Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DIỄN BIẾN HÒA BÌNH. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2024

ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN CHỈ THỊ SỐ 05-CT/TW


Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất của dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Người “là biểu tượng cao đẹp nhất của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Người là kết tinh rạng ngời của đạo đức, trí tuệ, khí phách, lương tri của dân tộc và thời đại”(1). Trọn cả cuộc đời, Người dâng hiến cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc ta. Học tập và làm theo Người là nhiệm vụ hết sức quan trọng, không thể thiếu đối với tất cả các tổ chức đảng, đảng viên trong tu dưỡng, rèn luyện, cống hiến và phụng sự đất nước.

Trong những năm qua, việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” (sau đây gọi tắt là Chỉ thị số 05), gắn với Nghị quyết số 04-NQ/TW, ngày 30-10-2016, của Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” (sau đây gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII) đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện, thiết thực, với nhiều cách làm mới, sáng tạo, ngày càng đi vào thực chất, chiều sâu, từng bước trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng viên. Qua đó, phong trào đã tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, có sức lan tỏa trong Đảng và toàn xã hội, đưa đến những thay đổi tích cực trong toàn hệ thống chính trị, đặc biệt là trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, tạo cơ sở, nền tảng quan trọng cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta ra sức thi đua, tiếp tục thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng trong thời gian tới.

Nhìn chung, việc thực hiện Chỉ thị số 05 gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã phát huy được sức lan tỏa, thúc đẩy việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trên các mặt của đời sống xã hội, góp phần tạo nên sức mạnh cộng hưởng, sự đồng lòng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn xã hội trong thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, bảo vệ Tổ quốc, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. 

Tuy nhiên, việc tổ chức triển khai thực hiện Chỉ thị số 05 gắn với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII còn bộc lộ những hạn chế, như công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện có nơi, có lúc chưa quyết liệt, chưa thể hiện được vai trò của người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Việc cam kết tu dưỡng, rèn luyện, nhất là việc thực hiện quy định nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa trở thành nền nếp, hiệu quả chưa cao. Việc xác định khâu đột phá có nơi còn lúng túng. Công tác tuyên truyền chưa chú trọng triển khai sâu rộng ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu dân cư. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch còn bị động, tính chiến đấu chưa cao. Việc đấu tranh với các biểu hiện lệch lạc về đạo đức, lối sống chưa mạnh mẽ. Công tác kiểm tra, giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở một số nơi chưa thường xuyên, quyết liệt; phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa còn hạn chế; công tác sơ kết còn chậm, chưa được quan tâm đúng mức. Điều này đòi hỏi cần có những giải pháp mạnh mẽ, nhằm đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới.

Trong bối cảnh hiện nay, thế giới đang trải qua những biến động to lớn, tiếp tục có những diễn biến vô cùng phức tạp, khó lường, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên toàn cầu, song vấn đề cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ vẫn diễn ra dưới nhiều hình thức, gay go hơn, quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị và an ninh quốc tế.

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Thế, lực và sức mạnh tổng hợp của quốc gia ngày càng được nâng cao. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(8). Tình hình quốc tế và trong nước với những thuận lợi, thời cơ đan xen những khó khăn, thách thức, đặt ra nhiều vấn đề mới, cấp bách, nặng nề hơn đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. “Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước... tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự chống, phá quyết liệt của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động...”(9). Điều này đặt ra yêu cầu toàn Đảng cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, có quyết tâm chính trị cao, chủ động ứng phó kịp thời với mọi tình huống, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, gia tăng tiềm lực mọi mặt của quốc gia, đưa đất nước vững bước tiến lên. Trong đó, cần đặc biệt coi trọng, đẩy mạnh hơn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trong thời gian tới, cần tập trung làm tốt ba vấn đề: “Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên”, thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về nội dung, ý nghĩa của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nhận thức ngày càng sâu sắc hơn những giá trị to lớn trong tư tưởng của Người; làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, cội nguồn sức mạnh của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa “học tập” với “làm theo” Bác trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự thống nhất ý chí và hành động trong các cấp ủy, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị số 05. Tiếp tục cụ thể hóa các nội dung, nhiệm vụ của Chỉ thị số 05 thành chương trình hành động, xác định đúng và trúng các khâu đột phá, những vấn đề nổi cộm, giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng, gây bức xúc trong dư luận, thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội.

Thứ ba, đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhằm khẳng định vai trò lãnh đạo, tính tiên phong, gương mẫu “trên trước, dưới sau”, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau” của cán bộ, đảng viên. Gắn trách nhiệm nêu gương trong việc học tập và làm theo Bác với các phong trào thi đua, cuộc vận động của các cấp, các ngành, nhằm khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong toàn Đảng, toàn xã hội. Coi đây là phương thức lãnh đạo quan trọng trong công tác xây dựng Đảng./.

 

Thứ Hai, 25 tháng 3, 2024

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ AN NINH TRÊN BIỂN, ĐẢO TỔ QUỐC

 

Bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ "trọng yếu thường xuyên" của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện sự nghiệp xây dụng, củng cố quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta luôn trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bám sát đặc điểm, tình hình, yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong bối cảnh thế giới, đất nước có nhiều biến động phức tạp và đã đạt được những thành tựu rất quan trọng cả về nhận thức, quan điểm lý luận cũng như trong tổ chức hoạt động thực tiễn.

Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế và tăng cường đối ngoại nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế quốc tế lớn, các tổ chức quốc tế và khu vực, góp phần làm thất bại mọi âm mưu, hành động áp đặt và cường quyền. Tăng cường đối ngoại về quốc phòng an ninh với các nước trong khu vực và thế giới trong thi hành pháp luật biển, như: tuần tra chung trên biển với hải quân các nước theo các thỏa thuận đã ký kết; chống các hoạt động buôn lậu, buôn bán ma túy, buôn bán người, chống cướp biển; góp phần giữ gìn trật tự và an ninh trên biển đảo.

          Tổ chức diễn tập tìm kiếm cứu nạn trên biển với một số nước trong khu vực theo thỏa thuận. Ký kết hợp tác với các cơ quan cảnh sát biển của các nước trong khu vực, nhất là hợp tác đào tạo, huấn luyện chuyên ngành cảnh sát biển về lĩnh vực thi hành luật, bảo vệ môi trường biển, hoạt động điều tra tội phạm, phòng chống buôn lậu, thông tin về các thảm họa... Thiết lập các kênh thông tin đa chiều giữa cảnh sát biển nước ta và cảnh sát biển các nước trong khu vực, nhằm trao đổi kịp thời thông tin liên quan tới tình hình trên biển.

          Đẩy mạnh các hoạt động giao lưu với hải quân các nước trong khu vực và thế giới và giao hữu thi đấu thể thao; tổ chức các lớp đào tạo cán bộ quân sự cao cấp và đào tạo Tiếng Việt cho các nước trong khu vực. Tăng cường tính minh bạch và vận dụng các hình thức hợp tác củng cố lòng tin và sự tin cậy giữa các nước thông qua việc tự nguyện thông báo về chính sách quốc phòng; trao đổi các thông tin, tài liệu liên quan tới những vấn đề an ninh cùng quan tâm trong điều kiện và quyền hạn cho phép; đối thoại quan chức quốc phòng, trao đổi quan sát viên trong các cuộc diễn tập quân sự phù hợp với khả năng và điều kiện của Việt Nam.

QUÁN TRIỆT, THỰC HIỆN NHIÊM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 


Để thực hiện thắng lợi mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Nghị quyết xác định phải tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chiến lược sau: Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Không để xảy ra bạo loạn chính trị và: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Ngăn chặn, đẩy lùi mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, nguy cơ can thiệp quân sự và xung đột vũ trang, xâm hại chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, kết hợp chặt chẽ với bảo vệ Đảng, bảo vệ an ninh chính trị nội bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt vững vàng về chính trị, có đủ phấm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và giáo dục chính trị - tư tưởng. Phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc. Xây dựng Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực sự trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế gắn với giải quyết các vấn đề xã hội, không ngừng nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm công bằng xã hội.

Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa đi đôi với tăng cường trật tự, kỷ cương, giải quyết tốt các vấn đề dân tộc, tôn giáo, không để các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo tiến hành các hoạt động chống phá.

Tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Hoàn thiện cợ chế lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp quốc phòng an ninh.

Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, nhằm tranh thủ vốn, công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến để thực hiện thăng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; nâng cao vị thế của nước ta trong khu vực và thế giới.

QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI TINH MẠNH

 

Mặt khác, cần tiếp tục nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của cơ quan chính trị các cấp trong quân đội, nhất là cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, chỉ huy các cấp. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa yêu nước, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì các cấp, đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức cách mạng và lối sống trong sáng, có kiến thức, năng lực tư duy và khả năng tổ chức hoạt động thực tiễn; xây dựng cơ quan chính trị các cấp vững mạnh. Đẩy mạnh hơn nữa công tác nghiên cứu phát triển lý luận gắn với tổng kết thực tiễn và làm tốt chức năng tham mưu cho Đảng, Nhà nước để có đường lối, chủ trương lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo trong xây dựng quân đội và thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp tục điều chỉnh tổ chức, cơ cấu quân đội, bảo đảm cơ cấu cân đối giữa bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, dân quân tự vệ; lực lượng thường trực và dự bị động viên; giữa các đơn vị chiến đấu với cơ quan chiến dịch, chiến lược, các học viện nhà trường; giữa binh chủng hợp thành và các quân binh chủng, ngành. Hoàn thành phương án tổ chức các học viện nhà trường; hệ thống bệnh viện; các đơn vị bảo đảm, phục vụ; các cơ sở sản xuất, sửa chữa quốc phòng; các đoàn kinh tế-quốc phòng. Xã hội hoá một số công tác bảo đảm hậu cần để giảm quân số thường trực. Tiếp tục đầu tư nghiên cứu tổ chức quân đội theo hướng tinh, gọn, nhẹ, mạnh và cơ động, xây dựng các đơn vị đặc nhiệm, có sức mạnh chiến đấu cao, phù hợp các điều kiện hoạt động thời bình và sẵn sàng mở rộng khi có chiến tranh và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Kết hợp chặt chẽ việc cải tiến hiện đại vũ khí trang bị hiện có với sản xuất và mua sắm trang bị ngày càng hiện đại cho quân đội; tập trung đẩy mạnh hiện đại hóa hải quân, phòng không - không quân, tác chiến điện tử, trinh sát kỹ thuật và thông tin liên lạc, nhưng cũng cần quan tâm thích đáng đến hiện đại hóa lục quân; coi trọng trang bị vũ khí có khả năng tác chiến tầm cao, vùng biển xa bờ, nâng cao khả năng răn đe có hiệu quả từ thời bình và đánh thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh.

NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA

 

Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, tiếp tục phát huy nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong bảo đảm an ninh, trật tự tại địa bàn cơ sở, trọng tâm là các địa bàn chiến lược, trọng điểm, khu vực biên giới, biển, đảo, vùng dân tộc, tôn giáo. Đổi mới nội dung và phương pháp tổ chức thực hiện, huy động cho được sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân; gắn kết chặt chẽ với các phong trào thi đua do Đảng, Nhà nước, các cơ quan, đơn vị, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị, xã hội tổ chức phát động. Kịp thời khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, có chính sách thỏa đáng đối với những trường hợp bị thương, hy sinh hoặc bị thiệt hại về tài sản khi tham gia phong trào.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thông tin, truyền thông, nhất là mạng Internet. Kiên quyết xử lý theo quy định của pháp luật đối với số phóng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật; số đối tượng đưa tin sai sự thật gây hoang mang dư luận, tuyên truyền xuyên tạc chống Đảng, Nhà nước. Từng bước ngăn chặn tình trạng sử dụng mạng xã hội tạo ra các “cơ quan truyền thông”, “tòa soạn thu nhỏ” đăng tải thông tin xuyên tạc, chống phá, tạo dư luận phức tạp trong nội bộ, nhân dân. Đấu tranh phá rã các hội, nhóm trái pháp luật, không để hình thành tổ chức chính trị đối lập.

Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng và đề cao trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong đề xuất, tham mưu, thực hiện, đánh giá và quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, cải cách hành chính, tư pháp. Quản lý chặt chẽ các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế nhận viện trợ nước ngoài để thực hiện các chương trình, dự án… trên lĩnh vực pháp luật, cải cách hành chính, tư pháp, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các hoạt động hậu thuẫn, hỗ trợ phát triển “xã hội dân sự”, tác động chuyển hóa thể chế, chính sách, pháp luật theo tiêu chí phương Tây, những biểu hiện “lợi ích nhóm”, “lợi ích bộ, ngành”.

Rà soát toàn diện và có phương án, giải pháp bảo đảm an ninh, lợi ích quốc gia đối với các dự án đầu tư nước ngoài tại các khu vực nhạy cảm về quốc phòng, an ninh. Xây dựng và thực hiện các quy chế, quy định bảo đảm an ninh kinh tế ở những cơ quan hoạch định chính sách phát triển kinh tế, các tập đoàn, doanh nghiệp kinh tế lớn và trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức thanh tra, kiểm tra, xử lý theo đúng quy định đối với các dự án không thực hiện đúng cam kết, không hiệu quả, lãng phí tài nguyên, ô nhiễm môi trường. Thực hiện nghiêm việc lấy ý kiến của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đối với các chương trình, đề án, dự án hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài vào địa bàn chiến lược, trọng điểm về quốc phòng, an ninh./.

 

NHẬN THỨC VỀ QUAN HỆ, NGOẠI GIAO VỚI TRUNG QUỐC VÀ MỸ TRONG GIỮ VỮNG AN NINH QUỐC GIA

 

 Tích cực đổi mới, xử lý linh hoạt quan hệ giữa đối tác và đối tượng, hợp tác và đấu tranh. Việc xử lý tốt mối quan hệ giữa các nước lớn là cực kỳ quan trọng đối với an ninh và phát triển của Việt Nam, tuyệt đối không để bên liên quan cho rằng Việt Nam thực hiện chính sách hai mặt, đi với nước này, chống nước kia. Phải vận dụng sáng tạo quan điểm của Đảng ta “Đa dạng hóa, đa phương hóa, làm bạn với tất cả các nước”, giữ thế cân bằng “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, xử lý tỉnh táo các mối quan hệ với Mỹ, Trung Quốc hiện nay nhằm đạt lợi ích tối đa.

Với M, quán triệt phương châm “vừa cảnh giác, vừa hợp tác”, tăng cường hợp tác trên các lĩnh vực nhưng không mơ hồ mất cảnh giác, xác định quan hệ chính trị là nền tảng, quan hệ kinh tế là then chốt, xử lý các vấn đề trong quan hệ phải thực hiện phương châm cảnh giác, tỉnh táo, linh hoạt, nguyên tắc không đi với Mỹ chống Trung Quốc và ngược lại. Tranh thủ quan hệ, đối thoại chính trị, kinh tế, thương mại, quốc phòng, tăng cường hợp tác an ninh…; đồng thời, luôn cảnh giác và kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình”, chuyển hóa, thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam của Mỹ, phương Tây và bọn phản động.

Với Trung Quốc, quán triệt phương châm “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, thúc đẩy hợp tác trên cơ sở tăng cường mặt đồng, xây dựng lòng tin, thúc đẩy hợp tác kinh tế, chính trị, tận dụng những mặt đồng (chế độ chủ nghĩa xã hội, Đảng lãnh đạo, lợi ích chiến lược, lợi ích kinh tế…) nhưng phải luôn đề cao tinh thần cảnh giác. Tiếp tục chủ trương “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”, nhất là trong giải quyết vấn đề Biển Đông, xử lý khôn khéo bất đồng, không để xảy ra đối đầu, không mắc mưu và bị các thế lực thù địch lợi dụng chia rẽ, chống đối; tranh thủ những mặt tích cực của Trung Quốc, đồng thời kiên quyết giữ vững chủ quyền lãnh thổ, cảnh giác với hoạt động xâm nhập nội bộ.

Từ đó, chỉ đạo nghiên cứu, đề xuất, tham mưu cho Đảng, Nhà nước những vấn đề chiến lược, sách lược, quyết sách trong quan hệ đối nội, đối ngoại theo hướng giữ vững đường lối phát triển độc lập tự chủ, mở rộng hợp tác đa phương, thực hiện hài hòa chính sách cân bằng với các nước lớn; định hình chính sách và có lộ trình, bước đi phù hợp, linh hoạt để tận dụng thời cơ; giữ ổn định quan hệ với cả Trung Quốc và Mỹ để tạo môi trường thuận lợi phát triển đất nước; thận trọng, khôn khéo để giảm thiểu tác động tiêu cực, không để Việt Nam rơi vào “thế kẹt”, trở thành “con bài” để các cường quốc lợi dụng mặc cả, chia sẻ lợi ích.

 

QUÁN TRIỆT THỰC HIỆN CHỦ TRƯƠNG, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC VỀ QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ BIỂN ĐẢO

 

Quản lý và bảo vệ biển đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, được thực hiện thống nhất theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế khác mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Các cơ quan, tổ chức và mọi công dân Việt Nam có trách nhiệm bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển. Nhà nước giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, đảo với các nước khác bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, pháp luật và thực tiễn quốc tế.

Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và thực hiện các biện pháp cần thiết bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên các vùng biển, đảo và quần đảo, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển kinh tế biển. Xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch quản lý, sử dụng, khai thác, bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo một cách bền vững phục vụ mục tiêu xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh.

Khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư lao động, vật tư, tiền vốn và áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ vào việc sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế biển, bảo vệ tài nguyên và môi trường biển, phát triển bền vững các vùng biển phù hợp với điều kiện của từng vùng biển và bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; tăng cường thông tin, phổ biến về tiềm năng, chính sách, pháp luật về biển. Khuyến khích và bảo vệ hoạt động thủy sản của ngư dân trên các vùng biển, bảo hộ hoạt động của tổ chức, công dân Việt Nam ngoài các vùng biển Việt Nam phù hợp với điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩaViệt Nam là thành viên, pháp luật quốc tế, pháp luật của quốc gia ven biển có liên quan.

Đầu tư bảo đảm hoạt động của các lực lượng làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát trên biển, nâng cấp cơ sở hậu cần phục vụ cho các hoạt động trên biển, đảo và quần đảo, phát triển nguồn nhân lực biển. Thực hiện các chính sách ưu tiên đối với nhân dân sinh sống trên các đảo và quần đảo; chế độ ưu đãi đối với các lực lượng tham gia quản lý và bảo vệ các vùng biển, đảo và quần đảo.

QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Để quản lý và bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ của quốc gia, giữ vững môi trường hòa bình trên biển Đông; đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, các địa phương và của cả hệ thống chính trị. Vì vậy, nghiên cứu chuyên đề: “Quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mớilà cấp thiết, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn.

Xây dựng, củng cố lực lượng của các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Xây dựng Hải quân nhân dân thành một quân chủng chính quy, hiện đại có số lượng phù hợp, chất lượng chiến đấu cao; có phương pháp tác chiến phù hợp trên chiến trường biển đảo của ta, đủ sức bảo vệ bờ biển dài và vùng biển rộng lớn của Tổ quốc, sẵn sàng xử lý có hiệu quả các tình huống chiến lược trên biển.

Xây dựng lực lượng Hải quân mạnh và phối hợp với các lượng vũ trang nhân dân địa phương và không quân đánh bại các cuộc tập kích đổ bộ chiếm đảo và đổ bộ đường biển của địch khi chúng tiến hành xâm lược nước ta. Đồng thời, xây dựng bộ đội Biên phòng vững mạnh, có tổ chức, chỉ huy thống nhất, có sức chiến đấu, và trang bị thuật thích ứng với nhiệm vụ, có mạng lưới bảo vệ rộng khắp trên tuyến biển.

Củng cố các trạm, đồn biên phòng có đủ quân số và phương tiện hoạt động phù hợp với môi trường biển và đảo, bám sát dân, bám sát địa bàn. Sẵn sàng cùng với hải quân nhân dân, cảnh sát biển và các lực lượng bảo vệ khác ngăn chặn được tàu thuyền nước ngoài xâm nhập trái phép vào vùng biển bảo vệ được tài nguyên biển ngăn chặn vượt biên trái phép và tình trạng buôn lậu trên vùng biển; sẵn sàng chủ động đối phó, đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn gián điệp, biệt kích, móc nối gây cơ sở, gây rối, bạo loạn lật đổ của địch ở vùng biển và đảo, giữ vững chủ quyền an ninh của Tổ quốc.

Tăng cường củng cố, phát triển lực lượng cảnh sát biển ngày càng lớn mạnh, hiện đại, đủ sức phát hiện, kiểm soát mọi hành động vi phạm trên các lĩnh vực kinh tế, quốc phòng, an ninh, ngăn chặn các hành động cướp biển, xâm phạm lãnh hải, hướng dẫn, khắc phục hậu quả thiên tai. Đồng thời, xây dựng các đơn vị pháo binh, tên lửa bố trí trên đất liền, trên đảo có thể kiểm soát hiệu quả các vùng biển đảo ở các cự ly khác nhau. Coi trọng công tác huấn luyện, luyện tập nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật cho bộ đội; bổ sung, hoàn thiện các phương án tác chiến; củng cố, xây dựng mới công sự, trận địa, trên các đảo và ven biển, nhằm đáp ứng yêu cầu tác chiến trong mọi hoàn cảnh.

QUẢN LÝ, BẢO VỆ BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC

 


Tình hình thế giới, tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường đe dọa nghiêm trọng đến hoà bình, ổn định của khu vực và môi trường đầu tư phát triển. Vì vậy, cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật và chứng cứ pháp lý liên quan đến quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

          Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và chứng cứ pháp lý là căn cứ pháp lý cho các tổ chức và toàn dân mà trước hết là các lực lượng hoạt động trên biển trong quản lý, đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích của Việt Nam trên biển, đảo; tạo cơ sở, hành lang pháp lý để cho hoạt động quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo diễn ra trong khuôn khổ pháp lụật; là cơ sở phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong quản lý, đấu tranh bảo vệ chủ quyền và lợi ích của Việt Nam trên biển, đảo; răn đe, ngăn ngừa và làm thất bại âm mưu, hành động xâm phạm độc lập, chủ quyền và lợi ích của Việt Nam.

Hệ thống văn bản pháp luật về đối ngoại, khẳng định với thế giới và các nước trong khu vực về chủ quyền lãnh thổ, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam đối với các vùng biển, vùng trời và hải đảo theo công ước Liên hợp quốc năm 1982 về Luật biển là không thể tranh cãi.

Hệ thống văn bản pháp luật về đối nội, bao gồm những văn bản pháp lý của nhà nước, xác định quyền, nghĩa vụ của công dân, các cấp, các ngành và chính quyền địa phương trong xây dựng và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc; các tổ chức và cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh, các lực lượng vũ trang hoạt động trên biển. Ban hành hệ thống văn bản đồng bộ với Luật biển Việt Nam, như: Quy chế quản lý biển, Pháp lệnh về vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, hệ thống đường cơ sở Việt Nam, ranh giới ngoài thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. Nghiên cứu bổ sung, sửa đổi các văn bản hướng dẫn thực hiện các luật có liên quan tới từng bộ, ngành, tạo ra một khuôn khổ pháp lý thống nhất cho sự phát triển kinh tế biển và quản lý, bảo vệ chủ quyền biển đảo một cách có trật tự và nền nếp.

 

NHẬN THỨC VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VỚI NHIỆM VỤ BẢO VỆ AN NINH QUỐC GIA TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 

Gắn kết nhiệm vụ phát triển kinh tế với nhiệm vụ an ninh, Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 05/01/2017 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế xác định các nhiệm vụ trọng tâm sau:

Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp Nhân dân trong công tác bảo đảm an ninh kinh tế. Kết họp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế và bảo đảm an ninh kinh tế trong từng bước đi, chính sách phát triển và trong từng dự án đầu tư phát triển.

Xây dựng và thực hiện nghiêm túc quy chế, quy định bảo đảm an ninh kinh tế; thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về quản lý ngân sách, đầu tư công, tài sản công, bảo đảm an toàn nợ công, an ninh tài chính quốc gia, an ninh thông tin, an ninh mạng, bảo vệ bí mật nhà nước trong lĩnh vực kinh tế. Nâng cao năng lực thực thi pháp luật về môi trường; khắc phục cơ bản tĩnh trạng ô nhiễm môi trường; chủ động ứng phó hiệu quả với biến đổi khí hậu.

Thận trọng, thẩm định chặt chẽ đối với những chương trình, đề án, dự án hợp tác quốc tế, đầu tư nước ngoài vào địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh, nhất là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài, từ khâu thẩm định, cấp phép đến quá trình thi công, vận hành dự ỏn để bảo đảm an ninh, an toàn, bảo vệ tài nguyên, môi trường. Kiên quyết xử lý các dự án không thực hiện đúng cam kết. Và xử lý nghiêm minh các cá nhân, tổ chức vi phạm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Phòng ngừa, giải quyết kịp thời các vấn đề bức xúc nảy sinh trong quá trình thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, các vụ khiếu kiện, đình công, không để hình thành “điểm nóng” về an ninh, trật tự.

 

NHẬN THỨC VỀ AN NINH PHI TRUYỀN THỐNG

 

Thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu to lớn thì vấn đề an ninh phi truyền thống đang nổi lên như là những hiện tượng bức bách của đời sống xã hội. Các nguy cơ, thách thức, mối đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam đang có những biến đổi theo chiều hướng bất lợi đối với cuộc sống con người, đồng thời cũng là sự thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước và công tác đảm bảo quốc phòng, an ninh.

 Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế.

Đây là quan điểm, chủ trương, là định hướng để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tập trung triển khai thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh mục tiêu tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc nhằm: “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, an ninh con người; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Trong bối cảnh thế giới, khu vực và trong nước, những nhận thức về an ninh cũng thay đổi nhanh chóng. Bên cạnh những quan niệm đã và đang được sử dụng xung quanh chủ đề này như: an ninh tập thể, an ninh chung, an ninh toàn diện. An ninh phi truyền thống là việc bảo đảm an toàn, không có hiểm nguy cho cá nhân con người, quốc gia dân tộc và toàn nhân loại trước các mối đe dọa có nguồn gốc phi quân sự như biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, khan hiếm nguồn lực, dịch bệnh lây lan nhanh, khủng hoảng tài chính, an ninh mạng, tội phạm nguy hiểm xuyên biên giới, chủ nghĩa khủng bố. Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống thường lan tỏa nhanh, ảnh hưởng rộng mang tính khu vực hoặc toàn cầu, do tác động bởi mặt trái của kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, của sử dụng thành tựu khoa học - công nghệ.

NHẬN THỨC VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ GẮN VỚI QUỐC PHÒNG AN NINH

 

Kinh tế - xã hội là nền tảng, là yếu tố hàng đầu quyết định sức mạnh của một quốc gia, dân tộc. Trong thời đại mà quyền lợi đan xen, tác động chi phối kinh tế giữa các quốc gia ngày càng gia tăng bởi tác động của toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất xã hội, nhất là những đóng góp của khoa học - công nghệ thì yếu tố kinh tế mạnh, có khả năng độc lập tự chủ cao, hội nhập hiệu quả càng trở nên đặc biệt quan trọng để tạo cơ sở, nền tảng cho đảm bảo an ninh quốc gia.

Trong định hướng mục tiêu, nhiệm vụ an ninh - quốc phòng, Cương lĩnh của Đảng cũng nêu rõ: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng - an ninh. Phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng - an ninh. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng - an ninh, quốc phòng - an ninh với kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trên từng địa bàn”. Thực hiện được mục tiêu phát triển kinh tế, gắn phát triển kinh tế với quốc phòng - an ninh là một giải pháp rất căn bản để ngăn chặn từ xa những nguy cơ đe dọa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống đối với Việt Nam.

Thường xuyên rà soát, bổ sung, điều chỉnh và tổ chức luyện tập, diễn tập các phương án bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm hiệu quả, khả thi, sát thực tế, trọng tâm là: Phương án phòng, chống biểu tình, bạo loạn, khủng bố, bắt cóc con tin, “cách mạng đường phố”; phòng, chống hình thành, công khai hóa tổ chức chính trị đối lập; bảo vệ hoạt động của lãnh đạo Đảng, Nhà nước khi đến thăm, làm việc trên địa bàn tỉnh; bảo vệ các sự kiện chính trị quan trọng; bảo vệ các cơ quan đảng, chính quyền; bảo vệ an ninh biên giới, khu kinh tế, khu công nghiệp. Trong chỉ đạo giải quyết các nguy cơ, thách thức, mối đe dọa, thảm họa an ninh phi truyền thống cần đặc biệt coi trọng công tác phòng ngừa, khi có tình huống xảy ra thì tích cực, chủ động ứng cứu nhanh, có hiệu quả. Đồng thời thực hiện tốt phương châm 4 tại chỗ: chỉ huy tại chỗ, lực lượng tại chỗ, cơ sở vật chất tại chỗ, hậu cần tại chỗ, để giải quyết ban đầu các nguy cơ, thách thức, mối đe dọa, thảm họa an ninh phi truyền thống xảy ra ở địa phương.

KẺ ĐỊCH LỢI DỤNG CHÍNH SÁCH ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG

 

Các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, tăng cường tuyên truyền các giá trị dân chủ, nhân quyền tư sản vào Việt Nam nhằm hình thành môi trường xã hội dân sự cho sự xuất hiện các trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản, tổ chức chính trị đối lập chống Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đây được coi là khâu đột phá trong vic trin khai chiến lượcdin biến hòa bình” ở Vit Nam. Hot động phá hoi tư tưởng ca chúng vi mc tiêu chiến lược lâu dài là nhằm phủ định chnghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HChí Minh

Trên cơ sở đó để lôi kéo và tách qun chúng ra khi squn lý ca Nhà nước xã hội chủ nghĩa, làm lu mvai trò ca Đảng Cng sn Vit Nam bngkinh tế hoá”, mi sinh hot ca qun chúng nhân dân lao động. Bên cạnh đó, chúng ráo riết thực hiện ý đ thâm nhập, tác động chuyển hoá về tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân, tác động mạnh mẽ trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, báo chí - xuất bản, giáo dục - đào tạo... của Việt Nam theo xu hướng dân chủ tư sản phương Tây. Tăng cường mời cán bộ của ta ra nước ngoài dự triển lãm, hội thảo, học tập... để tác động lôi kéo, tuyển chọn làm cộng tác viên sử dụng vào hoạt động thu tin nội bộ và kích động hoạt động chống chính quyền. Tăng cường lợi dụng chính sách mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế của Đảng, Nhà nước để thâm nhập nội bộ ta thông qua hoạt động hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, hợp tác đầu tư, văn học - nghệ thuật, báo chí - xuất bản, giáo dục  đào tạo nhằm tạo dựng một lớp người thân Mỹ và phương Tây.

Trên cơ sở đó tng bước làm lu mbn cht giai cp ca Đảng; chuyn hóa tư tưởng ca cán bộ, đảng viên; hình thành lc lượng chng đối xã hội chủ nghĩa, đối lp vi Đảng; xóa bNhà nước Cng hòa xã hội chủ nghĩa Vit Nam và chế độ xã hội chủ nghĩanước ta. Thc hin mc tiêu trên, các thế lực thù địch bên ngoài đã tp trung lc lượng, phương tin và sdng nhiu hình thc để tác động mnh mbng nhiu chiu nhiu hướng vào ni bcác cơ quan trung ương nhm phá vsthng nht tư tưởng. Chúng đã tchc trin khai nhiuchiến dchchng phá ta về đường li, quan đim, cương lĩnh, điu lệ Đảng nhm loi bnn tng tư tưởng ca Đảng ta, đưa quan đim, tư tưởng tư sn phn động vào trong Đảng, vào trong xã hi ta. Tìm cách đưa quan đim xã hi dân chvào các văn kin ca Đảng và chtrương chính sách ca Nhà nước nhm thay đổi đường li chính trị, bn cht chế độ xã hội chủ nghĩa.