Thứ Năm, 21 tháng 12, 2023

Xây dựng và thực hành văn hóa đảng trong điều kiện đảng cầm quyền.

 TCCS - Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và bản lĩnh cầm quyền của Đảng vừa là kết quả được tạo ra từ xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, lối sống, tức là xây dựng Đảng về văn hóa, làm hình thành và phát triển văn hóa đảng, vừa là thước đo trình độ trưởng thành của đảng cầm quyền. Xây dựng và thực hành văn hóa đảng vào lúc này là hết sức cần thiết, là vô cùng cấp bách làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng.

Sự cần thiết, cấp bách về xây dựng và thực hành văn hóa Đảng

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết đã chỉ ra ba vấn đề cấp bách, xác định mục tiêu và phương châm xây dựng Đảng, đồng thời cũng đề ra bốn nhóm giải pháp lớn để giải quyết những vấn đề cấp bách trong Đảng; để toàn Đảng, toàn dân đồng tâm hiệp lực, nỗ lực cộng đồng trách nhiệm cùng giải quyết, quyết tâm làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự là một Đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh như Bác Hồ hằng mong đợi và căn dặn chúng ta.

Ba vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết Trung ương lần này là: Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng. Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Thứ ba, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Trong ba vấn đề nêu trên, vấn đề thứ nhất là trọng tâm, xuyên suốt - là vấn đề cấp bách của mọi cấp bách. Tình trạng suy thoái nêu trên là nghiêm trọng về tính chất và mức độ. Sự suy thoái diễn ra không còn là cá biệt, số ít, làm tổn hại tới uy tín, thanh danh của Đảng, làm suy giảm niềm tin của cả đảng viên và nhân dân đối với Đảng; làm phương hại tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đây là những vấn đề cốt yếu về văn hóa, cả văn hóa chính trị và văn hóa đạo đức; là vấn đề hết sức hệ trọng, không thể xem thường, càng không thể giải quyết chậm trễ, nếu không, sinh mệnh của Đảng và sự tồn vong của chế độ sẽ bị thách thức.

Từ đây nhìn nhận vấn đề theo quan điểm văn hóa và phát triển, có thể thấy, tình trạng suy thoái đã và đang diễn ra là sự suy thoái về văn hóa. Những suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là những suy thoái về văn hóa. Nó bộc lộ sự yếu kém và thiếu hụt năng lực văn hóa của không ít cán bộ đảng viên, sự lệch lạc chuẩn mực, giá trị văn hóa ở những đảng viên suy thoái, từ đảng viên thường đến đảng viên giữ chức vụ, được giao trọng trách là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Những biểu hiện này nếu không được khắc phục thì không thể có được nền tảng tinh thần (tức là văn hóa) để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Sâu xa mà nói, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng chính là năng lực văn hóa, là sức mạnh và bản lĩnh văn hóa của Đảng - chủ thể lãnh đạo và cầm quyền.

Đảng là một tổ chức cách mạng tiên phong, do đó Đảng phải tiêu biểu cho văn hóa chính trị, trước hết Đảng phải không ngừng nâng cao tiềm lực trí tuệ, tiềm lực tư tưởng. V.I. Lê-nin đòi hỏi Đảng phải tiêu biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự của thời đại. Người cũng chủ trương “thà ít mà tốt”. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, Đảng phải là đảng cách mạng chân chính, Đảng là một cơ thể sống. Trung ương là bộ não của Đảng. Cấp ủy là lực phát động. Chi bộ, đảng viên là cầu nối giữa Đảng với quần chúng. Người chỉ rõ phải tẩy bỏ chủ nghĩa cá nhân, đánh bại giặc nội xâm, nó thường ẩn nấp tinh vi trong mỗi người, mỗi tổ chức, chỉ chờ dịp là trỗi dậy. Để Đảng thực sự tiêu biểu là đạo đức, là văn minh, xứng đáng với niềm tin của nhân dân, phải thường xuyên chỉnh đốn Đảng. Người trù tính điều hệ trọng: phải dựa vào dân mà xây dựng Đảng, phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, phải nêu cao tính tiền phong gương mẫu của Đảng và đảng viên nhất là đảng viên lãnh đạo.

Mấu chốt của thực hành dân chủ là tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, sống vì nhân dân, tranh đấu để bảo vệ nhân dân, lãnh đạo để phục vụ nhân dân. Vì dân nên phải trọng dân và tin dân. Đảng và mọi đảng viên chỉ vì nhân dân nên phải tự mình tẩy bỏ chủ nghĩa cá nhân hết sức tinh vi và hiểm độc, nó là chủ nghĩa vị kỷ, vụ lợi, chỉ vì mình mà làm hại đến nhân dân, nói vì nhân dân mà lại làm vì mình. Uy tín thật, giá trị thật của người cách mạng là ở việc làm, ở hành động chứ không dừng lại ở lời nói. Người còn sâu sắc, mẫn cảm và mẫn tiệp khi nhận rõ, phải dùng văn hóa để chữa thói phù hoa xa xỉ, phải văn hóa cả ở trong kinh tế và chính trị.

Thực hành đạo đức cách mạng là thực hành văn hóa. Đạo đức là cốt lõi của văn hóa, bởi đức là gốc. Đạo đức bảo đảm cho tài năng được phát huy, được sử dụng vào mục đích cao quý nhất, với động cơ trong sáng nhất là phục vụ nhân dân. Từ thực trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên mà Đảng đã nghiêm khắc chỉ ra, chúng ta càng thấy phải xây dựng và thực hành văn hóa Đảng, làm cho các giá trị, chuẩn mực văn hóa thấm sâu vào đời sống của Đảng, trong sinh hoạt đảng, trong mối quan hệ giữa đảng viên với tổ chức đảng, giữa Đảng với nhân dân. Cấp ủy và các đảng viên giữ trọng trách phải gương mẫu trước tiên, phải làm gương cho mọi đảng viên và quần chúng noi theo. Toàn bộ Nghị quyết, nhất là dũng khí tự phê phán, nhìn thẳng vào thực trạng suy thoái, vạch rõ nguyên nhân mà nguyên nhân chủ quan là chính; việc xác định rõ các nhóm giải pháp, đặt lên hàng đầu việc tự phê bình và phê bình trong toàn Đảng, từ trên xuống dưới,... đã thể hiện rất rõ quyết tâm chính trị, thái độ trách nhiệm của Đảng, trước hết là các cơ quan lãnh đạo. Đó là biểu hiện trực tiếp của văn hóa Đảng, là ý thức về văn hóa, là quyết tâm hành động một cách văn hóa, đem sức mạnh văn hóa vào xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh.

Nếu xác định rằng, thực hiện Nghị quyết về xây dựng Đảng là một việc làm thường xuyên, lâu dài, không chỉ là quyết tâm và trách nhiệm của toàn Đảng mà còn phải thu hút sự tham gia của toàn dân, phải hết sức bền bỉ, công phu, thì phải thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp ở tầm xây dựng và thực hành văn hóa đảng. Phải làm cho toàn Đảng, từng tổ chức đảng, từng cán bộ đảng viên có nhận thức đúng về văn hóa đảng, làm cho văn hóa đảng trở thành những giá trị đặc trưng cho một đảng cách mạng chân chính và hiện đại, thành nhu cầu trong Đảng và của đảng viên. Sức mạnh tự bảo vệ của Đảng, của cách mạng suy đến cùng là sức mạnh văn hóa. Ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái chính là ngăn chặn, đẩy lùi những phản văn hóa. Xây dựng và thực hành văn hóa đảng là dùng sức mạnh văn hóa chống lại những phản văn hóa một cách chủ động, tích cực. Với ý nghĩa đó, văn hóa Đảng là một giải pháp chiến lược, là tổng hợp và kết tinh mọi giải pháp xây dựng đảng.

Những quan niệm về văn hóa đảng

Văn hóa đảng ở đây là văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách một đảng cầm quyền đang đảm nhận trọng trách lịch sử lãnh đạo giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam thực hiện lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Ba phương diện hay ba chiều cạnh khác nhau của tiếp cận văn hóa được vận dụng vào nhận thức văn hóa đảng là: Hoạt động, giá trị và tính sáng tạo.

Hoạt động là con đường, phương thức và điều kiện (cũng có thể gọi là môi trường) hình thành văn hóa, “sản xuất” ra văn hóa. Vận dụng vào văn hóa đảng là hoạt động chính trị, là sinh hoạt đảng, là đời sống chính trị của Đảng, tạo ra những tác động, ảnh hưởng, hiệu ứng xã hội, trong đó có sự tham chính của người dân, sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng các đoàn thể, xây dựng và bảo vệ chế độ nói chung trên tư cách người chủ và làm chủ. Hoạt động đó đương nhiên là hoạt động tự giác, chủ động, có tổ chức, có định hướng mục tiêu, được lãnh đạo và quản lý. Để hình thành một hoạt động như vậy, cần đến sự tham gia của số đông, tức là của đội ngũ đảng viên và của đông đảo quần chúng. Theo V.I. Lê-nin, ở đâu có hoạt động của số đông, của hàng triệu người, ở đó chắc chắn diễn ra một hoạt động chính trị nghiêm túc. Hoạt động sinh ra các mối quan hệ và liên hệ, thông qua các mối quan hệ mà hình thành hoạt động. Hoạt động đòi hỏi phải xác lập thể chế và các thiết chế tổ chức, bộ máy, các quy tắc và chuẩn mực ứng xử.

Hoạt động chính trị và sức mạnh của tổ chức chính trị, mà Đảng là tổ chức tiêu biểu nhất, đòi hỏi phải có nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương. Do đó, tập trung dân chủ (hay dân chủ tập trung như Hồ Chí Minh thường nói) là tất yếu, trên nền tảng dân chủ mà thực hiện tập trung. Đó là văn hóa tổ chức cùng với văn hóa nhân cách của mỗi thành viên ở trong tổ chức của mình. Lãnh đạo, quản lý là hoạt động ở trong tổ chức, có quan hệ mật thiết với đảng viên và nhân dân, của những chủ thể được ủy quyền, có vai trò định hướng và thúc đẩy hoạt động. Một cách rất tự nhiên, văn hóa tổ chức gắn liền với văn hóa lãnh đạo, quản lý, được bảo đảm bởi văn hóa nhân cách, trực tiếp hơn là văn hóa đạo đức của từng nhóm người, từng cá nhân.

Giá trị là những thuộc tính nổi bật, thể hiện đặc trưng, bản chất của văn hóa, biểu hiện ở chủ thể hoạt động sáng tạo văn hóa và kết tinh trong các sản phẩm, thành tựu văn hóa.

Những giá trị phổ biến và phổ quát của văn hóa hợp thành từ ba giá trị tiêu biểu là chân - thiện - mỹ, định hình bền vững trong lịch sử văn hóa ở mọi thời đại, mọi dân tộc và có tính nhân loại. Trong sự phát triển của lịch sử, mỗi giai cấp có những quan điểm, lập trường riêng của mình đối với văn hóa và sử dụng văn hóa, đánh giá văn hóa theo lăng kính giai cấp của mình. Trong xã hội tồn tại các giai cấp thì lẽ đương nhiên, văn hóa có tính giai cấp. Đảng chính trị cầm quyền và văn hóa của đảng cầm quyền cũng tất yếu mang tính giai cấp, biểu hiện trực tiếp ở ý thức hệ, ở tư tưởng chính trị. Theo đó, văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng của Đảng. Đây cũng là nội dung cốt lõi của văn hóa đảng, là tư tưởng lý luận, là quan điểm chính trị của văn hóa đảng. Song, bên cạnh bản chất giai cấp, văn hóa bao giờ cũng thể hiện tính dân tộc, truyền thống bản sắc dân tộc. Càng thể hiện bản chất giai cấp công nhân thì càng thể hiện sâu sắc bản sắc, tinh hoa dân tộc, gắn liền dân tộc với thời đại. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điểm cốt lõi, là đường nét chủ đạo của tư tưởng Hồ Chí Minh, nó kết hợp nhuần nhuyễn và thống nhất hữu cơ giữa giai cấp (giai cấp công nhân) với dân tộc, giữa dân tộc với thời đại và tinh hoa văn hóa nhân loại, giữa dân tộc với quốc tế, giữa truyền thống với hiện đại.

Hệ giá trị chân - thiện - mỹ của văn hóa nổi bật ở giá trị tinh thần và văn hóa tinh thần. Bên cạnh những giá trị chung, phổ biến, văn hóa bao giờ cũng thể hiện tính đặc thù lịch sử gắn với hoàn cảnh và truyền thống, tính riêng độc đáo thuộc về bản sắc tinh hoa, cốt cách của một dân tộc. Người ta gọi văn hóa như diện mạo tinh thần, tâm hồn, tư tưởng, sức sống của một dân tộc. Văn hóa như “tấm căn cước” của một dân tộc để dân tộc đến với nhân loại và những tinh hoa của nhân loại thấm nhuần vào văn hóa dân tộc.

Hệ giá trị chân - thiện - mỹ đòi hỏi phải có sự thống nhất nhận thức rằng, văn hóa, trong bản chất của nó, chỉ dùng để nói tới cái tốt đẹp, biểu đạt và bảo vệ những giá trị tốt đẹp. Cái sai, cái xấu, cái ác - những phản văn hóa - không được lẫn vào văn hóa, phải đấu tranh chống lại, loại bỏ nó. Đây là nội dung thực tiễn trong xây dựng và thực hành văn hóa, nhất là văn hóa đảng. Với hệ giá trị chân - thiện - mỹ, có thể hình dung các bộ phận nòng cốt của văn hóa sẽ là khoa học (chân - chân lý, bao hàm cả tư tưởng lý luận), đạo đức (luân lý, hạnh kiểm, phẩm chất, phẩm giá - cái gốc của nhân cách, là thiện - điều thiện, tính thiện) và nghệ thuật (là mỹ và thẩm mỹ, là cái đẹp, từ con người đến tự nhiên và xã hội, từ cá thể đến cộng đồng, từ dân tộc đến nhân loại).

Ứng dụng quan niệm này vào xây dựng, thực hành văn hóa đảng hiện nay, cần đặc biệt chú trọng giáo dục trong Đảng và trong xã hội về lý tưởng và mục tiêu mà Đảng và sự nghiệp cách mạng theo đuổi đến cùng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế trong sáng, niềm tự hào về dân tộc và truyền thống dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, tâm hồn dân tộc Việt Nam.

Thực hành văn hóa đảng còn là thực hành đạo đức cách mạng, lời nói đi đôi với việc làm, rèn luyện đạo đức, nhân cách, lối sống, đức khiêm tốn, trung thực, dũng khí tự phê bình và phê bình với động cơ trong sáng, vì nhân dân, vì Đảng chứ không vì mình. Đó là chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội, vụ lợi, vị kỷ. Biết hy sinh, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết. Cái gì có lợi cho nhân dân thì phải kiên quyết làm cho bằng được. Cái gì có hại đến nhân dân phải kiên quyết tránh cho bằng được. Thực hành một lối sống như vậy là thực hành văn hóa. Đảng phải tiêu biểu cho văn hóa và thực hành văn hóa đó. Đó còn là thực hành đoàn kết, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”, theo lời Bác dặn trong Di chúc.

Văn hóa đảng còn phải thấm nhuần năng lực sáng tạo. Muốn sáng tạo để vươn lên ngang tầm thời đại, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xứng đáng với niềm tin và niềm tự hào của nhân dân về Đảng của mình, Đảng và mỗi tổ chức đảng, mỗi đảng viên phải ra sức thực hành văn hóa đảng, từ đổi mới tư duy, năng động sáng tạo, chống trì trệ, bảo thủ, bệnh giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm để trau dồi năng lực tư duy lý luận, thực hành lý luận trong thực tiễn, đồng thời chống khuynh hướng cực đoan, chủ quan, duy ý chí, từ giáo điều cũ lại mắc vào giáo điều mới. Muốn vậy, phải nỗ lực học tập, nâng cao học vấn, bởi học vấn là cơ sở của văn hóa. Thực hành văn hóa đảng còn đòi hỏi rèn luyện lập trường, quan điểm chính trị, có bản lĩnh chính trị vững vàng, thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng, giữ vững nguyên tắc và kỷ luật, chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Thực hành văn hóa đảng còn là củng cố bền chặt mối liên hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, tôn trọng và tin cậy nhân dân, học nhân dân, hỏi nhân dân để hiểu nhân dân, nhờ đó làm tốt mọi công việc được giao theo chức trách, thẩm quyền, đề cao trách nhiệm, phục vụ nhân dân một cách tận tụy, liêm khiết và trung thành. Đó là thực hành dân chủ và công tác dân vận, làm gương và nêu gương cho quần chúng. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một cuộc vận động văn hóa, giáo dục văn hóa, bền bỉ, lâu dài, tạo thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần, trong lối sống có văn hóa của mỗi người, trước hết là của đảng viên và cán bộ, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đi tiên phong về trách nhiệm và sự gương mẫu, nhất là trong tự phê bình và phê bình - một giải pháp thấm đẫm văn hóa đảng trong xây dựng Đảng.

Xây dựng và thực hành văn hóa đảng

Từ những điều trình bày ở trên, cần khái quát lại và nhấn mạnh mấy điểm cốt yếu sau đây:

- Văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam nổi bật ở văn hóa đạo đức, văn hóa chính trị, văn hóa dân chủ của cán bộ đảng viên, của các tổ chức đảng đến toàn Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, lối sống, làm cho Đảng là một đảng cách mạng chân chính, là đạo đức, là văn minh.

- Văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ kế thừa mà còn phát huy những giá trị đặc sắc, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, thể hiện và kết tinh những tinh hoa, bản sắc của văn hóa dân tộc, phản ánh tinh thần thời đại. Văn hóa đảng là một bộ phận, một loại hình của nền văn hóa dân tộc tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc do Đảng lãnh đạo xây dựng và phát triển. Nó phản ánh trình độ, giá trị, ý nghĩa của văn hóa dân tộc ở thời kỳ hiện đại, của lịch sử văn hóa và lịch sử dân tộc Việt Nam.

- Văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam được hiểu là văn hóa ở trong Đảng, trong đời sống chính trị của Đảng, là những giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc, phép ứng xử văn hóa được thể hiện trong các tổ chức đảng, trong quan hệ con người (cán bộ, đảng viên), quan hệ tổ chức. Đó là khoa học - cách mạng - dân chủ và nhân văn ở trong Đảng. Đó còn là quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Đảng với Nhà nước, Đảng với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, ở quan hệ quốc tế của Đảng ta với các đảng, các tổ chức, các phong trào chính trị - xã hội trên thế giới.

- Sự định hình văn hóa đảng thể hiện mối quan hệ giữa giá trị văn hóa với chủ thể, giữa nhân cách đảng viên với tổ chức đảng, giữa Đảng với nhân dân và toàn thể dân tộc. Đó là giá trị thâm nhập vào chủ thể (cá nhân, tập thể, tổ chức), làm hình thành nhu cầu, năng lực, bản lĩnh văn hóa ở chủ thể, tạo ra môi trường văn hóa để rèn luyện và nêu gương, làm cho Đảng tiêu biểu về văn hóa, ứng xử văn hóa, phát huy được vai trò động lực của văn hóa đối với phát triển, tiến bộ xã hội.

- Văn hóa đảng là sức mạnh nội lực của Đảng, cũng đồng thời tạo ra hiệu ứng xã hội rộng lớn đối với nhân dân và dân tộc. Văn hóa đảng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, làm cho nhân dân tin tưởng, ủng hộ, giúp đỡ, bảo vệ Đảng từ thực tế tấm gương của Đảng, của từng tổ chức đảng, của đảng viên và cán bộ, nhất là tập thể cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy các cấp. Như thế, Đảng có sức mạnh tự bảo vệ, cách mạng có sức mạnh tự bảo vệ mà nguồn gốc sâu xa tạo nên sức mạnh đó là lòng dân. Sức mạnh của Đảng là sức mạnh văn hóa.

- Xây dựng và thực hành văn hóa đảng của Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền là xây dựng Đảng về mọi mặt theo những yêu cầu đặt ra của văn hóa chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa dân chủ. Nó biểu hiện tập trung trong công tác giáo dục, công tác cán bộ, trong thực hành văn hóa ở từng đảng viên, cán bộ, từng tổ chức đảng. Hướng đích của thực hành văn hóa đảng được đánh giá ở năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, ở bản lĩnh cầm quyền của Đảng, ở phương pháp và phong cách khoa học, ở sự trong sáng của đạo đức cách mạng, ở tinh thần dân chủ trong Đảng với tự phê bình và phê bình, thái độ trọng dân, trọng pháp của cán bộ, đảng viên trong quan hệ hằng ngày với nhân dân.

- Để xây dựng và thực hành văn hóa đảng theo tư tưởng, đạo đức, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, góp phần trực tiếp vào việc thực hiện thành công Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng, cần chú trọng thực hành theo gương Hồ Chí Minh với năm thực hành lớn: thực hành lý luận gắn liền với thực tiễn, thực hành dân chủ, thực hành dân vận, thực hành đoàn kết và thực hành đạo đức cách mạng; đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng theo các nguyên tắc chuẩn mực: lãnh đạo một cách khoa học, lãnh đạo một cách dân chủ và lãnh đạo bằng sự gương mẫu, tiên phong; ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng và mọi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên; luôn hướng tới và nỗ lực thực hiện những giá trị cốt lõi của phát triển và phát triển bền vững đối với Đảng, đó là hệ tiêu chí: đổi mới - trí tuệ - dân chủ - đoàn kết và phát triển.

Đối với từng cán bộ, đảng viên, đó là thực hành các đức tính và chuẩn mực: trung thực, khiêm tốn, tận tụy, trách nhiệm và kỷ cương./

ST.

1 nhận xét:

  1. Với từng cán bộ, đảng viên thì cần có các đức tính tốt và chuẩn mực: trung thực, khiêm tốn, tận tụy, trách nhiệm và kỷ cương.

    Trả lờiXóa