Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ tiếp
thu, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, vận dụng sáng tạo học thuyết
này vào thực tiễn cách mạng nước ta, mà còn tích cực đấu tranh chống những tư
tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tinh thần đó của Người đã tiếp
tục cổ vũ, khích lệ chúng ta trong công cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng, kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong
bối cảnh hiện nay.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH ĐẶT NỀN MÓNG VỮNG CHẮC CHO VIỆC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
VÀ ĐẤU TRANH VỚI NHỮNG TƯ TƯỞNG PHI MÁC - XÍT
Có thể khẳng định, Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh chính thức đến với chủ nghĩa Mác - Lênin vào năm 1920 khi Người đọc bản
“Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin. Luận
cương của V.I. Lênin đã bàn đến dân tộc, thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc
- những vấn đề có liên quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ; trong
đó, có một luận điểm rất quan trọng nói về con đường phát triển của các nước
thuộc địa, phụ thuộc như Việt Nam: “Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước
tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô-viết, và qua những giai
đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Có thể nói, luận điểm này của V.I.
Lênin đã giải tỏa những trăn trở bấy lâu của Nguyễn Ái Quốc về con đường phát
triển của cách mạng Việt Nam. Khi nói về điều này, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Luận
cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết
bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to
lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ!
Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!””.
Như vậy, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định, chính “Sơ thảo Luận cương về các vấn
đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất
trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường cách mạng của Nguyễn Ái
Quốc: từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến
giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Qua đó, Nguyễn
Ái Quốc đã tìm thấy con đường cách mạng chân chính cho sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc - con đường cách mạng vô sản. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo
V.I. Lênin, đi theo Quốc tế III và Người khẳng định một cách chắc chắn rằng:
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Từ việc đi theo chủ nghĩa Lênin, Nguyễn
Ái Quốc còn tích cực truyền bá chủ nghĩa ấy vào Việt Nam, đầu tiên là thông qua
tờ báo Thanh niên (ra đời năm 1925). Người không chỉ mở lớp
đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ cốt cán, mà còn trực tiếp truyền thụ những nội
dung về chủ nghĩa Mác - Lênin; bởi vì, theo Người, “Đảng có vững cách mệnh mới
thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam”. Hơn ai hết, Nguyễn Ái Quốc là người rất hiểu giá trị
của chủ nghĩa Mác - Lênin với cách mạng Việt Nam nên Người luôn kiên định, vững
vàng trong việc bảo vệ, phát triển học thuyết ấy: “Chủ nghĩa Lênin đối với
chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm
nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con
đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản”.
Những đánh giá của Nguyễn Ái Quốc - Hồ
Chí Minh về vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin với cách mạng Việt Nam không mang
tính chủ quan, mà hoàn toàn khách quan, bởi xuất phát từ thực tiễn phát triển
cách mạng Việt Nam. Chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách là lý luận khoa học,
cách mạng, vũ khí sắc bén của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khi được
truyền bá vào Việt Nam đã chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối cách mạng; đồng
thời, tạo ra bước phát triển về nhận thức, tư tưởng và quan trọng hơn, đã tạo
ra một đội ngũ cán bộ cách mạng được trang bị lý luận tiên tiến. Do đó, trong
quá trình lãnh đạo cách mạng sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định, vững
vàng với chủ nghĩa Mác - Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là
“kim chỉ nam” cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH VẬN DỤNG, PHÁT TRIỂN SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO THỰC TIỄN CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kiên định,
vững vàng với thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn
vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết này vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
Trong “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề
dân tộc và thuộc địa”, V.I. Lênin cho rằng, các nước thuộc địa thường là nước
nghèo nàn, lạc hậu, đang bị các nước tư bản nô dịch, thống trị. Do đó, giai cấp
vô sản ở chính quốc phải ủng hộ tích cực nhất phong trào giải phóng của các dân
tộc thuộc địa. Bằng việc nghiên cứu rất kỹ lưỡng tình hình các nước thuộc địa,
trong đó có Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã phát triển hơn nữa quan điểm của V.I.
Lênin về vấn đề này, khi khẳng định cách mạng ở các nước thuộc địa có thể tiến
hành trước ở các nước chính quốc, và đến lượt mình sẽ có thể giúp đỡ cách mạng ở
các nước chính quốc tiến lên. Đây là sự sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc khi vận dụng
quan điểm của V.I. Lênin về vai trò của cách mạng ở các nước thuộc địa so với
cách mạng ở chính quốc. Nhận định về điều này, Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng
đã khẳng định: “Luận điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,...
nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận
và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”. Ngoài ra, tư tưởng về khả
năng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa của
V.I. Lênin (bỏ qua gián tiếp) đã được Nguyễn Ái Quốc phát triển thành tư tưởng
về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ngày nay, tư tưởng
ấy vẫn là “kim chỉ nam” cho cách mạng nước ta.
Khi xác định con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam, mặc dù ở thời điểm chủ nghĩa xã hội đang hiển hiện ở
Liên Xô và các nước Đông Âu, nhưng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, không thể áp dụng
một cách máy móc vào thực tiễn Việt Nam; bởi lẽ: “Ta không thể giống Liên Xô,
vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác”. Với tư duy độc
lập, tự chủ, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cần học tập kinh nghiệm của
các nước một cách sáng tạo và vận dụng linh hoạt cho phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Người chỉ rõ: “Phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những
kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ
nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác -
Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những
đặc điểm của nước ta”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt rất
sâu sắc lời chỉ dạy của Ph. Ăngghen khi vận dụng chủ nghĩa Mác vào thực tiễn
cách mạng Việt Nam. Theo Ph. Ăngghen, học thuyết của Mác là lý luận của sự phát
triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại
một cách máy móc. Tư tưởng về con đường phát triển của cách mạng Việt Nam là
quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, có trình độ phát triển nghèo nàn,
lạc hậu đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng cách bỏ qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa; hay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chính là những
dẫn chứng thuyết phục cho sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, làm cho học thuyết ấy được nảy nở, phát
triển trên cơ sở vận dụng phù hợp với điều kiện của một nước phương Đông như Việt
Nam.
Là người quán triệt sâu sắc phương
pháp luận duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán rất nghiêm khắc cả
hai khuynh hướng sai lầm khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn. Đó
là “chủ nghĩa giáo điều” và “chủ nghĩa xét lại”. Người chỉ rõ: “Không chú trọng
đến đặc điểm của dân tộc mình trong khi học tập kinh nghiệm của các nước anh
em, là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. Nhưng nếu quá nhấn mạnh
đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản
của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”.
Vì thế, khi vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn, Người luôn yêu cầu vừa
coi trọng việc học tập, nghiên cứu lý luận, vừa gắn lý luận với thực tiễn và phải
khắc phục bệnh giáo điều, đề phòng chủ nghĩa xét lại.
CHỦ TỊCH HỒ CHÍ
MINH LUÔN KIÊN QUYẾT ĐẤU TRANH KHÔNG KHOAN NHƯỢNG VỚI NHỮNG TƯ TƯỞNG PHI MÁC -
XÍT ĐỂ BẢO VỆ CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN
Không chỉ thấm nhuần, kiên định vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh còn kiên
quyết đấu tranh với những tư tưởng phi mác-xít để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người am hiểu
hơn ai hết giá trị của những quan điểm về dân tộc và thuộc địa mà V.I. Lênin đã
đưa ra, nên khi đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Người cũng đi theo Quốc tế III.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy sự phức tạp, nguy hiểm của những tư tưởng cơ hội,
xét lại, dân túy xuất hiện ở Nga những năm sau Cách mạng Tháng Mười, nên Người
đã luôn nêu cao tinh thần “tiến công mạnh mẽ những kẻ chống lại Lênin và Quốc tế
thứ ba”. Là thành viên của Quốc tế Cộng sản, Chủ tịch Hồ Chí Minh “không chỉ
tranh luận trong chi bộ”, mà còn đi đến các chi bộ khác để đặt câu hỏi: “Nếu
các đồng chí không lên án chủ nghĩa thực dân, nếu các đồng chí không đoàn kết với
các dân tộc thuộc địa, thì các đồng chí làm thứ cách mạng gì?”.
Một trong những tư tưởng phi mác-xít
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh một cách trực diện, kiên quyết chính là tư
tưởng của những phần tử tờ-rốt-xkít. Với nhiều năm kinh nghiệm hoạt động quốc tế
và sự nhạy bén về chính trị, ngay từ sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ bản
chất và mưu đồ của các phần tử tờ-rốt-xkít; bởi, bọn họ luôn có tư tưởng phá hoại
phong trào cách mạng ở nhiều nước, như Liên Xô, Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Ban
Nha... và cài cắm các phần tử chống phá vào trong nội bộ tổ chức Quốc tế Cộng sản.
Ngày 23/6/1939, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm “Về chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít”
đăng trên báo Notre Voix để vạch trần bản chất của các phần tử tờ-rốt-xkít. Người
viết: “Bọn tờ-rốt-xkít không chỉ là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ
thù của nền dân chủ và tiến bộ. Đó là bọn phản bội và mật thám tồi tệ nhất”.
Người còn chỉ rõ thêm: “Trong tất cả các nước, bọn tờ-rốt-xkít đều dùng những
tên gọi hoa mỹ để che giấu những công việc kẻ cướp bẩn thỉu của chúng”. Như
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đấu tranh một cách trực diện với những phần tử tờ-rốt-xkít
bằng những ngôn ngữ rất gay gắt. Điều đó cho thấy tinh thần đấu tranh không
khoan nhượng của người cộng sản kiên trung với những tư tưởng phi mác-xít.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đấu
tranh với chủ nghĩa Tờ-rốt-xkít trên thế giới, mà còn kiên quyết đấu tranh với
những tư tưởng tờ-rốt-xkít ở Việt Nam. Trong giai đoạn 1936 - 1939, trước tình
trạng những phần tử tờ-rốt-xkít công khai phá hoại đường lối của Đảng Cộng sản
Đông Dương, lôi kéo, lừa bịp nhân dân bằng những lời lẽ hoa mỹ; từ nước ngoài,
Nguyễn Ái Quốc đề nghị các đồng chí trong Đảng cảnh giác đối với những phần tử
này: “Đối với bọn tờrốtxkít, không thể có thoả hiệp nào, một nhượng bộ nào. Phải
dùng mọi cách để lột mặt nạ chúng làm tay sai cho chủ nghĩa phát xít, phải tiêu
diệt chúng về chính trị”. Như vậy, nhóm tờ-rốt-xkít không chỉ phá hoại nền
hòa bình, dân chủ trên thế giới, mà còn là tay sai cho chủ nghĩa phát xít. Điều
này đi ngược lại với lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin
đã gây dựng, nên Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên quyết cho rằng không thể có một sự
“thỏa hiệp” hay “nhượng bộ” nào!
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng
luôn cảnh giác và đấu tranh không khoan nhượng với khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa
để bảo vệ thành quả cách mạng cũng như bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin. Tại Hội
nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa (tháng
11-1957), Người nhắc lại tinh thần của Bản Tuyên bố của Hội nghị: “Chúng ta cần
phải tăng cường giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh chống
những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa
sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại”.
Đây chính là lời cảnh tỉnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với những người cộng sản,
nhằm giữ vững lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và nêu cao tinh thần cảnh
giác trước sự chống phá của những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít lúc bấy giờ.
Sau này, khi nói về nguyên nhân thắng
lợi của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta luôn luôn
đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản, tuyệt đối trung thành với lợi ích của
giai cấp và của nhân dân, biết vận dụng lý luận Mác - Lênin vào tình hình
thực tế của nước ta và đề ra đường lối, chính sách đúng đắn. Đảng ta không ngừng
đấu tranh chống những khuynh hướng cải lương của giai cấp tư sản và những
khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản trong phong trào dân tộc; chống
luận điệu “tả” của bọn tơrốtxkít trong phong trào công nhân; chống những khuynh
hướng hữu và “tả” trong Đảng khi quy định và chấp hành chiến lược và sách lược
cách mạng của Đảng ở mỗi thời kỳ”. Có thể thấy rõ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
ra hai yếu tố cơ bản mang lại những thắng lợi của cách mạng Việt Nam: Đó là luôn
vững vàng với lập trường giai cấp vô sản, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác -
Lênin vào thực tiễn cách mạng; đồng thời, đấu tranh không khoan nhượng với những
khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít, như khuynh hướng cải lương của giai cấp tư sản,
khuynh hướng manh động của tầng lớp tiểu tư sản và các khuynh hướng cơ hội, xét
lại khác... Đây là nhận định vừa mang tính lý luận, vừa mang tính tổng kết thực
tiễn, xuất phát từ thực tiễn lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giúp
sự nghiệp cách mạng nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để đạt được
những thành quả to lớn ở thế kỷ XX.
Có thể khẳng định, việc kiên định, vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin cũng như kiên quyết đấu tranh
chống những khuynh hướng tư tưởng phi mác-xít không chỉ nằm trong quan điểm, tư
tưởng Hồ Chí Minh, mà còn được Người thực hành một cách nghiêm túc, thường
xuyên trong thực tiễn lãnh đạo cách mạng. Do đó, ở Người, lý luận và thực tiễn,
“tri” và “hành” có sự thống nhất với nhau rất đặc sắc.
Hiện nay, một trong những nhiệm vụ trọng
tâm trong công tác xây dựng Đảng là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu
tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đây được coi là nhiệm vụ cơ bản,
xuyên suốt, sống còn, liên quan trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ
ta. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những tư tưởng phi
mác-xít có ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng đối với cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta trong thực hiện Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22/10/2018, của Bộ
Chính trị khóa XII, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh
phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Điều đó nhắc nhở
mỗi chúng ta phải thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
để tiếp tục tuyên truyền, lan tỏa những nội dung, giá trị của chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước; đồng thời, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác hiệu quả
các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội
chính trị ở trong nước và nước ngoài. “Bảo vệ” và “đấu tranh” có mối quan hệ biện
chứng với nhau, có sự tác động qua lại nhau; bởi lẽ, muốn bảo vệ tốt phải đấu tranh
hiệu quả và ngược lại, đấu tranh hiệu quả góp phần bảo vệ tốt hơn, vững chắc
hơn.
Trong những năm qua, tình hình thế giới,
khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường với sự leo thang của
các cuộc xung đột vũ trang, quân sự trên quy mô lớn. Ở trong nước, bên cạnh những
thành tựu to lớn, tốc độ tăng trưởng kinh tế - xã hội còn chậm, chưa vững chắc;
tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
cán bộ, đảng viên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ còn nhiều diễn
biến phức tạp... Điều này đòi hỏi chúng ta tiếp tục kiên định, vững vàng trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng bổ sung, phát triển
sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; đồng thời, thường xuyên đấu tranh, ngăn
chặn âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, kiên quyết
đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của
Đảng. Điều này cũng phù hợp với phương châm kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”
mà Đảng ta đã xác định rõ trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng giai đoạn hiện
nay.
Là người cộng sản kiên trung, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quán triệt rất sâu sắc di huấn của V.I. Lênin: “Chúng ta không hề
coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm;
trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những
người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt,
nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”. Sự kiên định, vận dụng,
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và sự kiên quyết, kiên trì đấu tranh
với những tư tưởng phi mác-xít của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ cho chúng ta
một phương pháp luận quan trọng, mà còn tiếp tục cổ vũ, động viên, khích lệ
chúng ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các
quan điểm sai trái, thù địch trong giai đoạn hiện nay./.
Sưu tầm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét