi gia đình, từng khu dân cư cũng phải thường xuyên quan tâm làm tốt việc này để chủ động phòng, chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, phản động. Kẻ xấu sẽ không dụ dỗ, lôi kéo được người dân làm những việc trái pháp luật nếu cán bộ, đảng viên từ cấp cơ sở sâu sát bám nắm, làm cho nhân dân hiểu và có tinh thần cảnh giác, ý thức tự giác chấp hành pháp luật, các ông nhỉ?

Nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng

     Không gian mạng luôn là “mảnh đất” màu mỡ để các thế lực thù địch sử dụng đẩy mạnh chống, phá với những âm mưu thủ đoạn mới, tinh vi hơn, nhất là việc lợi dụng trí tuệ nhân tạo (AI), ChatGPT đã và đang tạo ra những nguy cơ, thách thức mới. Do đó, nhiệm vụ đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng càng trở nên cấp bách, quan trọng hơn bao giờ hết. Là lực lượng nòng cốt trong bảo vệ Tổ quốc, Quân đội phải phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm, nâng cao năng lực, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ đặc biệt quan trọng này trên không gian mạng - môi trường chiến lược, “vùng lãnh thổ đặc biệt” của Tổ quốc. 

Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, chỉ huy và cơ quan chính trị các cấp trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” và Đề án “Quân đội phòng, chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trong tình hình mới”, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần xác định: đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng là nội dung quan trọng nhằm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; với nhiều diễn biến phức tạp; phải thực hiện quyết liệt, thường xuyên, lâu dài. Do đó, cần đưa nhiệm vụ này vào nghị quyết lãnh đạo thường kỳ của cấp ủy, tổ chức đảng. Xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung, phương pháp đấu tranh có trọng tâm, trọng điểm, huy động đông đảo lực lượng tham gia. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho bộ đội về vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Xây dựng đồng bộ cơ chế quản lý, bảo vệ, động viên các tổ chức, lực lượng, cá nhân tham gia; thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức đấu tranh; phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, lực lượng, nhất là người đứng đầu cấp ủy, đơn vị trong triển khai tổ chức thực hiện. Thực hiện tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình trong từng thời kỳ; không giáo điều, rập khuôn máy móc; kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái là mặt trận không tiếng súng, nhưng rất quyết liệt, khó khăn, phức tạp, lâu dài. Bởi vậy, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, phẩm chất, năng lực cho bộ đội có vai trò hết sức quan trọng. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần quán triệt, giáo dục cho mọi quân nhân hiểu rõ các nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin; khẳng định tính khoa học, cách mạng, đúng đắn của học thuyết đối với giải phóng dân tộc, giai cấp và nhân loại trong điều kiện hiện nay. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự hội tụ, kết tinh, phát huy những giá trị tinh hoa của văn hóa, đạo đức dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước nhằm hình thành, thực thi, truyền bá hệ giá trị cốt lõi, khát vọng hoà bình, độc lập, tự do, hạnh phúc của con người, dân tộc Việt Nam trong thời đại mới, v.v. Qua đó, làm cho cán bộ, chiến sĩ luôn nhận thức rõ, tin tưởng, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng; có nhận thức và sự lựa chọn đúng đắn trước những thông tin nhiều chiều về đời sống chính trị - xã hội, từ đó tạo ra khả năng “tự đề kháng” trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Để giáo dục hiệu quả, cần thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, đa dạng hóa hình thức và phương pháp bảo đảm phù hợp với từng đối tượng; gắn với phát hiện, giải quyết dứt điểm những phát sinh tư tưởng của bộ đội. Đồng thời, phát huy vai trò đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền miệng cung cấp kịp thời, chính xác thông tin chính thống tới mọi cán bộ, chiến sĩ; lồng ghép nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vào nội dung giáo dục, sinh hoạt chính trị, tư tưởng, thông báo chính trị, thời sự. Bên cạnh đó, thường xuyên quán triệt, giáo dục nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật, quy định phát ngôn; quản lý chặt chẽ hoạt động của quân nhân trên mạng xã hội, kịp thời chấn chỉnh, giúp đỡ quân nhân có biểu hiện dao động về tư tưởng, chính trị; có biện pháp xử lý trường hợp cố tình vi phạm những quy định của Đảng, Nhà nước, Quân đội.

Cùng với giữ vững lập trường, tư tưởng của bộ đội trước sự tấn công của thông tin xấu, độc, các cơ quan, đơn vị cần xây dựng lực lượng nòng cốt và phát huy vai trò của nhiều lực lượng trong đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, thù địch trên không gian mạng. Các cơ quan, đơn vị cần nghiên cứu chọn người, giao nhiệm vụ cụ thể và bố trí thời gian phù hợp để hình thành các lực lượng. Ngoài tiêu chuẩn phẩm chất chính trị vững vàng, lực lượng nòng cốt phải có trình độ lý luận tốt; có khả năng diễn đạt, luận chiến thuyết phục; nhận diện nhanh, đúng vấn đề cần đấu tranh; kịp thời thu thập đủ thông tin và xây dựng được nội dung, biện pháp đấu tranh hiệu quả; cần có “hùng tâm, tráng khí” trong đấu tranh. Lực lượng nòng cốt cần phát huy tốt vai trò trong lựa chọn vấn đề, xác định đối tượng, phương pháp, tổ chức tin, bài đấu tranh. Cần được bồi dưỡng, tập huấn nâng cao kiến thức về quân sự, quốc phòng, kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin, nhất là kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm đấu tranh; phương pháp liên kết, phối hợp với cơ quan, đơn vị bạn, v.v.

Các cơ quan, đơn vị chú trọng kiện toàn lực lượng nòng cốt, có chính sách đãi ngộ thích đáng; quan tâm đầu tư trang bị, phương tiện kỹ thuật, công nghệ,… ngang tầm nhiệm vụ. Đồng thời, xây dựng lực lượng rộng khắp để hỗ trợ tạo số lượng lớn, tần suất đấu tranh cao thông qua việc bình luận, chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực, nhằm áp đảo thông tin xấu, độc trên mạng. Đối với lực lượng chuyên trách tác chiến không gian mạng, cần cung cấp thông tin, xác định rõ những vấn đề trọng tâm, trọng điểm cần tập trung đấu tranh; tổ chức tập huấn cho lực lượng nòng cốt về kỹ thuật, công nghệ, biện pháp trinh sát, tấn công mạng, một số kinh nghiệm ứng phó, xử lý rủi ro, khủng hoảng truyền thông; tăng cường các biện pháp kỹ thuật phòng ngừa, nhận diện, ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc; đẩy mạnh việc nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo phục vụ công tác này. Bên cạnh đó, các lực lượng của Quân đội cần phối hợp tốt với cơ quan truyền thông, lực lượng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, các ban, bộ, ngành Trung ương, địa phương trong trao đổi thông tin, tình hình; xử lý các vấn đề phức tạp, nhạy cảm.

Cùng với đấu tranh ẩn danh, cần tăng cường đấu tranh công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, Internet, mạng xã hội.  Nếu đấu tranh ẩn danh là phương pháp mà người đấu tranh chỉ cung cấp thông tin, luồng tư tưởng mới xuất hiện, quan điểm cụ thể đối với vấn đề mà thế lực thù địch đưa ra để người đọc, người nghe tự suy ngẫm, xác minh vấn đề; tự tìm hướng đi, thì đấu tranh công khai mang tính khẳng định, định hướng,... sẽ cho chất lượng, hiệu quả cao hơnĐể thực hiện tốt, cần tổ chức đủ lực lượng và phương tiện. Trong đó, giao nhiệm vụ cho lực lượng nòng cốt: nhận diện, lựa chọn chủ đề cần đấu tranh; thu thập thông tin có nguồn gốc, biên tập thành bình luận, nhận xét, đánh giá khách quan, trung thực; xây dựng nội dung các bài viết đấu tranh có luận cứ, luận chứng đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn, phù hợp với các chuẩn trên mạng xã hội,... tạo sức thuyết phục, thu hút cộng đồng mạng. Để có hiệu quả cao, cần bám sát các sự kiện chính trị, dự báo thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch để định hướng đấu tranh; chuẩn bị bài viết chuyên sâu, sẵn sàng tài liệu chuyên khảo; đặt hàng chuyên gia, nhà khoa học viết bài về những vấn đề khó,… sẵn sàng đấu tranh, không bị động, bất ngờ, lúng túng. Bên cạnh đó, cần tăng cường xây dựng các trang web, blog, diễn đàn, chuyên trang, chuyên mục chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng,... để đăng tải các bài viết với nội dung tuyên truyền quan điểm chính thống, định hướng dư luận, xây dựng lòng tin, nền tảng vững chắc về tư tưởng cho nhân dân.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội là cuộc đấu tranh quyết liệt, lâu dài và phức tạp. Với vai trò là lực lượng nòng cốt, đi đầu, Quân đội tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, thực hiện tốt hơn nữa chức năng “đội quân công tác”, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.