Thứ Hai, 30 tháng 9, 2024

Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội

 


Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội, xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử, thu hẹp những khác biệt giữa các bộ phận xã hội

Đây vừa là quan điểm chỉ đạo, vừa là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Đối với một đất nước đa dân tộc, đa tôn giáo, nhiều giai tầng xã hội, đồng thời lại có bối cảnh lịch sử đặc thù như Việt Nam, việc xác lập nhận thức và hành động đúng đắn trong việc giải quyết mối quan hệ giữa các bộ phận xã hội khác nhau giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Ở nước ta hiện nay, các mối quan hệ cần tập trung giải quyết để củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là mối quan hệ dân tộc, tôn giáo, mối quan hệ với người Việt Nam ở nước ngoài.

Trong quan hệ dân tộc, Đảng xác định rõ bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Cùng với việc tăng cường quan tâm phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng khó khăn, giảm thiểu dần khoảng cách phát triển giữa các dân tộc, Đảng ta cũng xác định rõ phải kiên quyết “chống kỳ thị dân tộc, dân tộc cực đoan, dân tộc hẹp hòi; nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc[1].

Trong quan hệ tôn giáo, cùng với việc tiếp tục thực hiện nhất quán quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân, Đảng ta cũng chỉ rõ phải “vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời đẹp đạo, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”[2]

Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Đảng ta khẳng định đây là một bộ phận không thể tách rời của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, không chỉ quan tâm hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có điều kiện phát triển kinh tế và đời sống, hội nhập xã hội ở nước sở tại thông qua việc nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh, mà còn phải “tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Việc giải quyết tốt các mối quan hệ này không chỉ trực tiếp góp phần củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mà còn là cơ sở để đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta.



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.170-171.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.171.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.171.

Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với bảo đảm công bằng xã hội


Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với bảo đảm công bằng xã hội, chăm lo lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; thực hiện dân chủ gắn với giữ vững kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Bảo đảm công bằng xã hội đáp ứng và giải quyết hài hòa các lợi ích chính đáng, hợp pháp của các giai tầng trong xã hội là vấn đề then chốt để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, lợi ích của các giai tầng, thành phần xã hội phải được bảo đảm và tôn trọng. Giải quyết hài hòa các quan hệ lợi ích: Lợi ích chung và lợi ích riêng; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; lợi ích toàn thể và lợi ích bộ phận. Chúng ta phải ưu tiên cho lợi ích chung, toàn thể, lâu dài nhưng không hy sinh lợi ích riêng, lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ.

Nếu như trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vấn đề giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước là lợi ích tối cao, là vấn đề quan trọng hàng đầu, là cơ sở tạo nên điểm tương đồng để quy tụ, huy động sức mạnh toàn dân tộc, thì trong điều kiện hiện nay, dưới tác động của cơ chế thị trường, thì vấn đề lợi ích và các quan hệ lợi ích của các dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội, lợi ích cá nhân cần phải được bảo đảm và giải quyết hài hòa. Đây là động lực, là điều kiện để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta.

Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, phải phát huy dân chủ gắn với giữ vững kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Ở nước ta, đại đoàn kết toàn dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm và phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân đối với mọi hoạt động của đời sống xã hội. Dân chủ là điều kiện, tiền đề của đại đoàn kết. Do đó, để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát huy dân chủ. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định, để xây dựng và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, một trong những chủ trương, giải pháp quan trọng nhất là “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”[1].

Cùng với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí cũng được Đảng ta xác định là cơ sở để tạo sự đồng thuận xã hội, sự đồng thuận giữa nhà nước và nhân dân, qua đó tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đảng ta khẳng định: “đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ, triệt để hơn, hiệu quả hơn”, đồng thời “gắn phòng, chống tham nhũng, lãng phí với xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”. Đảng ta nhấn mạnh: “Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc[2].



[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.118.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.193. 

Khái niệm phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam

 


Các thế lực thù địch đối với Việt Nam, là toàn bộ các tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài có tư tưởng, thái độ, hành động, hành vi thù địch và tìm cách chống phá, tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 Phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam là tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức của hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm phòng ngừa và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá Việt Nam nhiệm vụ chính trị thường xuyên của hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và nhân dân. Trong đó, chủ thể lãnh đạo là cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở. Chủ thể quản lý, thực hiện là nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân, lực lượng vũ trang là nòng cốt. Nội dung phòng, chống toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Sử dụng tổng hợp các phương thức phi vũ trang, vũ trang, phòng ngừa từ sớm, từ xa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chúng, bảo vệ vững chắc tổ quốc trong mọi tình huống

Khái niệm tôn giáo, vấn đề tôn giáo ở Việt Nam

 


Theo quan điểm mác xít, tôn giáo là một hiện tượng xã hội, phản ánh hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan, thông qua đó những hiện tượng tự nhiên, xã hội trở thành siêu nhiên, thần bí và con người thờ phụng thế giới siêu nhiên, thần bí ấy.

Tôn giáo là một hiện tượng xã hội, phản ánh niềm tin của con người vào thế giới siêu nhiên, đó là một thế giới không có thật, “thế giới bên kia”, chứ không phải thế giới hiện thực. Con người lấy niềm tin hoang đường, hư ảo ấy làm chân lý, chuẩn mực để giải thích, chi phối hiện thực, và con người có những hành vi với các đối tượng tôn thờ thông qua hệ thống thiết chế tôn giáo, nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần của con người đối với thế giới tâm linh.

Tôn giáo là một cộng đồng xã hội có tổ chức chặt chẽ, có người sáng lập, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi, có tổ chức giáo hội, tín đồ và nơi thờ tự. Ví dụ: Đạo Phật, đạo Công giáo, đạo Cao Đài... Nói ngắn gọn, tôn giáo bao gồm: Đức tin và sự thờ phụng.

Dưới góc độ quản lý nhà nước, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 của Nhà nước Việt Nam nêu khái niệm: Tôn giáo, là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức[1].

Vấn đề tôn giáo là những bất cập, mâu thuẫn, xung đột cần phải giải quyết trong quan hệ giữa bộ phận quần chúng theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa các tôn giáo với nhau hoặc trong nội bộ tôn giáo, tác động đến các lĩnh vực đời sống xã hội của một quốc gia dân tộc, khu vực và thế giới. 

Thực chất của vấn đề tôn giáo là những mâu thuẫn, xung đột về ý thức hệ, lợi ích giữa một bộ phận quần chúng theo tôn giáo và không theo tôn giáo, giữa các tôn giáo với nhau, hoặc trong nội bộ tôn giáo trong quốc gia và quốc tế.

Vấn đề tôn giáo nảy sinh ở nhiều phạm vi, cấp độ khác nhau:

Mâu thuẫn tôn giáo có thể bắt nguồn từ những khác biệt, bất cập, nghịch lý các yếu tố như ý thức tôn giáo (giáo lý, giáo luật, tín điều), hành vi tôn giáo (hệ thống lễ nghi), thiết chế, cơ sở vật chất, nơi thờ tự. Mâu thuẫn tôn giáo có thể bắt nguồn từ những tác nhân khác như điều kiện, hoàn cảnh môi trường, quan điểm, thái độ và việc thực thi chính sách đối với tôn giáo của giai cấp thống trị…

Xung đột tôn giáo là những mâu thuẫn giữa các yếu tố tôn giáo, các nhóm tôn giáo, các tổ chức tôn giáo diễn ra gay gắt, quyết liệt, không thể dung hòa (hỗn dung) được, mang tính đối đầu. Xung đột tôn giáo thường bắt nguồn từ những mâu thuẫn ý thức tôn giáo, sự biến tướng, thay đổi về giáo lý, giáo luật, lễ nghi để phù hợp với phong tục, tập quán của tộc người, địa phương; sự va trạm về địa bàn sinh hoạt, hành đạo, sự chống phá của các thế lực thù địch và những hạn chế, yếu kém trong giải quyết quan hệ tôn giáo; việc thực thi chính sách tôn giáo của nhà nước cầm quyền và các lực lượng tham gia giải quyết vấn đề tôn giáo trên địa bàn.



[1] Mục 5, Điều 2 - Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016

Khái niệm dân tộc, vấn đề dân tộc ở Việt Nam

 


Cho đến nay, thuật ngữ “dân tộc” thường được sử dụng theo hai nghĩa: Nghĩa thứ nhất: Dân tộc (tộc người - Ethnis) là một cộng đồng người hình thành và phát triển trong lịch sử, có mối liên hệ tương đối chặt chẽ, bền vững về nguồn gốc, có phương thức sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ, đặc điểm văn hóa và ý thức tự giác tộc người. Dân tộc xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc (Thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc). Nghĩa thứ hai: Dân tộc (Nation) là cộng đồng người ổn định trong một quốc gia, có chung lãnh thổ, chế độ chính trị, đời sống kinh tế, ngôn ngữ, truyền thống, văn hóa, đặc điểm tâm lý, ý thức và tên gọi của dân tộc.

Vấn đề dân tộc là những bất cập, nghịch lý, mâu thuẫn cần phải giải quyết trong quan hệ giữa các tộc người của một quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trên các lĩnh vực đời sống xã hội, tác động đến sự tồn tại, biến đổi của một dân tộc cũng như đời sống kinh tế, chính trị trên thế giới.

Các mức độ biểu hiện của vấn đề dân tộc: Sự chênh lệch giữa các tộc người; sự bất bình đẳng giữa các tộc người; căng thẳng xã hội giữa các tộc người; xung đột tộc người; tình trạng thù hằn giữa các tộc người và ly khai dân tộc.

Vấn đề dân tộc thể hiện đa dạng, sinh động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, diễn ra trên mọi lĩnh vực, phản ánh cả những vấn đề lịch sử và hiện tại; cả phạm vi quốc gia và quốc tế. Vấn đề dân tộc rất nhạy cảm bởi nó đụng chạm đến tâm lý ý thức tộc người, lợi ích, bản sắc văn hóa tộc người, dễ bị kẻ thù lợi dụng, kích động chống phá. Vấn đề dân tộc còn tồn tại lâu dài, theo V.I.Lênin, ngay cả khi giai cấp và vấn đề giai cấp mất đi thì dân tộc và quan hệ dân tộc vẫn còn tồn tại lâu dài mãi về sau.

Thực chất của vấn đề dân tộc là những mâu thuẫn, xung đột lợi ích nảy sinh giữa các tộc người, các quốc gia dân tộc. Giải quyết vấn đề dân tộc là xác lập những quan hệ công bằng, bình đẳng giữa các tộc người trong quốc gia dân tộc và giữa các quốc gia dân tộc với nhau trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Hiện nay, ở nước ta vấn đề dân tộc đang nảy sinh những vấn đề mới, phức tạp rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, đó là: Vấn đề nghèo đói, chênh lệch giàu nghèo ở vùng dân tộc thiểu số; vấn đề thiếu đất sản xuất vùng đồng bào dân tộc thiểu số; tình trạng mai một văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số; chất lượng nguồn nhân lực các dân thiểu số còn thấp; tệ nạn xã hội gia tăng, diễn biến phức tạp ở nhiều vùng dân tộc thiểu số và những thách thức từ hội nhập quốc tế.

Chủ động xây dựng và thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch tham gia xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc.

 


Trên cơ sở quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, Quân ủy Trung ương, Bộ quốc phòng, Tổng cục Chính trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức xây dựng chương trình quán triệt, nghiên cứu học tập Nghị quyết cho cán bộ, chiến sỹ trong toàn quân. Coi trọng công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện các chương trình, kế hoạch. Các cấp ủy đảng và chỉ huy các đơn vị phải xây dựng chương trình hành động của đơn vị mình về tăng cường đoàn kết dân tộc nhằm hiện thực hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước bằng những hành động thiết thực được chuẩn bị chu đáo về mọi mặt và có tính khả thi cao.

 Cần phát huy vai trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ chỉ huy, đội ngũ chính ủy, chính trị viên các cấp và các cơ quan chức năng trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ. Tổ chức lực lượng hợp lý, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, công tác đảng, công tác chính trị. Kết hợp tốt nhiệm vụ kinh tế - quốc phòng với công tác dân vận, công tác vận động quần chúng để tăng cường đoàn kết dân tộc trên từng địa bàn, khu vực và cả nước.

Nâng cao nhận thức của mọi quân nhân về đại đoàn kết toàn dân tộc và âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

 


Đây là giải pháp cơ bản, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu, bảo đảm sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn quân. Cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp và toàn quân về vị trí, vai trò, nội dung xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay. Đây là nhiệm vụ thường xuyên của các cấp uỷ Đảng, hệ thống chỉ huy, các cơ quan chức năng, các tổ chức quần chúng trong quân đội. Đòi hỏi, phải xây dựng chương trình kế hoạch, giáo dục chặt chẽ, hợp lý, sát với mọi loại hình đơn vị, tính chất và nhiệm vụ công tác. Nội dung giáo dục phải toàn diện, có hệ thống chuyên sâu và cập nhật. Vận dụng phong phú các hình thức, đổi mới các phương pháp, sử dụng đa dạng các phương tiện kỹ thuật, truyền thông hiện đại để nâng cao nhận thức cho quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng.

PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH VỀ GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH:


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Từ khi đổi mới đến nay, Đảng ta đã luôn kiên trì, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, cần thiết phải bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như đấu tranh phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.


Đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong những năm gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đang ra sức xuyên tạc, chống phá đường lối lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước. Đặc biệt, trong thời đại công nghệ số, chúng triệt để sử dụng in-tơ-nét, mạng xã hội tán phát nhiều tin, bài với các nội dung quan điểm sai trái, thù địch, nhằm tác động đến tâm lý người dân và đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số vùng sâu, vùng xa. Mục đích làm giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tác động tiêu cực đến tư tưởng nhân dân hòng làm phai nhạt, tiến tới xoá bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Một số luận điệu phản động, thù địch phổ biến như:


Một là, bác bỏ lý luận hình thái kinh tế - xã hội Mác-xít nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin. Với mục đích phủ nhận lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, các thế lực này đã coi yếu tố khoa học, kỹ thuật là yếu tố quyết định sự vận động, phát triển của xã hội loài người. Nếu Việt Nam không thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà đi theo con đường tư bản chủ nghĩa thì sẽ không xảy ra chiến tranh và nghèo đói. Tuy nhiên, cần phải thấy rằng, chính chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân với mưu đồ xâm chiếm, muốn biến nước ta thành thuộc địa đã mang đạn dược, vũ khí tàn sát hàng triệu đồng bào ta. Và thực tế cho thấy, chế độ tư bản có thực sự bình đẳng, tự do hay không?


Hai là, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc và lập luận rằng, ở các nước tư bản phát triển ngày nay, giai cấp công nhân không còn vô sản và cũng không còn nghèo đói như ở thế kỷ XIX. Do đó, giai cấp công nhân ở các nước này không còn sứ mệnh lịch sử như C.Mác và Ph.Ăng-ghen luận giải nữa. Cho rằng trí thức thay thế công nhân để làm cách mạng; giai cấp công nhân không còn giữ vai trò toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa trong bối cảnh mới, họ bị thay thế bằng máy móc, công nghệ hiện đại của cuộc cách mạng 4.0. Cuối cùng, công nhân ở các nước không còn bị bóc lột hoặc bóc lột không đáng kể. Thực chất của những quan điểm này là sự biện hộ cho địa vị thống trị, bóc lột của giai cấp tư sản nhằm khẳng định sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản trên cơ sở phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.


Ba là, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi đưa chủ nghĩa Mác - Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Các thế lực phản động đã hạ thấp các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nhằm xoá bỏ tiền đề lý luận của chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy, trong lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn được Đảng và Nhà nước vận dụng sáng tạo trong sự thay đổi liên tục của tình hình trong và ngoài nước. Vậy mà, chúng muốn cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin với mục tiêu phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, cô lập tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm làm cho quan điểm lệch lạc này thấm dần vào nhân dân, từng bước dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Ngoài ra, tạo nên sự chia rẽ giữa các nước xã hội chủ nghĩa cũng như đối với các quốc gia khác trên thế giới về mặt tư tưởng.


Bốn là, chúng rêu rao Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc tôn lãnh đạo cách mạng, làm mất dân chủ, nên cần thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”. Các thế lực thù địch đang ra sức tuyên truyền “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, mong muốn một nước đa đảng, nhằm hạn chế và thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng đối với đất nước, xóa bỏ nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; chuyển nền dân chủ tư sản. Theo chúng, dân chủ tự do là người dân có quyền được theo bất cứ đảng nào mà họ muốn. Nhưng có thể thấy, các nước đa đảng cũng tồn tại những vấn đề nhất định, điển hình là sự cạnh tranh không công bằng, chia phe đảng phái dẫn đến các vấn đề về an ninh trật tự và an ninh chính trị quốc gia.


Năm là, xuyên tạc mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch luôn lựa chọn những thời điểm nhạy cảm như bầu cử, tiếp xúc cử tri hoặc các sự kiện quan trọng của đất nước để xuyên tạc, chống phá. Chúng cho rằng, chủ nghĩa xã hội của C.Mác và Ph.Ăng-ghen là một hình thức chủ nghĩa xã hội không tưởng, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa làm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm cho dân tộc bị cô lập trên trường quốc tế… Tuy nhiên, thực tiễn 37 năm đổi mới cho thấy, Việt Nam đã và đang là nước phát triển nhanh chóng trên các lĩnh vực với tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng cao, khối đại đoàn kết dân tộc ngày càng được củng cố, tăng cường.


Sáu là, thúc đẩy “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ “phi chính trị hóa” Quân đội, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị sử dụng nhiều phương thức. Mục đích phủ nhận học thuyết Mác - Lênin về chiến tranh, Quân đội, phủ nhận lập trường chính trị của lực lượng vũ trang cách mạng, chia rẽ Quân đội với Đảng, tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội, làm cho cán bộ, chiến sĩ từng bước phai nhạt, dẫn đến xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; thiếu niềm tin, phủ nhận sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội.


Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tổ chức và rèn luyện, gần 80 năm qua luôn là lực lượng chính trị tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, thực sự là đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất. Những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ các giải pháp, cả về tổ chức, lực lượng, nội dung, hình thức, phương tiện để đấu tranh có hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội của các thế lực phản động, thù địch.


Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định, trước những thay đổi nhanh chóng và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, cũng như sự chống phá của thế lực thù địch, đòi hỏi Đảng cần tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm tư tưởng chủ đạo, nhận thức và vận dụng sáng tạo trong xu thế phát triển. Thông qua công tác dân vận, công tác quần chúng làm cho nhân dân hiểu, tin tưởng và vận dụng hiệu quả chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn lao động, công tác.


Trước bối cảnh trong nước và quốc tế có những diễn biến chính trị phức tạp, các thế lực thù địch, phản động đang ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng, đã đặt ra cho Đảng, Nhà nước những yêu cầu, nhiệm vụ bức thiết cần phải tiếp tục khẳng định, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới. Trong đó, cần quán triệt và thực hiện tốt Chỉ thị số 23-CT/TW, ngày 9-2-2018 của Ban Bí thư về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Tại Đại hội XIII, Đảng nhấn mạnh tiếp tục kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội và đường lối đổi mới của Đảng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên định và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên cơ sở trung thành với nguyên tắc cách mạng, khoa học và nhân văn, đồng thời vận dụng sáng tạo, phát triển phù hợp lý luận mác-xít với thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế của thời đại. Đây là đòi hỏi khách quan, là yêu cầu có tính nguyên tắc, giữ vai trò nền tảng, then chốt đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.


Tăng cường nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để vận dụng phù hợp vào tình hình thực tiễn đất nước. Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và vận dụng sáng tạo những nguyên lý đó trong hoạt động nhận thức và thực tiễn. Đồng thời hiểu rõ cơ sở lý luận quan trọng nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Học tập, nghiên cứu những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin cần phải theo nguyên tắc thường xuyên gắn kết những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn của đất nước và thời đại. Hiểu đúng tinh thần, thực chất, tránh bệnh kinh viện, giáo điều trong quá trình học tập, nghiên cứu và vận dụng các nguyên lý cơ bản đó trong thực tiễn. Học tập, nghiên cứu mỗi nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong mối quan hệ với các nguyên lý khác, mỗi bộ phận cấu thành trong mối quan hệ với các bộ phận cấu thành khác để thấy sự thống nhất phong phú và nhất quán của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng cần nhận thức các nguyên lý đó trong tiến trình phát triển của lịch sử tư tưởng nhân loại.


Ngoài ra, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần được các cấp ủy triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia, dân tộc trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Từ ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho đến nay, chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị của mình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tiếp tục là kim chỉ nam để giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra, góp phần đưa nước ta phát triển vững chắc, từng bước sánh vai với các cường quốc năm châu như mong ước của Bác Hồ năm xưa./.

Vai trò, trách nhiệm của Quân đội trong xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ở Việt Nam hiện nay

 


Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng quan trọng trong xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Tham gia xây dựng, bảo vệ, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhiệm vụ thường xuyên, xuất phát từ bản chất cách mạng, chức năng, nhiệm vụ, đồng thời là tình cảm và trách nhiệm chính trị của Quân đội nhân dân, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Mặt khác, Quân đội có điều kiện và khả năng tiến hành xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc có hiệu quả cao.

Quân đội là lực lượng tích cực tuyên truyền vận động nhân dân quán triệt đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết toàn dân tộc, nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại đoàn kết dân tộc. Thông qua công tác dân vận, công tác vận động quần chúng, các nhiệm vụ kinh tế - quốc phòng của quân đội góp phần nâng cao giác ngộ chính trị, tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân, đồng bào các các dân tộc, tôn giáo nhận thức đầy đủ, kịp thời đường lối chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, các chính sách đối với các giai cấp, tầng lớp; âm mưu cơ bản xuyên suốt và những thủ đoạn xảo quệt của các thế lực hòng chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Quân đội có ưu thế về hệ thống tổ chức hoạt động thống nhất, đơn vị đóng quân khắp các địa bàn trên cả nước, có truyền thống và uy tín trong công tác tuyên truyền, vận động nhân dân. Vì thế, tham gia tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện dại đoàn kết toàn dân tộc là thế mạnh của Quân đội và mang lại hiệu quả thiết thực.

Quân đội là lực lượng quan trọng tham gia phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, tạo nền tảng vững chắc tăng cường đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện chức năng của đội quân công tác và lao động sản xuất, Quân đội luôn chủ động, tích cực tham gia phát triển kinh tế văn hóa, xã hội, xây dựng cơ sở chính trị - xã hôi, trọng tâm là tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ở các địa phương, địa bàn chiến lược trọng yếu về quốc phòng, an ninh, vùng sâu, vùng xa, tạo ra tiềm lực kinh tế - xã hội, chính trị - tinh thần, củng cố, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết dân tộc.

Quân đội là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với an ninh nhân dân vững chắc, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; đập tan mọi âm mưu, hành động phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Là lực lượng chính trị, quân sự vững mạnh và tin cậy của Đảng, Nhà nước, cùng với công an nhân dân xây dựng các tiềm lực, lực lượng và thế trận quốc phòng, an ninh trên khắp các địa bàn cả nước, tạo điều kiện, môi trường thực hiện đoàn kết các dân tộc, góp phần xây dựng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Quân đội cũng là lực lượng tích cực và sắc bén trong đấu tranh tư tưởng, lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về đoàn kết dân tộc và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Vai trò của quân đội trong đấu tranh tư tưởng, lý luận được thể hiện trước hết là công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong quân đội, thông qua các hình thức phương pháp, giáo dục, phù hợp có hiệu quả.

Quân đội là lực lượng tích cực, chủ động và thường xuyên làm tốt công tác đoàn kết dân tộc trong quân đội. Thực hiện đoàn kết mọi quân nhân, không phân biệt dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội, nguồn gốc xuất thân; bảo đảm mọi quân nhân, công nhân viên chức quốc phòng đều bình đẳng về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi, được quan tâm, chăm lo đời sống sống vật chất, tinh thần phù hợp với chính sách của Nhà nước và điều kiện của quân đội. Thực hiện tốt đoàn kết dân tộc trong quân đội, góp phần củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

TĂNG CƯỜNG CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG LẠI SỰ PHÁ HOẠI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 TĂNG CƯỜNG CÁC BIỆN PHÁP CHỐNG LẠI SỰ PHÁ HOẠI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH, PHẢN ĐỘNG ĐỂ BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG:


Hiện nay các thế lực thù địch đang ra sức phá hoại, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công kích nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng làm giảm niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trước tình hình đó, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân. Do đó, cần phải phát huy tối đa vai trò, trách nhiệm của tất cả cán bộ, đảng viên, nhân dân.


Cơ sở lý luận


Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới. Nghị quyết nêu rõ: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Đó là nội dung cơ bản, hệ trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, trong đó lực lượng tuyên giáo các cấp là nòng cốt; là công việc tự giác, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.


Nền tảng tư tưởng của Đảng ta đã được quy định trong Điều lệ Đảng: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.


Những nhóm đối tượng đang ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, đó là: 1) Nhóm đối lập về hệ tư tưởng. Đảng ta là hệ tư tưởng vô sản thì những người theo hệ tư tưởng tư sản, kể cả tàn dư phong kiến sẽ quyết liệt chống lại chúng ta. 2) Các thế lực thù địch về chính trị luôn chống lại chế độ XHCN của chúng ta, với mục đích làm con đường phát triển đất nước của Đảng chệch hướng, thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. 3) Những người vốn là đảng viên cộng sản nhưng không chịu rèn luyện, tu dưỡng, học tập, nâng cao tư tưởng, đạo đức cách mạng dẫn tới tha hóa về tư tưởng chính trị, xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thậm chí là phai nhạt lý tưởng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.


Nhận diện các nhóm đối tượng nêu trên cho thấy, việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng dù rất khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng khó khăn và phức tạp đến đâu cũng phải làm để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.


Các thế lực thù địch bao gồm cả những người nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở các nước trên thế giới trong cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa CNXH và chủ nghĩa tư bản. Ngay ở các nước tư bản phát triển, những nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng tư bản theo kiểu truyền thống và các nhà hoạt động chính trị thuộc giới cầm quyền có tư tưởng XHCN cũng đấu tranh lẫn nhau. Các lực lượng cực đoan người Việt ở nước ngoài luôn lôi kéo, kết hợp với những đối tượng chống đối, bất mãn ở trong nước lập ra các tổ chức để chống phá cách mạng nước ta. Một số cán bộ, đảng viên (trong đó có cả những đảng viên đã từng giữ chức vụ cao trong hệ thống chính trị) suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nhóm người này không khó để nhận ra, nhưng lại rất khó đấu tranh.


Sự phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng của các thế lực thù địch, phản động


Sau nhiều thập kỷ thực hiện chính sách thù địch, chống phá không đạt hiệu quả, các thế lực phản động ở trong nước và nước ngoài đang thay đổi phương thức hoạt động. Tuy nhiên, mục tiêu của họ vẫn không thay đổi là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, “phi chính trị hóa”, vô hiệu hóa Quân đội, tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Họ tấn công, phủ định, xuyên tạc học thuyết Mác - Lênin, đưa ra các luận điệu cổ vũ cho bạo lực, chiến tranh; phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh, phủ nhận vai trò và thành tựu lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài ra, họ còn bôi xấu lãnh đạo Đảng, Nhà nước với nhiều thủ đoạn tinh vi; chống phá chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.


Phương thức chống phá của họ chủ yếu là sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt là xuất bản báo chí ở nước ngoài, sản xuất băng, đĩa hình chuyển về trong nước; tài trợ cho một số cơ quan báo chí nước ngoài chuyên chống phá Việt Nam… Họ sử dụng in-tơ-nét và truyền thông xã hội để chống phá; lợi dụng những hạn chế trong quản lý nhà nước để kích động biểu tình trái phép và xuyên tạc đường lối; tổ chức các hội thảo đòi xem xét lại các vấn đề liên quan đến lịch sử… Cách làm của họ âm thầm và lâu dài nhưng tác hại thực sự rất khó lường. Ngang ngược hơn, họ còn đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013, đòi đa đảng; phá bỏ nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ; vu cáo Đảng chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”; đối lập Đảng với Nhà nước và đối lập Đảng, Nhà nước với Nhân dân...


Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn lôi kéo, kích động một bộ phận người dân và cả một số cán bộ hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo vào các mục đích sai trái, bất hợp pháp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... Đây cũng là những vấn đề cần được nhận diện đầy đủ để có biện pháp, phương hướng xử lý, đấu tranh phù hợp, hiệu quả.


Thực trạng công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng


Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Như vậy, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, chủ nghĩa Mác - Lênin là những học thuyết sâu sắc, toàn diện trên nhiều lĩnh vực, mà cơ bản, trọng yếu, cốt lõi, nhất là: Triết học, Kinh tế chính trị học, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là chủ nghĩa cộng sản khoa học do C.Mác - Ph.Ăng-ghen xây dựng trong suốt gần 60 năm (từ những năm 40 cho đến cuối thập niên 90 thế kỷ XIX), được V.I.Lê-nin bổ sung, phát triển trên cơ sở thực tiễn chủ nghĩa tư bản đã và chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc; phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên toàn thế giới đang phát triển mạnh mẽ và giành được những thắng lợi mang tính bước ngoặc như: Công xã Pa-ri và cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đưa tới sự ra đời Liên bang Cộng hòa XHCN Xô-viết (gọi tắt là Liên Xô), giải phóng hàng trăm triệu nhân dân lao động khỏi ách áp bức, bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư bản.


Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam; là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý báu của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.


Nói khái quát, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là những học thuyết, những tư tưởng được hình thành trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những thành tựu văn minh của tư duy nhân loại, liên tục được bổ sung, phát triển từ những kết quả nghiên cứu mới nhất của khoa học và tổng kết thực tiễn lịch sử thế giới, cùng những dự báo về tương lai.


Hệ thống tri thức này là những kiến thức khoa học có tác dụng trực tiếp nâng cao trình độ nhận thức, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan, phương pháp luận khoa học và nhân cách của mỗi đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên và nhân dân. Nếu mỗi người đều được học tập và chịu khó học tập không ngừng để quán triệt sâu sắc, vận dụng sáng tạo những kiến thức này trong hoạt động thực tiễn thì sẽ luôn đứng vững trên lập trường của người cộng sản, không bị hoang mang, dao động trước những nội dung tuyên truyền xấu độc, xuyên tạc của các thế lực thù địch.


Tuy vậy, trong bối cảnh quá trình toàn cầu hóa và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang diễn ra nhanh chóng, sự phát triển siêu tốc của in-tơ-nét, mạng xã hội (MXH)... tạo nên “thể giới phẳng”, những thông tin không được kiểm soát, gây nhiều khó khăn cho việc tiếp nhận, phân tích, luận giải để hiểu thấu đáo nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thêm vào đó là sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản và những khó khăn, thách thức cùng sự kéo dài của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta; sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường trên nhiều phương diện. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên; nạn tham nhũng, "lợi ích nhóm"... diễn ra còn nhiều, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.


Lợi dụng bối cảnh đó, những năm qua, nhất là trong thời gian đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XIII của Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026, các thế lực thù địch, phản động và những phần tử đối lập, bất mãn chính trị... ở trong và ngoài nước ra sức đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, vu khống, chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc Đổi mới của nhân dân ta. Chúng lợi dụng in-tơ-nét, MXH đăng những tin, bài xấu, độc, xuyên tạc, phản bác, phủ nhận nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; công kích, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH của nước ta.


Nhận diện âm mưu tuyên truyền của các thế lực thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta


Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã đẩy mạnh tuyên truyền chống phá cách mạng Việt Nam, bằng mọi âm mưu, thủ đoạn. Chúng tăng cường xuất bản, tán phát các loại ấn phẩm, tài liệu như: các báo cáo, nghị quyết, dự luật của nghị viện, quốc hội một số nước phương Tây; các văn bản pháp lý của các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ như: Tổ chức Ân xá quốc tế (AI), Tổ chức Theo dõi nhân quyền quốc tế (HRW)…; các ấn phẩm xuất bản, như: sách báo, tạp chí, tập san, tờ rơi… của các cá nhân, tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng cơ hội chính trị trong và ngoài nước; các trang web, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng Việt…


Họ đã lập hàng nghìn trang web, blog, hàng trăm loại báo chí, nhà xuất bản và các đài phát thanh - truyền hình có chương trình tiếng Việt; tổ chức nhiều cuộc hội thảo, tọa đàm làm việc trực tiếp với các tổ chức, cá nhân phản động trong và ngoài nước… để xuyên tạc nền tảng tư tưởng lý luận của Đảng ta. Qua đó, chúng phủ nhận đường lối lãnh đạo của Đảng, phủ nhận những thành tựu đã đạt được trong các cuộc đấu tranh cách mạng đã qua và trong công cuộc Đổi mới, bóp méo thực tế những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, những sơ hở thiếu sót trong thực hiện chính sách, pháp luật hoặc những vụ việc phức tạp nảy sinh trong các vấn đề dân tộc, tôn giáo. Qua đó, chúng kích động, lôi kéo các tầng lớp nhân dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội nhằm hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước.


Một trong những phương thức mà các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, chống phá có hiệu quả nhất hiện nay, đó là MXH. Việt Nam là nước có số người dùng in-tơ-nét và MXH thuộc tốp đầu trên thế giới, với hơn 64 triệu người dùng in-tơ-nét (chiếm 67% dân số); hơn 55 triệu người dùng MXH (chiếm 57% dân số) và 436 MXH đang hoạt động, đứng thứ 7 trong 10 nước có số người sử dụng MXH nhiều nhất thế giới. Cùng với những giá trị tích cực, MXH cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước. MXH được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu, độc có thông tin sai trái như: xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta trên mọi lĩnh vực. Tác hại của những thông tin xấu độc trên MXH do các thế lực “mạng đen” tung ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.


Một số tồn tại, hạn chế


Trong những năm qua, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần ngăn chặn và đẩy lùi các âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố và tăng cường niềm của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế như:


Chưa đa dạng hóa các hình thức thông tin, chất lượng thông tin chưa hoàn toàn đáp ứng nhu cầu của người dân. Chưa tích cực, chủ động đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch. Chưa phát huy vai trò giám sát, phản biện của các cơ quan báo chí, đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội... Chưa hoàn toàn chủ động định hướng, cung cấp kịp thời để làm chủ thông tin, lấy thông tin tích cực, chính thống đấu tranh chống lại các thông tin sai trái, bịa đặt, vu cáo, phản động trên MXH, in-tơ-nét. Việc khai thác, phát triển những tiện ích, lợi thế của thông tin điện tử, MXH… còn hạn chế.


Việc giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại chưa được quan tâm đúng mức; chưa làm tốt việc dự báo, định hướng để góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.


Công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh Việt Nam ổn định và phát triển, nâng cao uy tín, vị thế và ảnh hưởng của Việt Nam ở khu vực và trên trường quốc tế còn hạn chế. Việc kết hợp đưa thông tin ra nước ngoài và thông tin chính thống từ thế giới vào Việt Nam chưa chặt chẽ, hiệu quả, do đó chưa hạn chế được nhiều tác động tiêu cực của những thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.


Chưa phát triển nhanh, mạnh, vững chắc với cơ cấu, quy mô hợp lý các loại hình thông tin theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, chất lượng, hiệu quả, phù hợp xu thế phát triển khoa học và công nghệ, thông tin, truyền thông thế giới, đáp ứng quyền tiếp cận thông tin của nhân dân, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, ngang tầm khu vực và thế giới… Vẫn còn tình trạng thông tin thiếu cân đối, chưa đảm bảo sự đồng đều về phân bố và khoảng cách hưởng thụ thông tin của nhân dân giữa các vùng, miền.


Các giải pháp để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng


Một là, tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn Dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội. Xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao tinh thần, trách nhiệm, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch.


Hai là, tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn, hoàn thiện hệ thống lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta trong tình hình mới. Hệ thống hóa, phổ biến những thành tựu lý luận mà Đảng ta đã đạt được trên cơ sở vận dụng đúng đắn, sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc Đổi mới. Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình của thể chế chính trị và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp. Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch theo hướng chủ động, có tính thuyết phục cao, hấp dẫn. Khẩn trương thực hiện nghiêm quy hoạch báo chí đã được phê duyệt. Chủ động tăng cường thông tin tích cực đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả, xử lý, xóa bỏ thông tin xấu, độc trên in-tơ-nét, MXH.


Ba là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ Đảng. Các cấp ủy và tổ chức đảng, mọi cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm kỷ luật phát ngôn; nghiêm cấm để lộ bí mật của Đảng, Nhà nước, lan truyền những thông tin sai lệch hoặc tán phát những đơn thư có nội dung xấu, xuyên tạc, vu khống, kích động. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý và sử dụng in-tơ-nét, MXH. Phát huy trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, trước hết là người đứng đầu trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch...


Bốn là, tập trung đổi mới nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị tư tưởng; hệ thống hoá, phổ biến các thành tựu lý luận trong thời gian qua. Đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập nghị quyết để vận dụng vào thực tiễn.


Bên cạnh “chống”, cần tăng cường biện pháp “xây”, thực hiện tốt công tác xây dựng Đảng ở cơ sở; giải quyết có hiệu quả khiếu nại, tố cáo; tổ chức thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng. Các địa phương sớm kiện toàn tổ chức tuyên giáo, xây dựng đội ngũ cán bộ sẵn sàng “phản ứng nhanh” với những thông tin sai trái, thù địch trên không gian mạng. Tích cực, chủ động cung cấp những thông tin chính thống để định hướng dư luận về chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước...


Năm là, tuyên truyền sâu rộng chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Bên cạnh đó, cần đánh giá lại tâm lý xã hội hiện nay, trong đó phải phân tích sâu đến từng giai tầng xã hội để đánh giá đúng thực trạng nhận thức, nhu cầu, nguyện vọng của các đối tượng, từ đó có cách thức tổ chức đấu tranh cho phù hợp, đạt hiệu quả cao./.

 

Đổi mới, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách giai cấp, chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các giai tầng xã hội khác

Thực hiện tốt chính sách giai cấp, chính sách xã hội, vừa tạo ra động lực trực tiếp thúc đẩy công nhân, nông dân, trí thức hăng hái, sáng tạo, vươn lên trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, vừa là nhân tố làm thay đổi cơ cấu xã hội giai cấp theo hướng tăng cường củng cố khối liên minh.

Đối với giai cấp công nhân, “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện đại, lớn mạnh về số lượng và chất lượng; có trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động, thích ứng với sản xuất công nghiệp hiện đại; có bản lĩnh chính trị vững vàng, giác ngộ giai cấp, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc. Phát huy vai trò nòng cốt của giai cấp công nhân trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”[1].

Đối với giai cấp nông dân, quan tâm xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân; nâng cao trình độ giác ngộ giai cấp, tạo điều kiện hỗ trợ, khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp nhận và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ; nâng cao chất lượng cuộc sống để giai cấp nông dân thực sự là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Quan tâm “Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, văn minh, tự chủ, tự lực, tự cường và có ý chí, khát vọng vươn lên; có trình độ và năng lực tổ chức sản xuất tiên tiến, ứng dụng khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo; có trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới và công nghiệp hóa, đô thị hóa nông thôn; được thụ hưởng những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước tiếp cận các dịch vụ của đô thị”.[2]

Đối với đội ngũ trí thức, “Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có cơ cấu hợp lý, chất lượng cao; là nhân tố quan trọng phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài; thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế; có vai trò quan trọng trong liên minh với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Có cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng trí thức Việt Nam cả trong và ngoài nước. Phát huy vai trò tư vấn, phản biện, tham mưu chủ trương, chính sách của đội ngũ trí thức”[3]. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo; trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ, tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức; gắn bó mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với trí thức và ngược lại.

Đối với các giai tầng xã hội khác

Đối với các doanh nhân, “Phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh về số lượng và chất lượng; có trí tuệ, năng lực quản lý, năng động, sáng tạo, có đạo đức và văn hóa kinh doanh, tinh thần dân tộc, trách nhiệm xã hội, đóng góp tích cực vào xây dựng và phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Xây dựng Chiến lược quốc gia phát triển đội ngũ doanh nhân đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tạo hành lang pháp lý và môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, an toàn để doanh nhân phát triển[4]. Phát huy tiềm năng và vai trò tích cực của họ trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và nước ngoài… đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đối với thế hệ trẻ, “Tăng cường giáo dục thế hệ trẻ về lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống, lòng yêu nước, tự hào dân tộc, nuôi dưỡng ước mơ, hòai bão, ý chí, khát vọng cống hiến, nêu cao trách nhiệm đối với đất nước, xã hội. Xây dựng môi trường, điều kiện học tập, rèn luyện, lao động, giải trí để thế hệ trẻ phát triển lành mạnh, toàn diện, hài hòa cả về trí tuệ, thể chất và thẩm mỹ. Xây dựng các phong trào thanh niên thi đua học tập, lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, lập nghiệp, làm chủ kiến thức khoa học - công nghệ hiện đại, xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[5]. Khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm; chú trọng bồi dưỡng nguồn cán bộ trẻ; thu hút rộng rãi thanh niên, thiếu niên và nhi đồng vào các tổ chức Đoàn, Hội của thanh niên.

Đối với phụ nữ, “Chăm lo xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới đồng thời phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của phụ nữ; tích cực xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc. Hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách, pháp luật liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nữ; đấu tranh ngăn chặn, xử lý nghiêm các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em. Tăng cường các chương trình phát triển, hỗ trợ cập nhật tri thức, kỹ năng, cơ hội tiếp cận, thụ hưởng các chính sách an sinh, phúc lợi xã hội cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn, khu vực miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn[6]. Thực hiện bình đẳng giới; tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò của người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người; tạo điều kiện để phụ nữ phát triển toàn diện tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội; đấu tranh chống các tệ nạn xã hội, các hành vi xâm hại và xúc phạm nhân phẩm phụ nữ.

Đối với cựu chiến binh, “Tăng cường vai trò của cựu chiến binh trong giáo dục lòng yêu nước, truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ, phát huy bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, tham gia xây dựng và củng cố cơ sở chính trị, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tích cực giúp nhau làm kinh tế, cải thiện, nâng cao đời sống, làm giàu hợp pháp, góp phần xây dựng, phát triển đất nước[7]. Động viên cựu chiến binh giúp nhau cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, góp phần giáo dục lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ, tích cực đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tệ nạn xã hội.

Đối với người cao tuổi, “Phát huy uy tín, kinh nghiệm của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình. Kính trọng, bảo vệ, chăm sóc, có cơ chế, chính sách huy động các nguồn lực để chăm lo và phát huy vai trò của người cao tuổi; khuyến khích người cao tuổi tham gia các hoạt động kinh tế - xã hội. Xây dựng môi trường thân thiện với người cao tuổi; có chính sách bảo trợ, giúp đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn không nơi nương tựa[8].

Đối với các dân tộc, “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, phát huy nội lực, vươn lên cùng phát triển. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng dân tộc thiểu số trong hoạch định, thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế - xã hội, vươn lên thóat nghèo và giảm nghèo bền vững. Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao dân trí, giữ gìn tiếng nói, chữ viết, bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; vận động xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu, xây dựng nếp sống văn hóa mới; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số, người có uy tín trong vùng dân tộc thiểu số[9].

Đối với các tôn giáo, thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào có đạo và không có đạo. “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáochức sắc, chức việc, nhà tu hành, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đồng hành cùng dân tộc, tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và chính quyền các cấp phát động. Bảo đảm để các tổ chức tôn giáo hoạt động bình đẳng theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận; quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ giải quyết các nhu cầu chính đáng của quần chúng tín đồ trong hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng, tâm linh. Tôn trọng, khuyến khích phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc[10].

Đồng bào định cư ở nước ngoài, là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Đảng và Nhà nước ta luôn “hỗ trợ người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh… Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc…”[11]; “Thu hút, tạo điều kiện để trí thức, văn nghệ sĩ, doanh nhân, nhà khoa học, nhà quản lý người Việt Nam ở nước ngoài về nước đầu tư, sản xuất, kinh doanh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[12]

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân, có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là nơi để tuyên truyền, vận động, đoàn kết tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, nơi đại diện cho quyền lợi của các tầng lớp nhân dân. Đảng và Nhà nước cần quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân hoạt động một cách tích cực, hiệu quả, lắng nghe và phản ánh ý kiến của nhân dân với Đảng, Nhà nước về những vấn đề chính trị - xã hội nảy sinh, đóng góp ý kiến tham gia xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật. Bảo đảm công bằng xã hội và an sinh xã hội, là vấn đề then chốt, quan trọng hàng đầu để huy động sức mạnh toàn dân, là điều kiện, động lực để củng cố, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc ở nước ta hiện nay.



 [1]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

 

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .

[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật , Hà Nội, 2021, tr.171.

[12]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương, khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.    .