Tổ gồm tám đồng chí, mỗi người một việc khác nhau nhưng có cùng nhiệm vụ: Bảo vệ Bác Hồ. Cả tám đồng chí được Bác đặt tên vào một sáng mùa xuân (tháng 3-1947): Trường - Kỳ - Kháng - Chiến - Nhất - Định - Thắng - Lợi.
Tám người con, tám cuộc đời, tám
số phận rất đẹp. Nói đúng ra là mười hai con người, mười hai cuộc đời, mười hai
số phận. Bởi vì, do yêu cầu nhiệm vụ, có đồng chí chuyển sang công tác khác. Có
tới ba đồng chí mang tên “Trường”, hai đồng chí mang tên “Nhất”, và hai đồng
chí mang tên “Thắng”.
Đầu năm 1947, để bảo vệ an toàn
lực lượng, các cơ quan trung ương của ta được lệnh trở về căn cứ Việt Bắc. Đi
với Bác là một bộ phận rất gọn nhẹ, gồm tám người gần Bác nhất, vừa làm cảnh
vệ, công tác văn phòng, thư ký, liên lạc vừa phục vụ hậu cần với tinh thần: một
người thạo nhiều việc – song như đã nói, dù làm việc gì, bảo vệ Bác Hồ là nhiệm
vụ quan trọng nhất.
Công tác bảo mật được đặt lên
hàng đầu. Cứ mười ngày, hoặc vài tháng Bác lại di chuyển trên địa bàn các huyện
ATK để chỉ đạo hoạt động kháng chiến kiến quốc. Bác tuổi cao, sức yếu, công
việc bộn bề, nhưng dù căng thẳng, bận rộn đến mấy, phải di chuyển thường xuyên,
cứ ổn định ở chỗ mới là Bác lại nhắc mọi người bảo đảm chương trình học tập
chính trị, văn hóa. Bác rất quan tâm phổ biến tình hình thời sự để mỗi người
nắm được diễn biến của cuộc chiến đang ngày một lan rộng.
Từ ngày 4 đến 17-3-1947, Người
nghỉ và làm việc tại nhà ông Hoàng Văn Nguyên tại xã Cổ Tiết, huyện Tam Nông,
tỉnh Phú Thọ. Tối mùng 5 tháng 3, trời rét, mấy bác cháu ngồi quanh đống lửa
trò chuyện. Nhưng về khuya, Bác đi bách bộ ngoài sân, dáng trầm tư suy nghĩ.
Vận mệnh của Tổ quốc đang từng giờ, từng phút đặt lên vai Bác - vị lãnh tụ tối
cao của toàn dân tộc. Sáng ra, Bác bảo tám thành viên trong tổ họp mặt “khai
hội”. Mọi người còn nhớ, sáng tháng 3, cái rét ở vùng trung du thật dữ dội. Mọi
người ngồi quây quần bên Bác. Như một người cha, Bác nhìn mọi người rồi nói với
giọng trầm ấm:
- Chiến sự đang ngày một lan
rộng, các chú phải quân sự hóa mọi sinh hoạt. Đi ô tô không tiện nữa, dễ bị lộ
bí mật. Ai có xe đạp thì sử dụng, người còn lại sẽ đi bộ. Các chú may cho mỗi
người một chiếc ba lô để đựng đồ dùng và cũng may cho Bác một cái để Bác đeo
máy chữ.
Bác nói đến tình hình cụ thể của
chiến sự và đường lối kháng chiến cửa Đảng. Phổ biến xong, Bác hỏi:
- Các chú có ai thắc mắc gì
không? Một đồng chí đứng dậy hỏi:
- Thưa Bác, chúng cháu nghĩ mà
vẫn chưa rõ tại sao ta lại phải đánh trường kỳ, vì đánh như vậy hại người tốn
của lắm.
Bác phân tích cho mọi người thấy
rõ các mặt lợi hại rồi đưa ra một hình ảnh dễ hiểu:
- Sức ta bây giờ như chàng trai
16, mà thế giặc bây giờ như một lão già quỷ quyệt độc ác. Nếu ta cậy sức đánh
bừa thì sao chắc thắng được? Phải vừa đánh vừa nuôi cho sức mình khỏe lên. Khi
sức ta đã khỏe, giặc suy yếu dần, ta mới lừa thế quật ngã nó, như vậy có chắc
thắng không?
Bác lại nhìn mọi người khẳng
định:
- Cho nên, kháng chiến trường kỳ
mới nhất định thắng lợi!
Rồi Bác mỉm cười, nói tiếp:
- Để thể hiện quyết tâm của chúng
ta, hôm nay Bác đặt tên cho các chú, vừa giữ bí mật, vừa dễ gọi. Không cố ý sắp
đặt mà vừa đủ tám người: Trường, Kỳ, Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi. Bốn
chú đầu người Kinh, bốn chú sau người dân tộc. Các chú có đồng ý mang tên mới
không?
Cả tám anh em đồng thanh đáp lại:
- Dạ, đồng ý ạ!
Bác khoát tay theo chiều kim đồng
hồ chỉ lần lượt từng người và gọi theo tên mới. Bác nói thêm:
- Nhiệm vụ chính của Bác hiện nay
là cùng toàn Đảng, toàn dân kháng chiến đến thắng lợi hoàn toàn. Bác đặt tên
cho các chú như vậy, cũng để hàng ngày nhìn thấy các chú là để nhắc nhở Bác
hoàn thành nhiệm vụ.
Mọi người hiểu rõ ý Bác, càng
phấn khởi nhận tên mới. Tám anh em trở thành một khẩu hiệu ngày đêm sống bên
Bác.
* Đồng chí Trường tên thật là Võ
Chương, quê ở Huế, làm nghề dạy học ở Hà Nội. Sau cách mạng tháng 8-1945, trở
thành chiến sĩ trong đội tự vệ chiến đấu cứu quốc Hoàng Diệu, được Anh Cả (tức
đồng chí Nguyễn Lương Bằng) chọn bổ sung vào tổ bảo vệ Bác Hồ. Năm 1949, đồng
chí mang bệnh và qua đời. Đồng chí Phạm Văn Nền lên chiến khu lái xe cho Bác
được thay vào tên Trường. Sau này đồng chí được điều sang Liên Xô phục vụ đồng
chí Nguyễn Lương Bằng trong những năm làm đại sứ ta tại Liên Xô. Người thứ ba
mang tên Trường (Hồ Văn Trường) là Trường Toóng, ở Hải Dương về. Đồng chí có
tài bắn súng, cho nên được giao việc huấn luyện quân sự và bảo vệ kho lưu trữ.
* Đồng chí Kỳ (Vũ Kỳ) tên thật là
Vũ Long Chuẩn, quê ở Thường Tín, Hà Tây, là một trí thức yêu nước, có sức khỏe,
thông minh, nhanh nhẹn và nói thạo tiếng Pháp. Đồng chí từng tham gia Thanh
niên phản đế trường Bưởi (Hà Nội) từ đầu năm 1940. Tháng 8-1941, được cử sang
Trung Quốc, học khóa huấn luyện chính trị. Giữa tháng 8-1942, đồng chí về nước
hoạt động và công tác tại Thành ủy Hà Nội. Tháng 9-1943, bị Sở mật thám Pháp
tại Hà Nội bắt giam ở Hỏa Lò. Tháng 3-1945, cùng một số đồng chí vượt ngục, trở
về công tác cùng đồng chí Trần Đăng Ninh. Đồng chí được chọn vào tổ bảo vệ và
giúp việc Bác Hồ từ tháng 8-1945. Cho đến những năm sau hòa bình, đồng chí vẫn
ở cạnh Bác, chứng kiến những ngày Bác mệt nặng và giờ phút Người vĩnh viễn ra
đi. Ông tự nhận là “tiểu đồng” của Bác Hồ.
* Đồng chí Kháng (Hoàng Hữu
Kháng) tên thật là Nguyễn Đăng Cao, còn có tên là Nguyễn Văn Lý, người Thái
Bình, tham gia cách mạng trong phong trào công nhân từ trước năm 1940, bị địch
bắt giam tại nhà tù Sơn La, rồi nhà tù Chợ Chu (Định Hóa). Tại đây, đồng chí
cùng một số bạn tù vượt ngục trở về hoạt đông ở căn cứ địa Tân Trào (Tuyên
Quang), từng là một võ sư, nhiệt tình yêu nước, có sức khỏe, nên tháng 10-1945,
được đồng chí Nguyễn Lương Bằng chọn phụ trách tổ bảo vệ Bác Hồ. Có thời kỳ
đồng chí là hiệu phó trường quân chính chống Nhật. Sau này, ông là Cục trưởng
Cục cảnh vệ Bộ Công an.
* Đồng chí Chiến (Tạ Quang Chiến)
tên khai sinh Nguyễn Hữu Văn, quê Hải Dương nhưng lại sinh ra ở Thanh Hóa, từ
nhỏ sống ở Hà Nội. Từng hoạt động trong phong trào thanh niên cứu quốc Hà Nội,
là chiến sĩ tự vệ chiến đấu. Cuối năm 1945, cùng đồng chí Võ Chương được đồng
chí Nguyễn Huy Khôi (tức Trần Quang Huy), Bí thư Thành ủy giới thiệu và đồng
chí Nguyễn Lương Bằng tuyển chọn, bổ sung vào tổ cận vệ Bác Hồ. Từng giữ chức
Trưởng phòng Bảo vệ 1, có nhiệm vụ bảo vệ Bác Hồ và Thủ tướng Chính phủ. Đầu
năm 1957, được cử đi học trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc, sau đó sang Liên
Xô học chuyên ngành sử. Đồng chí từng là Bí thư thường trực Trung ương Đoàn và
trước khi nghỉ hưu là Tổng cục trưởng Tổng cục thể thao.
* Đồng chí Nhất (Hồ Văn Nhất), bí
danh là Văn Lâm, người dân tộc Tày thuộc đơn vị vũ trang của đồng chí Đàm Minh
Viễn bảo vệ căn cứ địa Tân Trào. Tên thật là Hoàng Văn Nhất.
Đồng chí Nhất thứ hai là Long Văn
Nhất, vốn là bảo vệ đồng chí Võ Nguyên Giáp. Đồng chí bảo vệ Bác trong thời
gian ở Hà Nội, đặc biệt trong những chuyến Người đi thăm hữu nghị các nước xã
hội chủ nghĩa anh em. Bí danh của đồng chí là Tiền phong.
* Đồng chí Định (Võ Viết Định),
tên thật là Chu Phương Vương , người dân tộc Tày, bí danh Ngọc Hà, được đồng
chí Trần Đăng Ninh chọn từ đơn vị vũ trang của đồng chí Đàm Minh Viễn ở Tân
Trào vào tổ bảo vệ Bác Hồ. Đồng chí bảo vệ tiếp cận Bác trong suốt chiến dịch
Biên Giới (là người cầm ống nhòm đứng bên cạnh Bác khi Người đang theo dõi mặt
trận Đông Khê 1950). Khi kháng chiến thành công, đồng chí về làm công tác Đảng
ở khu gang thép Thái Nguyên.
* Đồng chí Thắng (Triệu Hồng
Thắng), còn có tên Triệu Tiến Thọ, tên ở địa phương là Cắt, còn gọi là Sót,
người xã Kim Sơn, huyện Định Hóa, dân tộc Dao. Đồng chí làm giao liên, đưa và
nhận công văn ngay từ khi Bác ở Tân Trào. Rất thuộc đường đất, địa hình, giỏi
leo núi. Giúp cơ quan nắm vững tình hình địa phương. Sau hòa bình, đồng chí ở
lại công tác tại quê hương. Ngày thành lập khu tự trị Việt Vắc, giữ chức Phó
chủ tịch Ủy ban hành chính.
Đồng chí Thắng thứ hai tên thật
là Nguyễn Quang Chí, tên khai sinh là Nguyễn Quang Huy.
* Đồng chí Lợi, tên thật là Trần
Đinh, dân tộc Tày, được chọn từ đơn vị vũ trang của đồng chí Đàm Minh Viễn vào
tổ bảo vệ Bác Hồ ở căn cứ địa Tân Trào, trước cách mạng tháng 8-1945.
Trong số những người giúp việc và bảo vệ Bác Hồ, cũng
có những người trùng tên một cách ngẫu nhiên với tám đồng chí Trường, Kỳ,
Kháng, Chiến, Nhất, Định, Thắng, Lợi như Ma Văn Trường, nghệ sĩ nhiếp ảnh Đinh
Đăng Định, Hữu Định, Nguyễn Văn Nhất, Nguyễn Văn Thắng… chứ không phải do Bác
đặt. Tuy nhiên, các đồng chí đó cũng vô cùng vinh dự được sống những ngày tuy
hết sức gian khổ nhưng đầy tự hào bên Bác kính yêu./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét