Nền tảng pháp
lý được coi là một trong những chìa khóa của sự phát triển kinh tế số, trong đó
có truyền thông xã hội. Trước sự tác động hai mặt của truyền thông xã hội,
nhiều nước trên thế giới đã chủ động có những biện pháp nhằm phát huy những mặt
tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực từ truyền thông xã hội, xây dựng các
quy định cụ thể để tăng cường quản lý, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi
phạm trong lợi dụng loại hình truyền thông mới này.
Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về trách
nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong bảo đảm an toàn thông tin trên in-tơ-nét
nói chung và truyền thông xã hội nói riêng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để
ngăn chặn, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật trong việc sử dụng
in-tơ-nét nói chung, truyền thông xã hội nói riêng; chủ động ngăn chặn, vô hiệu
hóa việc lợi dụng truyền thông xã hội gây nguy hại đến an ninh, trật tự xã hội.
Trong năm 2019, thực hiện yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam,
Facebook đã gỡ bỏ 207 tài khoản, trong đó có 46 tài khoản giả danh lãnh đạo
Đảng, Nhà nước; còn lại là các tài khoản đưa thông tin giả mạo, nói xấu, kích
động chống phá Nhà nước Việt Nam; gỡ bỏ 2.444 link rao bán sản phẩm bất hợp
pháp; 271 link phát ngôn gây thù hận, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các thương
hiệu, cá nhân và tổ chức; gỡ bỏ 330 fanpages quảng cáo game cờ bạc, đổi thưởng.
Youtube gỡ bỏ 9.501 video vi phạm, ngăn chặn truy cập từ Việt Nam vào 19/62
kênh Youtube phản động thường xuyên đăng tải nội dung chống phá Nhà nước Việt
Nam, chứa khoảng 5.000 video clip; tiếp tục xem xét, ngăn chặn các kênh còn
lại. Trên Google Play, Google đã gỡ 108/111 game trong đó có 104 game bài và
một game có tên “Lấy lại quê hương” có nội dung phản động, chống phá Nhà nước
Việt Nam và các game không phép(7)...
Tuy nhiên, công tác giám sát, ngăn chặn, vô hiệu
hóa các thông tin độc hại trên truyền thông xã hội còn gặp nhiều khó khăn, bất
cập:
Một
là, trong bối cảnh khoa
học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, tội phạm mạng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh
vi, ứng dụng các thành tựu khoa học hiện đại để tiến hành các chiến dịch tấn
công mạng, dẫn dắt dư luận trên truyền thông xã hội, khiến công tác phòng ngừa,
ngăn chặn của cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn.
Hai
là, hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật liên quan công tác bảo đảm an ninh mạng đã được xây dựng
nhưng chưa hoàn thiện; vai trò và
hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực an ninh mạng nói chung, truyền thông xã
hội nói riêng còn bất cập.
Ba là, ý thức của một số cơ quan, đơn vị và
người dùng về công tác bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ bí mật riêng tư trên môi
trường in-tơ-nét, truyền thông xã hội chưa cao, chưa nhận thức đầy đủ về vị
trí, tầm quan trọng của công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng; kiến thức, kỹ
năng bảo đảm an ninh mạng còn hạn chế. Không ít cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
chưa chú trọng áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh thông tin.
Bốn
là, các hệ thống
mạng thông tin ở nước ta chưa theo một tiêu chuẩn thống nhất, nhiều nơi chưa có
thẩm định về an ninh mạng; nhiều cơ quan, bộ, ngành sử dụng các thiết bị mạng
lõi của một số tập đoàn công nghệ vẫn tồn tại lỗ hổng bảo mật, có nguy cơ bị
theo dõi, giám sát, thu thập thông tin từ xa; hầu hết linh kiện điện tử
giá rẻ tại Việt Nam đều có nguồn gốc từ nước ngoài, chứa nhiều lỗ
hổng bảo mật hoặc bị cài sẵn các tài khoản truy cập “cửa hậu”
(backdoor), khiến Việt Nam luôn nằm trong danh sách các quốc gia bị ảnh
hưởng bởi các “mạng máy tính ma” lớn nhất thế giới(8).
Năm
là, công tác bảo vệ
an toàn thông tin, an ninh mạng chưa được đầu tư tương xứng và thỏa đáng. Sự
phát triển như vũ bão về khoa học và công nghệ đã khiến cho vòng đời của sản
phẩm an ninh mạng ngắn lại; yêu cầu đầu tư để theo kịp sự phát triển, không bị
lạc hậu trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn là một trong những
thách thức đang đặt ra. Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ
vào bảo đảm an ninh mạng ở nước ta chưa theo kịp tốc độ phát triển khoa học -
công nghệ của thế giới; chưa tự chủ, sản xuất được các thiết bị công nghệ thông
tin, dẫn đến lệ thuộc nhiều vào các sản phẩm nước ngoài.
Sáu
là, công tác đào tạo
nguồn nhân lực, chuyên gia an ninh mạng chưa theo kịp yêu cầu về số lượng và
chất lượng, thiếu lực lượng chuyên gia chuyên trách bảo vệ an ninh mạng; chính
sách đãi ngộ còn nhiều bất cập nên chưa phát huy hết năng lực chuyên môn của
đội ngũ này.
TT
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét