Thứ Năm, 28 tháng 7, 2022

Nhận diện quan điểm sai trái "Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"

 Các thế lực thù địch sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam, tiến hành nhiều thủ đoạn, nhiều hướng tấn công theo phương châm đánh “mềm, ngầm, sâu” trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và tác động đến mọi đối tượng bằng con đường kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy yếu nội bộ bên trong nước ta và tiến tới bạo loạn lật đổ chế độ chính trị. Trong đó, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội, với luận điểm kích động: “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Để góp phần nhận diện quan điểm sai trái đó, trong phạm vi bài viết sẽ tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản sau đây:

 

Thứ nhất, nhận diện thực chất quan điểm sai trái, kích động “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địch

Các thế lực thù địch sử dụng đòn đánh “diễn biến hòa bình” để chống phá cách mạng Việt Nam, với mục tiêu là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm chuyển hóa chế độ theo chủ nghĩa tư bản. Các thế lực thù địch xác định tiến hành nhiều thủ đoạn tinh vi, trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo lộ trình 5 hóa, trong đó có “vô hiệu hóa quân đội”. Bởi lẽ, các thế lực thù địch đã đưa ra nhận định rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đang nắm chắc “Quân đội, Công an” nên chưa thể lật đổ được vai trò cầm quyền, lãnh đạo xã hội được. Vì thế, chúng xác định âm mưu cơ bản, lâu dài là thực hiện “vô hiệu hóa quân đội” thì phải theo kịch bản, con đường “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.

Bản chất của âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội là tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trước hết tập trung kích động để Quân đội không còn trung thành với mục tiêu lý tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, góp phần làm biến chất chính trị của đội quân cách mạng. Cho nên, kích động Quân đội không thực hiện mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, là một đòn đánh “ngầm” để thực hiện “mưu đồ sâu” là làm nhạt dần và “phi chính trị hóa” quân đội. Khi đó, Quân đội không còn là lực lượng chính trị tin cậy, tách rời khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ không còn công cụ đắc lực để bảo vệ Đảng nên dễ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 

Thứ hai, nhận diện về mục đích chính trị của quan điểm sai trái cho rằng “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”

Mục đích chính trị phản động của quan điểm sai trái là làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ ảo tưởng, rồi dần dần xa rời mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta, không trung thành với mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Mỗi quân nhân nếu bị ảo tưởng, nhận thức không đúng về mục tiêu lý tưởng của Quân đội  phải phục tùng mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam thì sẽ mất phương hướng chính trị. Theo đó, Quân đội sẽ bị chuyển hóa theo hướng nhạt dần về chính trị, không trung thành với Đảng, không còn mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam và bị biến chất về chính trị. Chúng ta cần nhận diện đúng mục đích chính trị phản động và thâm độc đó, không để Quân đội ta mắc mưu các thế lực thù địch mà “không trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Vì vậy, thường xuyên chăm lo xây dựng Quân đội thực sự là một đội quân cách mạng, là công cụ bạo lực vũ trang, lực lượng chính trị tin cậy và luôn luôn trung thành bảo vệ mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Thứ ba, nhận diện về phương thức tác động của các thế lực thù địch theo kịch bản làm cho “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”

Trước hết, thực hiện thủ đoạn lấy tư tưởng là khâu đột phá gây mơ hồ về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội, với các luận điểm rất đa dạng và biến hóa: “quân đội là trung lập”, “quân đội đứng ngoài chính trị”, “quân đội không cần tham gia chính trị”. Hai là, “phủ nhận bản chất giai cấp công nhân của quân đội”. Ba là, phủ nhận chức năng, nhiệm vụ giai cấp của Quân đội; đề cao “tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội”. Bốn là, sử dụng con đường vòng là kích động truyền bá lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, buông thả, thờ ơ với chính trị để làm suy thoái về đạo đức, lối sống dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị và phai nhạt về mục tiêu lý tưởng trong đội ngũ cán bộ, chiến sĩ. Năm là, sử dụng một số hình thức khác như đưa ra kiến nghị với Đảng, với Quân ủy Trung ương, với Tổng cục Chính trị để sửa đổi một số văn bản, chế độ mà lâu nay đã trở thành nét đẹp trong truyền thống của Quân đội ta. Đã có ý kiến kiến nghị rằng: Lời thề thứ nhất trong mười Lời thề danh dự của quân nhân chỉ cần diễn đạt gọn lại là “Hy sinh tất cả vì Tổ quốc Việt Nam”, nên bỏ ba cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “phấn đấu thực hiện một nước Việt Nam hòa bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” và cụm từ “độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”… Hoặc đưa ra đề xuất rằng trong Quân đội chỉ cần thực hiện “công tác chính trị”, chứ không cần thực hiện “công tác đảng” và “dân sự hóa quân đội” nên không cần xác định Đảng lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” đối với Quân đội…

 

Thứ tưnhận diện về đối tượng tác động và lực lượng tiến hành quan điểm sai trái “Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”

Về đối tượng mà các thế lực thù địch lựa chọn để tác động làm phai nhạt, xa rời mục tiêu: “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Quân đội ta là tập trung vào lực lượng thanh niên quân đội. Bởi lẽ, chúng nhận định rằng đội ngũ cán bộ, sĩ quan cao cấp của Quân đội là những người được trải nghiệm qua thực tiễn nên có bản lĩnh chính trị vững vàng nên khó làm chuyển hóa về chính trị. Trái lại, lực lượng thanh niên quân đội là những thế hệ trẻ nhưng là nguồn kế cận thay thế đội ngũ cán bộ cao cấp trong tương lai, nếu tác động làm phai nhạt lý tưởng chiến đấu ở đối tượng thanh niên quân đội thì dễ chuyển hóa hơn. Đó cũng là con đường, biện pháp thực hiện hiệu quả phương châm “dùng cộng sản con lật đổ cộng sản cha”.

Về sử dụng lực lượng thực hiện thủ đoạn kích động “Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Các thế lực thù địch trong thời gian qua đã kết hợp lực lượng bên ngoài nước với lực lượng bên trong nước để chống phá Quân đội, làm phai nhạt mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta. Chú trọng xây dựng lực lượng cơ hội chính trị, “ngọn cờ cực đoan”; lôi kéo, mua chuộc một số ít cán bộ, sĩ quan, quân nhân bị tha hóa về phẩm chất (có cả cán bộ cấp cao đã nghỉ hưu) và trọng dụng lực lượng tri thức ở hải ngoại viết bài, đưa tin trên các trang mạng, blog, diễn đàn để “phi chính trị hóa” quân đội. Với chiêu trò đưa ra các luận điểm sai trái về khoa học, theo phương châm “đúng sai lẫn lộn”, “đổi trắng thay đen”, “phủ nhận quan điểm mácxít về vai trò, chức năng của quân đội cách mạng” để gây mơ hồ ảo tưởng về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Vì thế, chúng ta phải chủ động tiến công, sử dụng nhiều lực lượng, đa dạng các hình thức, sử dụng hiệu quả hơn nữa các phương tiện vào đấu tranh tư tưởng chính trị, nâng cao căn cứ khoa học để phản bác lại quan điểm sai trái, lấy cái đúng để phủ nhận cái sai và cái phi lý mang tính áp đặt, phản động về chính trị của các thế lực
thù địch…

 

Thứ năm, nhận diện về tác hại của quan điểm sai trái cho rằng “Quân đội không cần thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”

Những trò diễn thông qua con đường tư tưởng chính trị để các thế lực thù địch đưa ra những bài viết tuyên truyền những luận điểm sai trái “trắng đen, đúng sai lẫn lộn”, với các hình thức triệt để lợi dụng phương tiện công nghệ thông tin và các trang mạng xã hội. Theo đó, thu hút được đông đảo các thành phần xã hội quan tâm, trong đó có một bộ phận cán bộ, chiến sĩ. Nếu cán bộ, chiến sĩ quân đội không có bản lĩnh chính trị vững vàng, phân biệt rõ đúng sai mà bị kích động và nhận thức không đúng đắn về sự thống nhất giữa mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam với mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta thì tác hại rất lớn. Tác hại đó không chỉ gây mơ hồ, ảo tưởng về nhận thức tư tưởng chính trị mà nguy hại hơn nữa là sẽ dẫn đến hành động lệch lạc trong thực hiện nhiệm vụ chính trị nói chung và thực hiện các mục tiêu trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay. Nếu cán bộ, chiến sĩ quân đội bị mắc mưu của các thế lực thù địch thì hệ quả là không thực hiện nhiệm vụ bảo vệ toàn diện các mục tiêu, trong đó có mục tiêu bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... Khi mà Quân đội ta không trung thành với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của giai cấp đã tổ chức ra và nuôi dưỡng, để bị mất phương hướng chính trị, sẽ bị lực lượng chính trị khác thao túng để lật đổ vai trò cầm quyền của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

 

Thứ sáu, giải pháp cơ bản để vô hiệu hóa thủ đoạn kích động “Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”

Thường xuyên giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo và kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch hiện nayĐánh giá của Đảng ta về nguy cơ: “Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”[1].Vì thế, chúng ta phải nâng cao cảnh giác để nhận diện và có giải pháp đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” là nhiệm vụ thường xuyên. Với cơ chế và là nguyên tắc lãnh đạo lực lượng vũ trang: “Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng, an ninh”[2]. Bởi vì, có Đảng lãnh đạo mới có đường lối đúng, mới thực hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng. Chúng ta bảo vệ, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng nước ta, đối với lực lượng vũ trang thì còn tất cả và nếu Đảng ta không còn giữ quyền lãnh đạo xã hội thì mất tất cả.

 

Phát huy vai trò chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đối với các cấp ủy đảng trực thuộc, thường xuyên nắm chắc và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch vô hiệu hóa Quân đội ta về chính trị. Các mũi tấn công của các thế lực thù địch để vô hiệu hóa vai trò của Quân đội ta, có cả trực tiếp và gián tiếp và có mức độ ảnh hưởng không ngang bằng nhau. Trong đó, đòn đánh của các thế lực thù địch vào mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội ta là đánh vào cái gốc của chính trị, đây là tiêu chí căn bản để phân biệt khác nhau giữa quân đội cách mạng khác với quân đội tư sản. Để vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch làm biến chất về chính trị Quân đội ta, cần phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, nhiều lực lượng xã hội. Trong đó, phát huy vai trò chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương, Ban Chỉ đạo 35, cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng đối với các cấp ủy đảng trực thuộc, thường xuyên nắm chắc và nhận diện đúng bản chất, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch vô hiệu hóa Quân đội ta về chính trị. Mỗi cấp ủy đảng ở các đơn vị cơ sở phải tăng cường lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh tư tưởng chính trị, chỉ đạo Lực lượng 47 hoạt động có nền nếp và có chất lượng góp phần vô hiệu hóa các quan điểm sai trái trên không gian mạng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng… vô hiệu hóa âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội ta.

 

Nâng cao tính khoa học trong tổ chức hoạt động đấu tranh làm thất bại quan điểm sai trái “Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địch. Về lý luậnphải chỉ rõ quân đội ra đời gắn liền với sự ra đời của nhà nước do yêu cầu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ quân đội nào cũng mang bản chất và phục vụ mục tiêu lý tưởng chiến đấu của giai cấp sinh ra. V.I.Lênin đã phê phán sự che giấu bản chất giai cấp của quân đội mà các học giả tư sản thường tuyên truyền: “Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trên thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”[3]. Công khai bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân và Công an Xô viết là phải đặt dưới sự lãnh đạo, phải thực hiện mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Đảng Bônsêvich Nga (Đảng Cộng sản Liên Xô). Thực tế đã diễn ra là sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười năm 1917, nước Nga đã bị 14 nước đế quốc bao vây nhằm bóp chết chính quyền Xô viết non trẻ. Do chuẩn bị kỹ lưỡng về tư tưởng tổ chức nên đầu năm 1922, V.I.Lênin ký sắc lệnh thành lập Hồng quân Liên Xô để làm lực lượng nòng cốt cho toàn dân tham gia bảo vệ thành quả cách mạng, mục tiêu chính trị của Đảng và của giai cấp vô sản Nga là “Giữ vững độc lập chủ quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa”. Bởi vì: “Kể từ ngày 25 tháng Mười năm 1917, chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc… bảo vệ chủ nghĩa xã hội…”[4].

 

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông”. Và trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”[5]; do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”[6].

Trải qua các giai đoạn xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng minh: Quân đội luôn là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Quân đội thực hiện mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ở Liên Xô, trong thời kỳ Goócbachốp cầm quyền đã không quan tâm giáo dục chính trị và giữ vững mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội, bị mắc mưu các thế lực thù địch “phi chính trị hóa” quân đội nên khi chính biến xảy ra từ ngày 19 đến ngày 21/8/1991, thì quân đội bị mất phương hướng chính trị…

 

Nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, làm thất bại quan điểm sai trái “Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của các thế lực thù địchCác thế lực thù địch sử dụng đòn đánh làm suy yếu Quân đội về chính trị thì ta phải có giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, trực tiếp là giáo dục sâu sắc về mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội. Nội dung giáo dục chính trị nói chung, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của Quân đội nói riêng ở mỗi đơn vị phải phù hợp với mỗi đối tượng quân nhân, bảo đảm những nội hàm của mục tiêu “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong mỗi giai đoạn cụ thể, đặc biệt bám sát tinh thần mà Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra.

 

Mặt khác, cùng với nâng cao chất lượng giáo dục chính trị, phải thực hiện tốt công tác quản lý chính trị nội bộ, ngăn chặn và đập tan các hoạt động chiến tranh tâm lý, tình báo của các thế lực thù địch. Chú trọng công tác dân vận, kết nghĩa với tổ chức chính trị xã hội địa phương, có cơ chế phối hợp hoạt động đấu tranh phản bác, vạch trần các luận điểm sai trái, phản động trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, nhất là âm mưu kích động “phi chính trị hóa” quân đội, “Quân đội không thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”…

 

Quân đội nhân dân Việt Nam luôn luôn là công cụ, là lực lượng chính trị trung thành với mục tiêu lý tưởng “Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, không có một thế lực thù địch nào có thể làm thay đổi bản chất, mục tiêu chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam - một đội quân khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. Trong giai đoạn hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân đội ta mãi mãi xứng danh Bộ đội Cụ Hồ và luôn luôn là lực lượng chính trị tin cậy cùng toàn Đảng, toàn dân thực hiện khát vọng xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, nhân dân hạnh phúc./.

Phê phán luận điểm sai trái của các thế lực thù địch về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

 Trong lịch sử phát triển của các quốc gia, dân tộc trên thế giới, dù là nước lớn hay bé, phát triển hay đang phát triển, đều xây dựng cho mình những chủ thuyết, bao gồm hệ thống các quan điểm, nhận thức, tư tưởng mang tính lý thuyết nhằm định hướng cho sự phát triển của quốc gia. Hệ thống tư tưởng định hướng này được cụ thể hóa thành đường lối, chủ trương, chính sách, sách lược, chiến lược… nhằm hiện thực hóa những mục tiêu phát triển của các quốc gia, dân tộc trong thực tế. Chính nhờ được trang bị hệ thống lý luận khoa học, con tàu cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi đến đài vinh quang, sánh vai cùng bạn bè trên thế giới, đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay…”[1].

 

Trong phạm vi hội thảo, tác giả tập trung phê phán các luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; phủ nhận quan điểm có tính nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; bác bỏ quan điểm của các thế lực thù địch về yêu cầu xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo học thuyết tam quyền phân lập:

 

Thứ nhất, kiên quyết đấu tranh chống các luận điệu, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch phủ nhận thành tựu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Năm 1994, lần đầu tiên quan điểm, chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xác định tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII giữa nhiệm kỳ. Đây là quá trình mở đầu từ đúc kết, kế thừa có chọn lọc và vận dụng sáng tạo tư tưởng Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại và quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, pháp luật kiểu mới vào thực tiễn xây dựng Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm dụng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự thống nhất của Trung ương”[2].

 

Trong quá trình đổi mới và cải cách đó, chúng ta nhận rõ một sự thăng hoa rõ rệt của nhận thức lý luận của Đảng ta trong vấn đề Nhà nước pháp quyền. Chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đưa yêu cầu đó lên thành quy tắc hiến định (Điều 2 Hiến pháp 1992 được sửa đổi năm 2001 và nay tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013) thể hiện sự thừa nhận và sự kết hợp tính phổ biến của một giá trị lịch sử nhân loại với những nét đặc trưng, những giá trị độc đáo của Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đánh giá về thành tựu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”[3]. Những thành tựu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được thực tiễn kiểm nghiệm, hoàn toàn bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cho rằng, nhà nước pháp quyền chỉ có thể thành công ở mô hình tư bản chủ nghĩa, gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

 

Thứ hai, bác bỏ luận điệu sai trái, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đây là nguyên tắc Hiến định mang tính giai cấp sâu sắc, nguyên tắc bảo đảm sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp cách mạng xã hội của nước ta là sự nghiệp cách mạng của toàn dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận hợp thành hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhưng đồng thời là lực lượng lãnh đạo hệ thống đó. Vì vậy, Nhà nước là một thành viên trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa tất yếu phải do Đảng lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức xây dựng. Mọi hoạt động của Nhà nước, cũng như việc tổ chức xây dựng và phát huy vai trò hiệu lực của Nhà nước trong điều hành quản lý xã hội đều phải đặt dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng, ngoài ra không lực lượng nào có quyền nắm và lãnh đạo Nhà nước. Đây là vấn đề thuộc về bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước, đồng thời cũng là một nguyên tắc hiến định, đã được ghi trong Hiến pháp năm 1992 và nay là Điều 4 Hiến pháp năm 2013. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện: Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách, lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, chính sách cụ thể và lãnh đạo tổ chức nhân dân thực thi Hiến pháp, pháp luật, chính sách; lãnh đạo Nhà nước tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức; Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng công tác kiểm tra việc quán triệt, tổ chức thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước làm tham mưu cho Đảng; phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát hoạt động của Nhà nước và bảo vệ Nhà nước.

 

Hiện nay, các thế lực thù địch đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu hòng bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với Nhà nước và xã hội. Chúng lên tiếng cho rằng, ở Việt Nam không có “pháp trị”, chỉ có “đảng trị”. Đây là thủ đoạn nham hiểm của các lực lượng chống đối Đảng Cộng sản lãnh đạo các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu những năm 80 của thế kỷ trước, tiếc rằng có một số người vẫn cổ xúy cho thủ đoạn trên, mà không biết những hậu quả khôn lường đối với đất nước, đối với xã hội, đối với người dân khi vai trò lãnh đạo của Đảng bị đặt ngoài Hiến pháp. Những người có lương tri trên thế giới không thể không nhớ đến sự kiện Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã năm 1991, những người dân chủ cấp tiến hả hê khi vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản bị đặt ngoài Hiến pháp, khi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) bị phá bỏ. Trên đất nước đó, sau những biến cố thăng trầm, chính Tổng thống Nga V. Putin trong cuộc gặp các đảng phái chính trị của Nga tại Điện Kremlin ngày 23/9/2016 cho rằng,Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX, sự kiện Liên Xô sụp đổ không chỉ là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX mà rất có thể là cả trong lịch sử chính trị thế giới, để lại những hậu quả có tính toàn cầu về tư tưởng, văn hóa, chính trị, kinh tế - xã hội và an ninh.

Những ai đó nếu còn phản bác, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong Hiến pháp, trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thiết tưởng cần nhớ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô năm 1977 (sửa đổi, bổ sung năm 1988) quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô đã bị phá vỡ, để lại những hậu quả nặng nề trong không gian hậu Xô viết cho đến ngày nay.

 

Thứ ba, tiếp tục khẳng định nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”; không áp dụng học thuyết tam quyền phân lập trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước

Đặc trưng cơ bản, chung nhất của Nhà nước pháp quyền là quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng trong từng nước khi giải quyết các vấn đề tổ chức quyền lực của nhà nước cũng đều xuất phát từ đặc điểm thực tiễn riêng của mỗi nhà nước khác nhau. Ở một số nhà nước trên thế giới, do xuất phát từ thể chế chính trị, đặc điểm lịch sử hình thành… có tổ chức nhà nước theo nguyên tắc “tam quyền phân lập”, tức là phân lập các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp với những hình thức và mức độ khác nhau. Về bản chất, dưới khoa học chính trị học, đây thực chất là sự phân chia quyền lực giữa các đảng phái. Tuy vậy, trên thực tế cũng chưa có một nước tư bản nào thực hiện đúng nguyên tắc tam quyền phân lập, mà đều áp dụng linh hoạt phù hợp với tình hình của từng nước.

 

Ở nước ta, khi thảo luận vấn đề cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng có ý kiến cho rằng cần phải xây dựng Nhà nước pháp quyền trên cơ sở nguyên tắc tam quyền phân lập dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, Đại hội IX của Đảng đã dứt khoát khẳng định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[4]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”[5]. Như vậy, điểm khác nhau cơ bản trong tổ chức quyền lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các nước tư sản, là: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không tổ chức theo nguyên tắc tam quyền phân lập mà tổ chức quyền lực theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất”, không thể “phân quyền” theo lối phân chia, cắt khúc, đối chọi lẫn nhau giữa các quyền, mà chỉ có sự phân công trên cơ sở thống nhất và tập trung quyền lực cao nhất ở Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

 

Các quan điểm chủ đạo của Đảng ta về xây dựng mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gắn chặt với sắc thái truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, cùng với các giá trị dân chủ, nhân đạo, nhân văn, nhân ái của nhân loại. Mô hình Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng phù hợp với các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc vận dụng một cách sáng tạo và có chọn lọc những kinh nghiệm khác nhau của các dân tộc về cách thức tổ chức Nhà nước pháp quyền, ưu tiên những giá trị có tính phổ biến, kết hợp hài hoà với các giá trị truyền thống, những đặc điểm phát triển và lịch sử phát triển đất nước. Mọi yêu cầu, đòi hỏi hay đề nghị, kiến nghị Việt Nam phải “tam quyền phân lập” chỉ là thủ đoạn, âm mưu phá hoại, biến đất nước thành nơi hoang tàn, đổ nát.

 

Bên cạnh đó, cũng cần phải nói, không phải chỉ tổ chức bộ máy nhà nước theo “tam quyền phân lập” mới kiểm soát được quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là vấn đề vô cùng quan trọng, nhưng cũng rất phức tạp. Việc nắm giữ, tổ chức và sử dụng quyền lực nhà nước có hiệu quả sẽ là điều kiện để thực hiện được những mục đích đã đề ra, mang lại hạnh phúc và nhiều lợi ích nhất cho nhân dân, đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình nắm giữ, tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thường tiềm ẩn rất nhiều những nguy cơ khác nhau như tham nhũng, lãng phí, lạm quyền… Vì vậy, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhiệm vụ cấp bách, quan trọng trong quản lý nhà nước trên thế giới nói chung, ở nước ta nói riêng, đây cũng chính là ước vọng hàng nghìn năm của nhân loại tiến bộ. Ở nước ta, thuật ngữ “kiểm soát” lần đầu tiên được hiện diện trong văn kiện của Đảng và thể chế hóa quan điểm đó, tại Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

 

Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta không cần phải áp dụng cơ chế tam quyền phân lập, bởi các nhánh quyền lực của nhà nước ta không phải “nhánh quyền lực của phe nhóm này chống lại phe nhóm kia, vốn là gốc rễ của cơ chế tam quyền phân lập”.

 

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII xác định “là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”. Chúng ta tin tưởng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo - chính đảng được trang bị hệ thống lý luận sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên quyết bác bỏ những luận điệu xuyên tạc phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phủ nhận nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013, văn bản có giá trị pháp lý cao nhất của Nhà nước ta./.

Dâng hiến, hy sinh - giá trị nổi bật làm nên vẻ đẹp nhân văn Hồ Chí Minh

 

Nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh thấm sâu trong cuộc đời, lối sống, nhân cách của Người, nổi bật là sự giản dị, đức hy sinh, hy sinh cả cuộc sống riêng tư để lo cho hạnh phúc của toàn dân tộc, của nhân dân. Trả lời nhà báo Cuba là nữ đồng chí Mácta Rôhát, vào lúc cuối đời, Người nói “Tôi hiến đời tôi cho dân tộc tôi”. Người đã thực hiện điều cao cả, thiêng liêng ấy trong suốt cuộc đời. “Miền Nam luôn luôn ở trong trái tim tôi”, vì miền Nam chưa được giải phóng mà Người không một bữa ăn ngon, không một giấc ngủ yên. Mỗi chiến sĩ hy sinh, mỗi người phải đổ máu là Người như đứt từng khúc ruột. Người không có gia đình riêng, không có vợ con, không có tài sản riêng, một đời tiết kiệm đến mức khắc khổ để nêu gương và để lo cho dân. Nam nữ thanh niên nước ta là con cháu của Người. Các bậc phụ lão là bạn bè thân thiết của Người. Phụ nữ nước ta là chị em của Người. Đó là lời nói chân thật tự trái tim Người. Chất nhân văn từ tư tưởng đến hành động của Hồ Chí Minh là một mẫu mực của văn hóa làm người và ở đời, một hình mẫu toàn vẹn, trọn vẹn của sự dấn thân, hy sinh, hóa thân vào dân vào nước.

Qua cuộc đời Hồ Chí Minh, một CON NGƯỜI viết hoa (như lời đại văn hào Nga M.Gorky) chân-thiện-mỹ đã hiện ra, bằng xương bằng thịt, giản dị mà vĩ đại, là sự sống, niềm tin, là tình yêu và hy vọng, là khát vọng mà cũng là hiện thực của con người trong cuộc đời này. Đó là một đời dấn thân tranh đấu và dâng hiến cho dân, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Nhân văn Hồ Chí Minh biểu hiện ra vô cùng xúc động, có sức lay động tâm can muôn triệu người, có sức tỏa sáng muôn triệu tâm hồn người, khi ta nhắc lại những lời Người nói tự trái tim với đồng bào, đồng chí, bạn bè xung quanh Người.

Ấy là lời cảm tạ đồng bào chúc thọ Người dịp sinh nhật. Người nói “Từ trước đến giờ tôi đã là người của đồng bào thì từ giờ về sau và mãi mãi tôi vẫn thuộc về đồng bào”.

Ấy là tâm sự từ nỗi lòng Người với đồng bào cả nước, với miền Nam đi trước về sau: “Mỗi người, mỗi gia đình có một nỗi đau khổ riêng. Gộp tất cả nỗi khổ đau đó lại là nỗi khổ đau của bản thân tôi”.

Ấy là Người trả lời nhà báo nước ngoài về mối liên hệ giữa Người với nhân dân: “Hồ Chí Minh là một phần không tách rời của nhân dân ông. Ông suy nghĩ những gì mà nhân dân ông nghĩ. Ông hành động những gì mà nhân dân của ông hành động”.

Như vậy, lịch sử là sự thật và sự thật là lịch sử. Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam mãi mãi tự hào và biết ơn Hồ Chí Minh. Tư tưởng và di sản Hồ Chí Minh kết tinh trong các bảo vật quốc gia - 5 tác phẩm để đời của Người là hành trang của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế, vững bước trên con đường lớn của lịch sử đi tới tương lai tươi sáng-đường Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là quốc bảo mà còn là pháp bảo của chúng ta.

Đúng như nữ Giáo sư Sử học Mỹ, bà Josephine Stenson đã nói: “Hồ Chí Minh một nhân cách lớn của thời đại”. Sự thật ấy trở thành giá trị thiêng liêng, là động lực mãnh liệt để chúng ta tin tưởng và hành động cho xứng đáng với Hồ Chí Minh, với dân tộc và nhân loại.

Những giá trị khoa học, cách mạng, nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm chứng, kiểm nghiệm qua thời gian như ngọc càng mài càng sáng.

Thế nên, những kẻ xuyên tạc hòng làm lu mờ ánh sáng, nguồn sáng Hồ Chí Minh chỉ càng lộ nguyên hình tâm địa đen tối, mờ ám trước ánh sáng của sự thật, chân lý và đạo lý mà Hồ Chí Minh luôn luôn là biểu tượng rực rỡ. Những sự xuyên tạc thâm độc và bỉ ổi mà các thế lực phản động, chống đối Việt Nam nhằm vào Hồ Chí Minh không bao giờ có thể lung lạc được niềm tin và tình yêu sâu sắc của một trăm triệu trái tim Việt đối với Hồ Chí Minh-hình ảnh, tinh hoa và khí phách của dân tộc Việt Nam.

HAIVAN

Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú lý luận Mác-Lê nin

 

Một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc khác mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn lèo lái dư luận rằng “Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với phương Tây còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam”; “bây giờ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin”(!).

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin là hoàn toàn sai trái, vô căn cứ, xuyên tạc lịch sử và logic vận động cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản thống nhất với nhau về mục tiêu, lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bản thân các nhà kinh điển mác-xít không đưa ra một khuôn mẫu cứng nhắc cho việc tiến hành cuộc cách mạng vô sản mà chỉ nêu ra những nguyên lý cơ bản, nên việc vận dụng những nguyên lý đó như thế nào, thành công đến đâu phụ thuộc vào tài năng của lãnh tụ phong trào cách mạng.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công những nguyên lý đó để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới, qua đó khẳng định và củng cố tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

HAIVAN

BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

 

Hơn ai hết và trước hết, Hồ Chí Minh chính là người cộng sản chân chính. Chính Người cũng đã góp phần bổ sung, phát triển, làm phong phú hơn quan điểm về dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng những nội hàm mới. Do đó, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng của Đảng ta.

Trên hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa triệt để tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vận dụng sáng tạo, bổ sung và làm phong phú thêm học thuyết Mác - Lênin “bằng dân tộc học phương Đông”. Từ trong bản chất của sự phát triển, tất cả các học thuyết chính trị nói chung mà học thuyết Mác - Lênin nói riêng đều rất cần đến sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chính bản thân Hồ Chí Minh là người đã chứng kiến sự vận động không ngừng của cách mạng thế giới những năm đầu thế kỷ XX nên Người đã bổ sung vấn đề dân tộc thuộc địa - điều mà V.I.Lênin, đặc biệt là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hoặc chưa có điều kiện đề cập một cách sâu sắc.

Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Và “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. Việc bổ sung vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông - nơi mà có nhiều nước bị lệ thuộc và trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương Tây đã làm cho vấn đề dân tộc trở nên phong phú hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Đó là biểu hiện rõ ràng của tinh thần dân tộc vô sản, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và lệ thuộc.

Tháng 7/1920, sau gần 10 năm bôn ba tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp bản “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin. Những tư tưởng về dân tộc, thuộc địa của V.I.Lênin như một ngọn đuốc soi đường cho Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Điều đó giúp cho Nguyễn Ái Quốc ngày càng mạnh dạn nói lên tiếng nói của mình tại các diễn đàn quan trọng để lên tiếng ủng hộ phong trào cách mạng ở các dân tộc thuộc địa.

Khi vận dụng nội dung Luận cương của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng ở thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: “Cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân các nước tư bản trực tiếp giúp cho các dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình, vì cuộc đấu tranh đó đánh thẳng vào trái tim của bọn áp bức;... Trong khi đó, cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa lại trực tiếp giúp đỡ giai cấp vô sản các nước tư bản trong cuộc đấu tranh chống các giai cấp thống trị để tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa tư bản. Sự nhất trí của cuộc đấu tranh chống đế quốc bảo đảm thắng lợi cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa và cho giai cấp vô sản ở các nước tư bản”. Đó là cơ sở để cách mạng vô sản ở các dân tộc thuộc địa có tính độc lập, chủ động không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, nó có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Đánh giá về sự bổ sung, vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc, đồng chí Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Luận điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,... Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.

Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, cách mạng vô sản và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ, con đường này chẳng những giải phóng hoàn toàn dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa đế quốc, mà còn giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi sự áp bức bóc lột, đi đến ấm no, hạnh phúc thực sự. Sự lựa chọn này vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nhân loại và thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã được mở ra, bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Với quan điểm độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, “Hồ Chí Minh là người tiên phong trong việc củng cố và bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin”./.

HAIVAN

CHỦ NGHĨA DÂN TỘC CHÂN CHÍNH TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

 

Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa dân tộc - thứ chủ nghĩa dân tộc sô-vanh nước lớn, bành trướng hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, vị kỷ như các thế lực thù địch thường rêu rao, quy chụp. Có chăng, Hồ Chí Minh chính là người theo chủ nghĩa dân tộc vô sản, không chỉ suốt đời đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn vì sự nghiệp cách mạng chung của các dân tộc bị áp bức, lệ thuộc trên thế giới.

Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc chân chính, mang bản chất của giai cấp vô sản. Từ năm 1924 , trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, tại mục D “Chủ nghĩa dân tộc”, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đề cập và khẳng định vai trò của chủ nghĩa dân tộc chân chính: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người cu li biết phản đối; nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917…”. Đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính vì nó khơi dậy lòng yêu nước, trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc và trở thành động lực để các tầng lớp nhân nhân đứng lên đấu tranh chống lại những áp bức, bất công. Đây cũng chính là động lực to lớn để chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc lên tiếng đấu tranh ở nhiều diễn đàn quốc tế khác nhau nhằm đòi quyền lợi chính đáng cho dân tộc Việt Nam.

Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” đăng trên Báo Nhân dân (ngày 22/4/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định một sự thật không thể xuyên tạc được, đó là: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái “cẩm nang” đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Lập luận trên của Hồ Chí Minh vừa cho thấy hành trình Người đến với chủ nghĩa Lênin, vừa khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó, luận điệu cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn sai lầm, quy chụp.

Không chỉ vậy, bản thân Hồ Chí Minh cũng là người luôn đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mát-xcơ-va họp từ ngày 14 đến 16/11/957, không ai khác và hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tư sản. Vì vậy, Người đã tán thành bản Tuyên bố chung của Hội nghị và nhấn mạnh thêm: “Bản Tuyên bố nhắc nhở chúng ta cần phải tăng cường giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại”. Do đó, những kẻ cơ hội cố tình bóp méo, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm “hạ bệ thần tượng”, chia rẽ phá vỡ từng bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Khi cho rằng “Hồ Chí Minh thực chất là người dân tộc chủ nghĩa” là một cách diễn đạt thiếu chính xác, không đầy đủ. Cách diễn đạt này dù vô tình hay hữu ý đã bỏ qua tính giai cấp, làm mờ đi lập trường, quan điểm giai cấp của Hồ Chí Minh trong nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Với cách diễn đạt ấy đã tước bỏ tính đảng và lập trường cách mạng chân chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất là để phủ nhận tư tưởng của Người. Đúng như V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “Chừng nào người ta chưa phân biệt được lợi ích của các giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”. Do đó, chúng ta cần phải tỉnh táo trước những luận điệu cố tình bóp méo, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh hay tinh vi hơn là lấy danh nghĩa đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp chủ nghĩa Mác - Lênin để đối lập, tách dời từng mảng trong nền tảng tư tưởng của Đảng.

HAIVAN

“CHỦ NGHĨA DÂN TỘC” VÀ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, “Chủ nghĩa dân tộc là tâm lý, hệ tư tưởng, thế giới quan và chính sách thích những dân tộc này hơn những dân tộc khác, tán dương dân tộc mình, gây căm thù dân tộc và thù hằn chủng tộc”. Theo đó, chủ nghĩa dân tộc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chủ nghĩa sô-vanh nước lớn có tâm lý coi thường các dân tộc khác, tự cho mình quyền “khai hóa văn minh” cho các dân tộc nhỏ hơn hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, có khuynh hướng khép kín, không muốn mở rộng quan hệ với các dân tộc khác. Cả hai khung hướng này của chủ nghĩa dân tộc đều xa lạ với bản chất của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. Do đó, về bản chất, chủ nghĩa dân tộc là thù địch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, với thế giới quan mácxít và mâu thuẫn với quá trình khách quan của sự phát triển. Đó là sự xích lại gần nhau của các dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Là lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, V.I.Lênin luôn phê phán những người cộng sản có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. V.I.Lênin chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh chống những thành kiến dân tộc chủ nghĩa càng có ý nghĩa trọng đại khi vấn đề chuyển nền chuyên chính vô sản từ phạm vi quốc gia (tức là mới tồn tại ở trong một nước và không có khả năng quyết định được chính trị thế giới) thành chuyên chính vô sản trên quy mô quốc tế (tức là chuyên chính vô sản ít nhất cũng ở một số nước tiên tiến và có khả năng tác động quyết định đến toàn bộ chính trị thế giới), ngày càng trở nên bức thiết”. Quan điểm của V.I.Lênin đã cho thấy, những người theo chủ nghĩa cộng sản chân chính không thể có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

Thế nhưng gần đây, các thế lực thù địch lại rêu rao rằng “thực chất Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa”. Họ cho rằng “chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”; từ đó, quy chụp Hồ Chí Minh “là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản”. Thậm chí, có những kẻ cơ hội chính trị còn cố tình quy chụp rằng trong bộ 15 tập Hồ Chí Minh có 17 lần nhắc đến cụm từ “chủ nghĩa dân tộc” nên cáo buộc rằng “Hồ Chí Minh đích thị là người theo chủ nghĩa dân tộc”!

Từ sự cáo buộc đó, một số phần tử phản động, cơ hội chính trị còn lên tiếng đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ cho rằng “bây giờ chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam hay “Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh”. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin!”. Thực chất của luận điệu này là nhằm chia rẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, phá vỡ phá vỡ từng bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng, gây ra sự xáo trộn trong ý thức hệ của nhân dân.

HAIVAN

Việt Nam luôn quan tâm đến nhu cầu của Giáo hội Công giáo

 

Mới đây, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh đã tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng, Đức ông Miroslaw Wachowski nhân dịp sang Việt Nam tham dự và đồng chủ trì cuộc họp vòng IX Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam – Tòa thánh Va-ti-căng.

Chuyến thăm này đã thể hiện những bước phát triển tích cực của quan hệ Việt Nam và Va-ti-căng, đồng thời tăng cường và đáp ứng lợi ích chung của hai bên cũng như lợi ích của Cộng đồng Công giáo Việt Nam.

Trước đó, Giáo hoàng Francis đã quyết định hỗ trợ 100.000 ơ-rô dành cho Cộng đồng Công giáo tại Việt Nam trong thời điểm dịch bệnh diễn biến phức tạp (vào tháng 8-2021) và đánh giá cao sự hỗ trợ của Giáo hội Công giáo Việt Nam cho “Quỹ vắc-xin” và sự tham gia tuyến đầu chống dịch của các linh mục, tu sỹ, giáo dân trong công tác phòng, chống dịch COVID-19.

Tại cuộc trao đổi, Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh đề nghị Tòa thánh tiếp tục quan tâm, hướng dẫn Cộng đồng Công giáo Việt Nam gắn bó, đồng hành cùng dân tộc, tôn trọng luật pháp, góp phần nâng cao hình ảnh tốt đẹp của Công giáo tại Việt Nam và thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Va-ti-căng phát triển.

Cùng ngày, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hà Kim Ngọc và Thứ trưởng Miroslaw Wachowski đã đồng chủ trì cuộc họp vòng IX Nhóm Công tác hỗn hợp Việt Nam – Tòa thánh Va-ti-căng.

Thứ trưởng Hà Kim Ngọc khẳng định, chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân và các cấp chính quyền Việt Nam luôn quan tâm đến nhu cầu của Giáo hội Công giáo, tạo điều kiện cho cộng đồng Công giáo Việt Nam hoạt động và phát triển.

Điều này được Thứ trưởng Ngoại giao Tòa thánh Va-ti-căng Miroslaw Wachowski đánh giá cao và bày tỏ sự vui mừng khi Chính phủ Việt Nam luôn quan tâm và tạo thuận lợi cho việc thực hành tôn giáo, tổ chức các sự kiện tôn giáo của cộng đồng Giáo hội Công giáo Việt Nam.

Tại đây, hai bên nhất trí quan hệ Việt Nam – Toà thánh hiện đang phát triển tích cực và hoan nghênh việc duy trì hiệu quả, linh hoạt các cơ chế trao đổi, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch COVID-19, cũng như vai trò của Đặc phái viên không thường trú Va-ti-căng tại Việt Nam nhằm góp phần tăng cường hiểu biết lẫn nhau và tạo điều kiện thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Tòa thánh.

HAIVAN

Chung tay xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

 

Từ đường hướng “Sống phúc âm giữa lòng dân tộc để phục vụ hạnh phúc của đồng bào” của Hội đồng Giám mục Việt Nam năm 1980 và Huấn từ của Đức Giáo hoàng Benedict XVI: “Người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”, người Công giáo đã chủ động tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Trung ương Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam phát động. Với nội dung thiết thực, nhất là lĩnh vực từ thiện xã hội và xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, phong trào thi đua yêu nước đã góp phần tích cực vào chăm lo đời sống an sinh, phát triển kinh tế, kiến thiết hạ tầng…

Linh mục Trần Xuân Mạnh, Chủ tịch Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam từng khẳng định, hướng thiện là giá trị đạo đức rất bền vững của các tôn giáo nói chung, Công giáo nói riêng. Trải qua các thời kỳ của đất nước, qua nhiều thay đổi của hoàn cảnh xã hội, giá trị ấy vẫn tiếp tục được nhân lên trên mỗi bước đi của dân tộc Việt Nam. Với số lượng tín đồ đông thứ hai so với các tôn giáo khác tại nước ta, hoạt động từ thiện của các tổ chức Công giáo xuất phát từ cái tâm thực sự đã thu hút được nguồn lực lớn để đóng góp cho xã hội qua các hoạt động an sinh.

Đặc biệt, trong thời điểm dịch COVID-19 ở nước ta diễn biến rất phức tạp, các tu sĩ, chức việc và giáo dân đã phát huy những giá trị đạo đức, văn hóa tốt đẹp của đạo Công giáo, vượt qua hiểm nguy, cùng lực lượng y tế và các chiến sĩ tham gia nơi tuyến đầu phòng, chống dịch, đặc biệt là chăm sóc bệnh nhân COVID-19. Bên cạnh đó, đồng bào Công giáo đã chung tay ủng hộ hàng chục tỷ đồng để phòng, chống dịch. Những chuyến hàng cứu trợ từ các giáo xứ trên khắp miền đất nước đã đến với người dân vùng phong tỏa tại TP.Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai...

Thời gian qua, giáo dân có nhiều cách làm hay để tạo cảnh quan xanh, sạch, đẹp, thân thiện môi trường, tiêu biểu như việc giáo dân thuộc giáo xứ Kiên Lao (Xuân Trường, Nam Định) đã chế tạo thành công lò đốt rác vận hành theo cơ chế tự sinh nhiệt (không cần dùng xăng dầu hay điện để đốt rác), đang được ứng dụng rộng rãi tại nhiều vùng quê.

Trong chuyến thăm, chúc mừng lễ Thiên Chúa Giáng sinh 2021 tại Tòa Tổng Giám mục Hà Nội, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh, theo dòng lịch sử, đồng bào Công giáo luôn đồng hành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; sống tốt đời, đẹp đạo. Các giáo phận, giáo xứ, dòng tu Công giáo tổ chức nhiều hoạt động từ thiện, bác ái; đặc biệt là chung tay cùng các lực lượng trong phòng, chống dịch COVID-19, mang lại những tình cảm ấm áp, hình ảnh tốt đẹp trong lòng nhân dân.

HAIVAN

Giải pháp nêu cao tính tích cực, tự giác, tinh thần gương mẫu của cán bộ đảng viên trong phấn đấu tự tu dưỡng, rèn luyện để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”


Đây là biện pháp tự thân rất quan trọng, quyết định trực tiếp kết quả phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong chính đội ngũ cán bộ đảng viên. Lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải quán triệt đầy đủ các quan điểm, nghị quyết, nhiệm vụ, kế hoạch và triển khai hướng dẫn, tổ chức thực hiện nghiêm túc cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trong tự phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện và đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Cán bộ đảng viên nhận thức phải đúng đắn, có thái độ, động cơ và trách nhiệm cao trong tự tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Muốn có nhiều cán bộ, Đảng phải giúp đỡ cho cán bộ tự học tập. Đảng đã giúp, cán bộ phải chịu khó học tập". Cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng là học tập, rèn luyện là công việc suốt đời, đây vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ bắt buộc và phải được quy định thành chế độ, nền nếp. Trong giai đoạn cách mạng mới, tự học tập, tu dưỡng rèn luyện phải trở thành nhu cầu trực tiếp, thói quen, hành vi hàng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên; cán bộ, đảng viên nào lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận, cập nhật những thông tin mới, những tri thức mới cũng là một biểu hiện của sự suy thoái. Trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm, nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, nhiệm vụ của cấp trên và đơn vị, mỗi cán bộ đảng viên chủ động tự xây dựng kế hoạch tu dưỡng, phấn đấu rèn luyện bản thân. Kế hoạch tu dưỡng, phấn đấu của cá nhân phải gắn với mục tiêu, nội dung các cuộc vận động, sinh hoạt chính trị, phong trào thi đua của cơ quan, đơn vị, chức trách, nhiệm vụ cá nhân được phân công, lấy kết quả phấn đấu, tu dưỡng rèn luyện các mặt, mức độ hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo, tiêu chí đánh giá chất lượng cán bộ đảng viên hàng năm, có như vậy hiệu quả hoạt động phòng, chống "tự diễn biến", "tực chuyển hóa" của cán bộ đảng viên cơ quan, đơn vị mới thật sự đem lại kết quả thiết thực trong thực tiễn.

 

 

Giải pháp nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình nhằm phòng ngừa, khắc phục những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" trong cán bộ đảng viên


Đây là giải pháp quan trọng tạo cơ sở, điều kiện cơ bản cho phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" trong cán bộ đảng viên. Hoạt động tự phê bình và phê bình trong Đảng nói chung, mỗi cán bộ đảng viên nói riêng là hoạt động khoa học về xây dựng tổ chức và con người. Nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình trong từng tổ chức, mỗi cán bộ đảng viên trước hết phải nâng cao trình độ hiểu biết, nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:“Đảng không che dấu khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm của mình mà tự sửa chữa để tiến bộ, và để dạy bảo cán bộ và đảng viên”3. Bồi dưỡng, giáo dục quan điểm của Đảng về vai trò, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình, quy luật phát triển của Đảng cho mỗi cán bộ đảng viên, để xây dựng động cơ, thái độ đúng, trách nhiệm chính trị cao của cán bộ đảng viên trong tự phê bình và phê bình, trang bị cho họ về bản lĩnh, phương pháp khéo léo, mềm dẻo, tính nguyên tắc trong tự phê bình và phê bình. Hiểu rõ tự phê bình và phê bình là giúp người có thành tích được tập thể đánh giá chính xác, người có hạn chế, khuyết điểm cũng được mọi người góp ý, để tự sửa và hoàn thiện mình đáp ứng tốt nhiệm vụ, theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh mục đích là cốt lợi cho công việc. Hiện nay trình độ cán bộ đảng viên có sự phát triển cao hơn, đa số có hiểu biết tri thức khoa học, được rèn luyện thực tiễn, có lòng tự trọng cao, nên tự phê bình và phê bình cũng cần kết hợp nhiều hình thức, phương pháp, tuỳ theo mức độ những hạn chế, khuyết điểm, tính khí riêng của mỗi cán bộ đảng viên mà chủ động gặp riêng nhắc nhở, góp ý, không nhất thiết phải đưa ra trước tập thể, đó cũng là phương pháp tự phê bình và phê bình mà hiệu quả đôi khi rất lớn. Thực hành dân chủ kịp thời, chính xác là một trong những đặc tính căn bản của tự phê bình và phê bình, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ được xem là phương pháp tốt để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình đối với cán bộ đảng viên, trong đó trước hết là thông tin về đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, nhất là các quan điểm mới. Những thông tin xoay quanh tình hình, nhiệm vụ của quân đội, đơn vị, những vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của cá nhân, tập thể nhằm thống nhất nhận thức, định hướng tư tưởng, hướng dẫn hành động đúng cho cán bộ đảng viên. Ngoài ra, cần duy trì thực hiện thường xuyên, nền nếp, chế độ tự phê bình và phê bình trong hệ thống tổ chức đảng theo đúng Điều lệ Đảng, các văn bản nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên, nhất là quy định của Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 (Khoá XI) đã đề ra.

 

 


Giải pháp phát huy vai trò của cán bộ chủ trì các cấp đối với việc phòng, chống “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa" trong cán bộ đảng viên


 Cán bộ chủ trì các cấp là người chịu trách nhiệm chính về quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ đảng viên theo phạm vi chức năng, quyền hạn quy định, có vai trò quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cho cán bộ đảng viên. Để phát huy vai trò cán bộ chủ trì, trước hết phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm đội ngũ cán bộ chủ trì. Cán bộ chủ trì là chỉ huy và chính ủy (CTV), những người được giao quyền hạn, trách nhiệm cao nhất ở cơ quan, đơn vị, phải nhận thức rõ tầm quan trọng của phòng, chống “tự diễn biến”, tự chuyển hóa”, vai trò trách nhiệm của cá nhân đối với cơ quan, đơn vị. Cán bộ chủ trì phải nắm chắc những biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Nghị quyết Trung ương xác định, không chủ quan về nhận thức, thấy đây là nguy cơ có thể xảy ra trong mỗi con người và tổ chức cơ quan, đơn vị, đặc biệt là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biết dự báo đối tượng thường dễ mắc để xác định đúng mục tiêu, nội dung, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại cơ quan, đơn vị mình phụ trách.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


Giải pháp về nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp đối với việc phòng, chống “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa" trong cán bộ đảng viên


Đây là vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa"  trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Hiện nay “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề đang hiện hữu, có xu hướng gia tăng và diễn biến rất phức tạp, khó nhận diện, khó chỉ đích danh. Tuy nhiên, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nhiều cấp độ trong nhận thức và hành động, diễn ra từ thấp đến cao, làm cho người cán bộ đảng viên trượt dài từ lập trường cách mạng, sang phản cách mạng, phản động, phản bội lý tưởng cách mạng. Vì vậy, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp nhất thiết phải nhận thức rõ những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cùng sự biến tướng, tác hại của nó trong thực tiễn hiện nay.

Quán triệt, thực hiện Nghị quyết Trung ương về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Đảng ta tập trung vào ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất trong công tác xây dựng Đảng. Đảng xác định tiến hành bằng tổng hợp các biện pháp phòng ngừa, triệt tiêu các nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngăn ngừa và chống lại quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ. Việc ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của đội ngũ là công việc trong nội bộ, không thể sử dụng biện pháp hành chính (tiêu diệt) đơn thuần, mà phải khéo phân loại, bằng nhiều biện pháp khoa học của công tác xây dựng Đảng, của công tác chính trị như: làm tốt việc tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, dựa vào hệ thống các nguyên tắc, quy định để điều chỉnh thái độ, hành vi của mỗi người và tổ chức, và xác định đây là một quá trình đấu tranh lâu dài, phức tạp, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí, đòi làm xong ngay trong một sớm, một chiều; trái lại phải làm kiên quyết, kiên trì, tích cực, thường xuyên, lâu dài với quyết tâm chính trị rất cao, có phương pháp khoa học, phù hợp tình hình thực tiễn, điều kiện mỗi tổ chức, đơn vị và con người cán bộ đảng viên cụ thể.

Vấn đề mấu chốt cần nhận thức rõ tiến hành công việc này là trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp, các cơ quan và trách nhiệm chính trị của mọi cán bộ đảng viên, trong đó cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy phải chịu trách nhiệm cao nhất, vừa lãnh đạo, tổ chức và trực tiếp thực hiện bằng các nội dung, biện pháp thiết thực phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", xây dựng tổ chức, đội ngũ cán bộ đảng viên cơ quan, đơn vị vững mạnh, đồng thời phải chịu trách nhiệm trước cấp trên theo phạm vi, chức năng, quyền hạn được giao về hiện trạng "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" cơ quan, đơn vị mình, lấy kết quả phòng, chống làm thước đo đánh giá, phân loại chất lượng tổ chức đảng và đảng viên, được như vậy thì việc phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" sẽ đề cao trách nhiệm và kết quả đạt được sẽ cao hơn. Ngoài ra, trong lãnh đạo cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần phân công cụ thể cấp ủy viên phụ trách về phòng, chống "diễn biến hòa bình" gắn với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tại cơ quan, đơn vị. Đồng chí cấp ủy viên phụ trách công tác này phải thường xuyên nắm chắc tình hình, tham mưu, đề xuất với tập thể cấp ủy, chỉ huy về chủ chương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện và trực tiếp theo dõi, kiểm ra, đôn đốc, tổ chức tiến hành phòng, chống, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ đảng viên cơ quan, đơn vị. Định kỳ trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình hoặc sơ kết, tổng kết, cần đánh giá xem xét nghiêm túc trách nhiệm trong xác định chủ trương, biện pháp, kết quả lãnh đạo, chỉ đạo, thực trạng phòng, chống "diễn biến hòa bình" và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với cấp ủy, chỉ huy và cá nhân cấp ủy viên phụ trách, thực trạng đơn vị. Qua đó rút kinh nghiệm, bổ sung nội dung, biện pháp, uốn nắn, khắc phục những lệch lạc, nâng cao trách nhiệm hơn nữa của các chủ thể trong tiến hành phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thiết thực hiệu quả.

 

 

 

 


 


Hiểu về một số khái niệm về “Tự diễn biến” “tự chuyển hóa” để phòng, chống hiệu quả trong thực tiễn


Theo Đại từ điển Tiếng Việt “diễn biến” chính là “diễn ra sự biến đổi”, do vậy “tự diễn biến” là quá trình bản thân chủ thể là cá nhân hay tổ chức đang diễn ra sự tự biến đổi; xu hướng của tự biến đổi đó dẫn chủ thể đến ngày càng khác biệt với chính bản thân lúc đầu. Còn“chuyển hóa” chính là “biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác”, do đó “tự chuyển hóa” là quá trình bản thân chủ thể cá nhân hay tổ chức…tự chuyển hóa sang dạng hoặc hình thái khác so với lúc ban đầu.

Về“diễn biến hòa bình” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Đại hội Đảng lần thứ XII chỉ ra là một trong bốn nguy cơ vẫn còn tồn tại “Nguy cơ“diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức”1. Nghị quyết số 28 - NQ/TW Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI về "Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới" Đảng ta nhận định “Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có xu hướng công khai và ngày càng nghiêm trọng hơn”.

Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch cho thấy có mối quan hệ chặt chẽ với “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ, trong đó “diễn biến hòa bình” là yếu tố khách quan, tác động từ ngoài vào, mục tiêu là tạo ra sự suy thoái, tha hóa, biến chất của con người và tổ chức, làm cho “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nhân tố chủ quan bên trong, mà chủ thể là các tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Nếu chủ thể có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, không giao động về tư tưởng chính trị, không suy thoái, tha hóa về đạo đức, lối sống thì không thể dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và như vậy “diễn biến hòa bình” không đạt được mục đích, sẽ thất bại. Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, không giao động của chủ thể, là yếu tố quyết định nhất đến thắng lợi của đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù. Vì vậy, phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; theo Nghị quyết Trung ương lần thứ tư Khóa XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng thực chất là nhằm ngăn ngừa, khắc phục, triệt tiêu sự suy thoái, tha hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên của Đảng. Đồng thời Đảng ta đẩy mạnh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả, là nhân tố quyết định thắng lợi cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ở nước ta.

Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã xác định rõ mục tiêu là: đẩy mạnh xây dựng, chinhr đốn Đảng và hệ thống chính trị nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước; đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; kết hợp chặt chẽ hài hòa giữa xây và chống, xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài, chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, thường xuyên. Tạo bước phát triển mới của Đảng về trí tuệ, bản lĩnh chính trị, thực sự là đạo đức, là văn minh, ngày càng gắn bó mật thiết với nhân dân, ngày càng được nhân dân tin tưởng, đủ uy tín, năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.