Thứ Năm, 4 tháng 8, 2022

HAI CHỮ "HY SINH" KHÓ NÓI ĐẾN NHƯ VẬY SAO?


Chiều 01/08, giữa cơn mưa rào chiều Hà Nội là một đám cháy tại Quan Hoa, điều đáng buồn có 3 chiến sĩ cảnh sát Phòng cháy chữa cháy hy sinh khi làm nhiệm vụ.


Ba đồng chí đã không may hy sinh khi làm nhiệm vụ. Đó là đồng chí Đặng Anh Quân - Đội trưởng đội PCCC, đồng chí Đỗ Đức Việt, cán bộ PCCC và đồng chí Nguyễn Đình Phúc CSNV. Đó là mất mát to lớn với gia đình, đất nước và nhân dân.


Vậy mà một số tờ báo như tờ Zing giật tiêu đề vô lương tâm: "3 cảnh sát thiệt mạng khi chữa cháy quán karaoke tại Hà Nội". Tờ Nông Nghiệp Việt Nam, cũng không ghi hai chữ "hy sinh" mà dùng từ "thiệt mạng", cụ thể tiêu đề là: “Cứu quán karaoke, 3 cảnh sát thiệt mạng”. Mặc dù sau đó, hai tờ báo này có sửa lại tiêu đề, nhưng những bằng chứng vẫn còn đó và rất nhiều diễn đàn sao chép đăng nguyên văn. Sự việc lần này khiến bản thân mình đặt ra câu hỏi rằng những nhà báo viết ra những bài viết này và cả tờ báo này, họ có còn lương tâm nữa hay không? Đạo đức trách nhiệm nhà báo ở đâu?


Thiệt mạng có nghĩa là những cái chết một cách oan uổng, phí hoài. Còn hy sinh biểu thị những cái chết cao đẹp, vì lý tưởng, vì cộng đồng và xã hội, sự dấn thân và đáng coi trọng. 


Một người Việt Nam được học đầy đủ đều có phân biệt nghĩa của hai từ “hy sinh” và “thiệt mạng”, còn những nhà báo được học trường lớp đào tạo đầy đủ lại dùng những từ ngữ như vậy thật quá tắc trách và đáng buồn. 


Tại sao những bài báo bẩn thỉu như thế vẫn còn tồn tại? 

Và hai chữ hy sinh lại khó nói đến như vậy sao?

NGƯỜI BÌNH THƯỜNG Ở VIỆT NAM HẠNH PHÚC HƠN NHIỀU SO VỚI NGƯỜI BÌNH THƯỜNG Ở MỸ ?


Nguyên văn: “Bằng những trải nghiệm của mình tôi tự tin chắc chắn với bạn, người bình thường ở Việt Nam hạnh phúc hơn nhiều so với người bình thường ở Mỹ! Bất luận Việt Nam được biết đến như là một nước nghèo và kém phát triển hơn Mỹ rất nhiều”.


Chắc chắn sẽ có rất rất nhiều bạn sẽ cười cợt và chế giễu câu nói trên, “đúng là nực cười, Việt Nam mà hạnh phúc hơn Mỹ ư”, “đúng là bò đỏ, đúng là DLV”, nhưng trước khi cười cợt, chế giễu các bạn nên bình tĩnh xem xem nhận định trên là của ai đã?


Nhận định trên là của ông Chris Freund, người sáng lập, TGĐ quỹ đầu tư Mekong Capital, một quỹ Đầu tư Tư nhân ở Việt Nam, đồng thời là sáng lập Vietnamwork - Navigos, một kênh giới thiệu việc làm lớn nhất Việt Nam.


Chris Freund sinh ra và lớn lên trong gia đình tỷ phú Mỹ gốc Do Thái chính thống, sống ở trung tâm tài chính phố Wall (New York) từ bé, đã tiếp xúc với rất nhiều tỷ phú Mỹ, vậy thì Chris Freund phải là người rất hiểu nước Mỹ, hiểu người Mỹ và tất nhiên hiểu cả tỷ phú Mỹ hơn rất nhiều người Việt Nam chúng ta, dù họ đang sống ở Việt Nam, Châu Âu hay Mỹ.


Chris Freund đã sống ở Việt Nam gần 30 năm, ngay từ khi Việt Nam mới mở cửa khi Việt Nam còn rất nghèo khó, đầy rẫy khó khăn (1994), lấy vợ Việt, sáng lập và điều hành 2 công ty ở Việt Nam (Mekong Capital và Vietnamwork - Navigos), vậy thì chắc Chris Freund phải rất hiểu Việt Nam và chính ông cũng tự nhận “về cốt cách, tôi Việt Nam hơn bạn tưởng rất nhiều”.


Chris giải thích: “Vấn đề là, nếu bạn lớn lên ở thế giới tôi đã lớn lên, bạn sẽ không thấy bất ngờ chút nào luôn”, “Ngay khi vừa sinh ra tôi đã biết rất nhiều người rất giàu có ở quanh mình. Bạn biết đấy, rất nhiều tỷ phú. Cuộc sống của tỷ phú nước Mỹ có thể khiến cả thế giới tò mò hay thèm muốn nhưng sự thật không phải ai cũng hạnh phúc hơn những người bình thường”, “Rõ ràng sống ở Việt Nam tôi đã và đang làm được nhiều điều giá trị. Ngược lại, sự thân thiện, nhân hậu và xu hướng lạc quan hướng tới tương lai của người Việt luôn mang đến cho tôi những trải nghiệm đặc biệt ý nghĩa, hoàn toàn khác với khi còn sống ở Mỹ”.


Tất nhiên sẽ có rất nhiều người Việt có nhận định khác với nhận định trên, thế nhưng cá nhân tôi rất thích thú nhận định của ông Chris Freund bởi với tôi ông là người đã có sự trải nghiệm đủ sâu và đủ dài ở cả Mỹ và Việt Nam, mà không phải ai cũng có đủ trải nghiệm sâu cả Mỹ và Việt Nam như ông.

Văn Bưởi st

ĐỪNG ĐỂ LOẠN HOA HẬU


Tính đến thời điểm này, đã có 25 cuộc thi hoa hậu được cấp phép tổ chức trong năm nay. Năm 2021 cũng có tới 22 cuộc thi, nếu tính cả 08 cuộc thi đã cấp phép nhưng không tổ chức được vì dịch bệnh sẽ là 30 cuộc thi. Như vậy, trung bình mỗi tháng nước ta có ít nhất 2 tân hoa hậu và 4 tân á hậu. Hoa hậu này chưa qua, hoa hậu khác đã tới, với đủ thể loại, từ siêu cấp độ đến vùng miền, từ giới tính đến phi giới tính, từ thiếu nữ tới quý bà, từ doanh nhân đến các ngành nghề. Đấy là chưa tính hàng năm có tới gần 10 cuộc thi chui hoặc thí sinh ra nước ngoài thi hoa hậu khi chưa được cơ quan quản lý cho phép.


Và thế là, giá trị, tiêu chuẩn của cái đẹp giảm xuống; từ một sản phẩm của văn hoá, đại diện cho nét đẹp của phụ nữ Việt Nam đã bị thương mại hoá, trở thành nơi kiếm tiền của nhà tổ chức và các ông bầu; sắc đẹp tâm hồn và nhân cách dần bị thay thế bởi sắc đẹp thể xác, sắc đẹp tự nhiên dần bị thay thế bởi sắc đẹp dao kéo, dẫn tới xảy ra nhiều scandal, nhiều người đi thi hết cuộc thi này đến cuộc thi khác chỉ cốt để trở thành “người đẹp”, được nổi tiếng, được mời tham gia các sự kiện, mời quảng cáo, hay được “đại gia” để mắt. Ảnh hưởng cộng đồng, các hoạt động từ thiện và vẻ đẹp chân, thiện, mỹ của tân hoa hậu dần phai nhạt và trở thành yếu tố phụ. Giá trị văn hoá, giáo dục bị giảm sút.


Vì cơ chế thị trường, sự len lỏi của yếu tố thương mại hoá, do sự buông lỏng quản lý của cơ quan chức năng, hay có sự móc ngoặc giữa các ông bầu và cơ quan quản lý, dẫn tới tình trạng xuống cấp về văn hoá như trên? Đã đến lúc cần nghiêm túc đánh giá lại công tác quản lý, có biện pháp mạnh tay để trả lại ”hoa hậu” đúng nghĩa, đại diện cho sắc đẹp của phụ nữ Việt Nam.

MỘT SỰ NGỘ NHẬN TAI HẠI KHÔNG NÊN XẢY RA

 

Từ ngày 28-7, cả trên mạng xã hội lẫn trên một số tờ báo như Dân Việt, Thanh Niên, VOV News đều xôn xao về câu chuyện nồng độ cồn Ethanol ghi trong kết quả xét nghiệm máu của nạn nhân Hồ Hoàng Anh, gây nên những dư luận trái chiều. Đáng nói là, cả bên tung kết quả ra nhằm lái dư luận vào nguyên nhân tai nạn có phần do lỗi  nạn nhân (có bia rượu, không làm chủ tốc độ) lẫn bên gia đình bức xúc khiếu nại quy trình thủ tục và kết quả đều hiểu sai ý nghĩa con số ghi trong kết quả xét nghiệm nồng độ cồn. Đây là nguyên nhân gây nên những dư luận xôn xao không đáng có.


Vụ việc xảy ra như sau.


Khoảng 7h30 sáng 28.6,  cháu Hồ Hoàng Anh, học sinh lớp chuyên Anh Trường chuyên Lê Quý Đôn, Ninh Thuận đi xe máy Dream II bên lề phải đường 16 tháng 4, TP Phan Rang - Tháp Chàm để từ trường về nhà. Đến trước cổng Ngân hàng Thương mại CP Công thương Việt nam chi nhánh Ninh Thuận, xe ô tô 7 chỗ BS 85A - 074.07 chạy cùng chiều đột ngột chuyển làn tấp vào lề, va vào xe máy của cháu Hồ Hoàng Anh. Cháu Hồ Hoàng Anh bị văng về phía trước khoảng 4 m, ngã đập đầu xuống lề đường, va vào trụ điện, tử vong trước khi được chính lái xe gây tai nạn đưa đến bệnh viện.


Diễn tiến hình ảnh được camera của Ngân hàng quay lại đầy đủ, rõ nét. Điều khiến dư luận bức xúc là chiếc ô tô gây tai nạn dừng lại ngay, mũi xe chếch vào phía lề đường, nhưng khi bước từ trên xe xuống, tài xế vẫn đang cầm điện thoại áp vào tai tiếp tục cuộc điện đàm. Chỉ khi đến ngay cạnh nạn nhân đã nằm bất động, anh này mới vội vàng buông điện thoại. Dư luận phẫn nộ vì "thái độ vô cảm, vô trách nhiệm" của tài xế gây ra tai nạn, sau này được xác định là Hoàng Văn Minh, sinh năm 1986, đang công tác tại một đơn vị không quân đóng ở sân bay Thành Sơn, gần Phan Rang.


Vụ tai nạn thương tâm đã để lại nhiều tiếc thương giành cho cháu Hồ Hoàng Anh, một học sinh chăm ngoan, năng động, học giỏi. Cháu bị tai nạn khi vừa đến trường lấy giấy báo dự kỳ thi tốt nghiệp quốc gia 2022 và đang trên đường trở về nhà. 


Hai tuần sau, chiều ngày 13/7, một cán bộ thay mặt Cơ quan điều tra Công an TP Phan Rang - Tháp Chàm (Ninh Thuận) đã thông báo cho gia đình nạn nhân biết: kết quả kiểm tra nồng độ cồn của cháu Hồ Hoàng Anh là 0,79 mg/100 ml máu. Phiếu xét nghiệm do bác sĩ Quảng Đại Hồng chỉ định, bác sĩ Nguyễn Hà, bác sĩ Trần Trương Giang Mai ký dưới góc phải, đóng dấu treo bệnh viện tỉnh Ninh Thuận.


Nhận kết quả, ông ông Hồ Hoàng Hùng, ngụ phường Tấn Tài, TP Phan Rang- Tháp Chàm (Ninh Thuận), cha của nạn nhân đã hết sức bức xúc và không đồng ý với kết luận về kết quả nồng độ cồn trong máu con gái mình. Bởi lẽ, ông cho rằng từ nhỏ chí lớn, con gái ông chưa hề biết uống bia rượu, trong máu không thể có cồn. Chỉ còn 2 ngày nữa là thi tốt nghiệp, dĩ nhiên không có chuyện một nữ sinh sắp dự thi lại đi uống bia rượu. Chưa kể, lúc bị tai nạn là khoảng 7h30 sáng, không ai uống bia rượu vào trước giờ đó cả, đừng nói là một nữ sinh trung học vừa lên trường nhận giấy báo thi và đang lo lắng với kỳ thi đã đến rất gần. 


Tất cả thầy cô, bạn bè, người quen của nạn nhân, người quan tâm... đều tán thành quan điểm này. Kết luận về nồng độ cồn trong máu nạn nhân bị xem là vô lý. Dư luận đang tỏ ra hoài nghi: kết luận nồng độ cồn là ngụy tạo. Cha của nạn nhân ngay lập tức đã có khiếu nại yêu cầu xem xét lại bản kết luận nồng độ cồn, đồng thời cũng trả lời bày tỏ sự bức xúc trên nhiều mặt báo.


Sự bức xúc này là dễ hiểu, bởi ngay sau khi có kết luận, tài khoản FB Kim Hằng, vợ của lái xe gây tai nạn Hoàng Văn Minh đã có đăng một status nhấn mạnh về con số nồng độ Ethanol 0,79mg/100ml máu của nạn nhân, cho rằng với  nồng độ cồn "cao như thế", cộng với chạy xe tốc độ cao, nếu không va vào xe của chồng cô thì cũng "có thể va vào xe người khác và gây tai nạn thì sao". Status có ý đẩy nguyên nhân vụ tai nạn về phía nạn nhân, đồng thời cho rằng gia đình cháu đã không chịu nhìn nhận vụ việc đúng bản chất, cố tình bao che cho "lỗi" của con mình và đổ lỗi nhằm "hạ thấp nhân phẩm chồng cháu (lái xe Hoàng Văn Minh)". Đem xăng cứu hỏa, cô vợ này còn dạy ông Hồ Hoàng Hưng - luật sư bảo vệ quyền lợi (cũng là chú ruột của nạn nhân) khi nhấn mạnh: "Luật sư là phải công bằng  liêm khiết đi đúng hướng và lẽ phải" (!)


Dĩ nhiên, báo chí và nhiều KOLs khác đã vào cuộc và tỏ ra bức xúc với cách nhìn này. Tất cả đều đồng loạt vạch ra hàng loạt điểm vô lý: Không ai uống bia rượu vào đầu giờ sáng; một nữ sinh thì không có lý nào trước khi đi nhận giấy báo thi lại uống rượu bia; một người chưa  từng uống rượu bia bao giờ thì không thể có nồng độ cồn trong máu, mà dư luận giải thích 0,79mg/100ml máu là tương đương vừa uống 5 - 6 lon bia...v.v. Bức xúc đến nỗi, thầy Hiệu trưởng trường Lê Quý Đôn ngay lập tức phải ra  một giấy xác nhận về học sinh Hồ Hoàng Anh của trường với dòng cuối cùng là "từ trước đến nay chưa hề uống rượu bia". Dĩ nhiên, xác nhận này chỉ có ý nghĩa về mặt đạo đức và với dư luận xã hội, không có giá trị về mặt pháp lý.


Đưa lên măt báo, những lập luận này được giữ nguyên. Báo Dân Trí đăng nhiều bài. Báo Thanh Niên và Báo Dân Việt, bài đăng vào chiều 31-7 còn khiến câu chuyện trở nên phức tạp và nghiêm trọng hơn, khi dẫn lời ông Thái Phương Phiên, Giám đốc Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Thuận, cho biết "hồ sơ bệnh án nói trên là mật, chỉ cung cấp cho cơ quan điều tra khi có yêu cầu".


Cả hai chiều đề cập đều không chú ý đến một điểm ngộ nhận sơ đẳng. Danh mục Quy trình kỹ thuật chuyên ngành hoá sinh số thứ tự 60 về định lượng cồn (Ethanol) trong máu, được ban hành kèm theo Quyết định số 320/QĐ-BYT ngày 23/1/2014 của Bộ trưởng Bộ Y tế quy định, khi xét nghiệm mà có kết quả nồng độ cồn trong máu dưới 10,9 mmol/L (tương đương 50,23 mg/100ml hoặc 0,5023 mg/ml) thì được coi là không có. Trường hợp cháu Hồ Hoàng Anh, hàm lượng Ethanol trong máy chỉ 0,79 mg/100 ml thì nghĩa là  cháu hoàn toàn bình thường, không hề uống 1 giọt bia rượu nào cả, khác hoàn toàn với việc một người đã uống 5-6 lon bia. 


Những người cố ý đưa ra vấn đề nồng độ cồn, gán nó với một phần nguyên nhân (có thể dẫn đến) vụ tai nạn đã cố so sánh với nồng độ cồn quy định trong Nghị định 100/2019 NĐ - CP về mức xử phạt nồng độ cồn đối với người điều khiển phương tiện giao thông. Trong đó, mức phạt 2 có nồng độ cồn là 80 -100mg/ 100ml máu, tương đương với người vừa uống 5-6 lon bia. Với mức này, nồng độ cồn trong máu nạn nhân phải  tăng đúng 100 lần nữa mới chạm ngưỡng. Ngay ở mức phạt 1 (nhẹ nhất), nồng độ cồn cũng phải đến ngưỡng 50mg/100ml máu, cao gấp ít nhất 60 lần nồng độ đo dược trong máu nạn nhân nêu trog kết luận. Ở đây là sự nhầm lẫn cùng một con số nồng độ cồn trên 1ml và trên 100ml máu.


Ngộ nhận thứ hai nằm ngay ở chữ "nồng độ cồn (Ethanol)". Cần phải hiểu là ngay trong một cơ thể bình thường không hề uống rượu bia vẫn tồn tại một nồng độ cồn nhất định, nhưng chỉ số rất thấp. Nếu ở mức 0,79-1mg/100 ml máu thì điều đó có nghĩa là... không có gì cả, không có bia rượu gì ở đây. Ngay cả khi người bình thường không uống bia rượu mà chỉ cần ăn, uống một vài thực phẩm lên men nào đó, chỉ số cồn trong máu cũng có thể tăng lên đáng kể. Nhưng để gây nên tác dụng nhẹ nhất, kiểu như một chút hưng phấn thì lượng cồn trong máu cũng phải tăng thêm 10 - 40 lần nữa mới có thể.


Như vậy, kết quả nồng độ cồn trong máu cháu Hồ Hoàng Anh là hoàn toan bình thường, gia đình và những ai quan tâm thương tiếc cháu hoàn toàn không cần phải để tâm, bởi nó không liên quan gì đến nguyên nhân (có thể) của vụ tai nạn. Những người cố bám vào nó một cách có dụng ý thì nên rút lại hoài nghi, chấm dứt và xin lỗi nếu câu chuyện đưa ra có thể gây thêm tổn thương cho gia đình nạn nhân.


Cần hơn hết, cơ quan Công an và phía Y tế cần giải thích rõ ràng, không tiếp tục úp úp mở mở hay giữ thái độ bàng quan, trung dung, nhằm giúp sáng tỏ, hiểu rõ vấn đề, không tiếp tục gây nên hiểu lầm và tranh cãi vô ích trong dư luận xã hội, chỉ khiến nỗi đau buồn của gia đình nạn nhân thêm nặng nề hơn.


Và cuối cùng, các KOLs cũng như những người làm công tác báo chí, tốt nhất  nếu chưa hiểu đúng, hiểu đủ vấn đề thì không nên viết, không bày tỏ bức xúc bằng cảm tính và sự ngộ nhận. Điều đó không những không chia vợi được mất mát của nạn nhân và gia đình mà chỉ khoét sâu thêm, không giúp cho dư luận xã hội sáng tỏ sự thật mà chỉ gây thêm sự rối loạn, lo lắng, nghi kỵ... Cho dù với dụng ý đưa tin tích cực, đó cũng chỉ là những fake news - tin giả!

31-7-2022

TIKTOK VÀ NỖI LO GIỚI TRẺ BỊ “ĐẦU ĐỘC”


Mỗi video chỉ khoảng vài chục giây nhưng sức truyền đạt thông tin, hình ảnh bắt mắt, nhạc nền hay khiến TikTok đang là một ứng dụng phổ biến nhất trên thế giới. Nhưng bên cạnh đó, TikTok lại ẩn chứa không ít sản phẩm độc hại, nhảm nhí, có nội dung tiêu cực, không phù hợp với lứa tuổi thanh thiếu niên, trẻ em.


BÙNG NỔ NGƯỜI DÙNG TIKTOK TẠI VIỆT NAM


Theo thống kê, lượng người dùng TikTok tại Việt Nam đang đứng thứ 6 thế giới, trong đó có tới 4 triệu người dưới 18 tuổi dùng mạng xã hội này. Với sự phát triển mạnh mẽ như vậy, trẻ em rất có thể bị rơi vào “ma trận” của những video không được sàng lọc. Bất kỳ ai cũng có thể tải ứng dụng TikTok, thậm chí dễ dàng trở thành một TikToker chính hiệu.


Mới đây, trang Q&Me đã công bố nghiên cứu rằng, thói quen của người dùng Việt Nam trong thời gian dịch bệnh có sự thay đổi lớn. Cụ thể, với giới trẻ họ dành nhiều thời gian xem video trực tuyến trên Youtube và TikTok, xu thế chuyển nhiều hơn cho việc xem TikTok. Trong khi đó người lớn dành nhiều thời gian rảnh cho Zalo sau Facebook.


Còn theo báo cáo mới nhất của We Are Social, TikTok được tìm kiếm nhiều thứ 5 trên YouTube sau các từ khóa “phim”, “nhạc”, “remix” và “karaoke”. Theo đó lượng người dùng ứng dụng TikTok trên 18 tuổi tại Việt Nam 39,65 triệu người, tức đã tăng thêm hơn 5,4 triệu người dùng chỉ trong một thời gian khá ngắn. Con số 39,65 triệu cũng đưa Việt Nam lên vị trí thứ 6 toàn cầu về lượng người dùng TikTok sau các quốc gia Mỹ, Indonesia, Brazil, Nga, Mexico.


Trong các ứng dụng mạng xã hội được sử dụng nhiều nhất Việt Nam, TikTok đứng vị trí thứ 6 với tỉ lệ 47,6% (tức khoảng 34,2 triệu người dùng) nhưng nếu xét xếp hạng lượt tải về tại Việt Nam thì TikTok xếp số 1. Tuy nhiên, số người dùng thực tế tại Việt Nam hiện cao hơn rất nhiều bởi TikTok cho người dùng từ 13 tuổi được đăng ký mở tài khoản. Số người dùng trong khoảng 13 - 18 tuổi tại Việt Nam được nhiều chuyên gia trong ngành ước đoán rất nhiều.


TRÀN LAN NHỮNG VIDEO RÁC, TRÀO LƯU ĐỘC HẠI


- Chẳng khó khăn gì để chúng ta tìm được những video có nội dung “người lớn” trên TikTok. Đó là những clip mà người chơi cố tình khoe những điểm nhạy cảm trên cơ thể, nhảy những điệu khêu gợi. Điều đặc biệt, người thực hiện còn là những bạn trẻ còn ngồi trên ghế nhà trường.


- Các video tạo trào lưu, trend dễ khiến người xem bắt chước, làm theo dẫn đến những hậu quả khác nhau cho chính bản thân người thực hiện về sức khoẻ, tính mạng lẫn thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Có thể kể đến một số trend độc hại bị dư luận lên án trong thời gian qua, như: "quay video tại sân bay", "thử thách chọc ghẹo người khác", "thử thách bẻ xuơng", " hướng dẫn chế biến thực phẩm - kem dưỡng da với các công thức lạ tại nhà",... 


- Bên cạnh đó, tình trạng các video có nội dung tục tiễu, không phù hợp thuần phong mỹ tục văn hoá Việt Nam làm tiêm nhiễm nhận thức, tính cách của người xem gây ra những hệ luỵ về phong cách ứng xử, đạo đức lối sống.


Từ những hệ lụy trên khi các video trên TikTok rất dễ tác động xấu giới trẻ khi ấy hậu quả thực sự là khôn lường. Theo báo cáo tại Việt Nam người dùng TikTok chủ yếu là học sinh, sinh viên từ 13 – 24 tuổi. Chính vì vậy thách thức về nội dung vừa hấp dẫn lại phù hợp với lứa tuổi luôn đè nặng lên nhà quản lý của TikTok. Trước đây, Mỹ và Ấn Độ đã có những cáo buộc, TikTok đã có những động thái đầu tiên như đưa ra những điều khoản riêng cho người dùng nhỏ tuổi như cơ chế liên kết tài khoản gia đình Family Pairing. Ngoài ra, những tài khoản có thông tin từ 13 - 15 tuổi cũng sẽ được mặc định ở chế độ riêng tư và tắt những tính năng đề xuất, livestream và nhận tin nhắn. Tuy nhiên, những điều khoản này chỉ hữu dụng khi người dùng khai báo thông tin trung thực, việc kiểm soát và đảm bảo đúng độ tuổi là không phải dễ dàng.


Các bậc phụ huynh cần hết sức lưu ý quản lý, giáo dục trẻ trong quá trình tham gia các hoạt động trên không gian mạng để đảm bảo không bị tác động bởi các hệ lụy xấu. Việc TikTok mang đến nhiều lợi ích như tính giải trí cao, cập nhật tin tức xã hội, xu hướng nhanh là không thể phủ nhận. Tuy nhiên đối với giới trẻ thì cần phải xem xét lại, cần phải cho trẻ hiểu và phân biệt được đâu là nội dung phù hợp, đâu là những nội dung xấu. Cũng như đối với mỗi người dùng cần chung tay lên án, chủ động đấu tranh với các nội dung xấu, lệch lạc để xây dựng môi trường mạng lành mạnh./.

Nguồn: CA Lâm Đồng

XIN HÃY VIẾT ĐÚNG!

 

Tròn 2 tuần sau khi cụm tượng đài Công an nhân dân vì dân phục vụ được khánh thành tại Hà Nội, hôm nay 3 người lính PCCC đã ngã xuống trong khi làm nhiệm vụ.


Mình vẫn nhớ thời điểm khi tượng đài chuẩn bị ra mắt công chúng, báo chí và dư luận đã tốn khá nhiều "gõ phím" bình phẩm. Mình không phải dân điêu khắc hay mỹ thuật nên không tham gia bàn luận gì. Mình chỉ nghĩ đơn giản là họ xứng đáng được dựng tượng. Riêng về hình tượng 3 chiến sĩ PCCC, có người nói gương mặt họ đơ cứng, một biểu cảm lạnh lùng, thiếu xúc động. Cá nhân mình lại thấy, ở tâm thế lao vào ngọn lửa hàng nghìn độ đang bùng cháy, lao vào ranh giới của sự sống và cái chết thì những ánh mắt ấy, nét mặt ấy chỉ mang một biểu cảm duy nhất là... sẵn sàng hy sinh. 


Chiều nay, khi những tin tức đầu tiên về vụ hỏa hoạn được loang ra, không ít tờ báo mạng đã dùng từ "thiệt mạng" để giật tít về "cái chết" của các chiến sĩ PCCC. Tất nhiên sau đó những tờ báo này cũng đã sửa. Thế nhưng việc làm đó có thể cho thấy phần nào sự "bất nhân" của người cầm bút hay ai đó đã duyệt đăng tin. Bởi bản chất từ thiệt mạng thường được dùng chỉ cái chết oan uổng, vô nghĩa. Còn những cái chết này, họ đã hy sinh mà. Hy sinh thân thể, tính mạng, hạnh phúc gia đình, cá nhân... để đổi đấy sự sống cho những cuộc đời khác. 


Tự dưng mình lại nhớ tới mỗi kỳ họp Quốc hội, khi đề nghị nâng mức lương cơ bản cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng vũ trang thì thể nào cũng lại có những nhà báo gào lên, lương bộ đội, công an... cao quá. Họ gào mà không cần biết lực lượng vũ trang là lao động đặc biệt, là lao động toàn thời gian, là lao động xương máu. 


Cứ thử tính vội lương 3 đồng chí vừa hy sinh chiều nay đi: Trung tá thâm niên chắc khoảng 16tr; Trung úy chắc tầm 9tr; còn chiến sĩ nghĩa vụ thì chỉ có phụ cấp vài trăm nghìn đồng... Có ai muốn đánh đổi với họ không ? 


Cổ nhân đã nói: “Đời người có 3 cảnh giới, cao nhất là lập đức, thứ nhì là lập ngôn và thứ 3 là lập công”. Người làm báo là lập ngôn, nếu không nói được điều gì tốt đẹp thì cũng xin đừng đâm thêm những nhát dao vào lòng người đang sống. 


Ai đó đã nói, báo chí hoặc là phúc lành lớn nhất hoặc là lời nguyền rủa lớn nhất của thời hiện đại, người ta đôi khi quên mất nó là bên nào.

HỢP LÒNG DÂN


Có những cái thuộc về quá khứ là lỗi thời, lạc hậu. Tuy nhiên, có những thứ thuộc về quá khứ nhưng mang giá trị cao cả, bất diệt. Chính phủ đã tính đến phương án sử dụng ngân sách nhà nước để mua sách giáo khoa và đưa vào thư viện các trường. Cho học sinh mượn và sử dụng lâu dài. Học sinh, đặc biệt là con nhà nghèo không phải lo chạy vạy tiền để mua sách. Không có chuyện năm nào cũng thay đổi sách giáo khoa như kiểu thay áo. Triệt tiêu bọn cơ hội khi viết, in và xuất bản đủ chủng loại sách giáo khoa. Chắc chắn nhân dân Việt Nam sẽ ủng hộ chủ trương này một cách tuyệt đối. 


Cu Ba, Triều Tiên vẫn bị xem là nước nghèo. Thế nhưng để có được cái "nghèo" của họ thì chúng ta phải chạy theo dài. Ở đó, giáo dục, y tế miễn phí. Nhiều chủ trương về phúc lợi xã hội  cũng rất tốt. Bản chất của Chủ nghĩa xã hội là lấy nhân dân lao động làm trung tâm, tất cả vì lợi ích của quốc gia, dân tộc để phục vụ. Để đạt mục tiêu, chúng ta cần phấn đấu rất dài. Bước đầu cải cách, kiểm soát và nhốt quyền lực của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong lồng cơ chế. Đánh tan mọi tiêu cực, đặc biệt là sách giáo khoa và mưu đồ xuyên tạc lịch sử và đòi biến lịch sử thành môn tự chọn của những kẻ "ăn cơm Cộng sản thờ ma 3/" như thời gian qua. Tính đến phương án miễn hoặc giảm học phí cho học sinh, sinh viên... Nhân dân trông chờ./.

ĐẨY NHANH TỐC ĐỘ TIÊM PHÒNG COVID-19, KHÔNG ĐƯỢC LÃNG PHÍ VACCINE


Tại hội nghị trực tuyến với 63 tỉnh, thành phố và các bộ, ngành về tăng cường công tác phòng, chống dịch và tiêm chủng phòng COVID-19, diễn ra ngày 2/8, Quyền Bộ trưởng Bộ Y tế Đào Hồng Lan đã chỉ rõ những khó khăn, thách thức trong công tác phòng, chống dịch hiện nay. Tốc độ tiêm vaccine COVID-19 ở một số địa phương vẫn chưa đạt tiến độ theo yêu cầu, nhất là tiêm mũi 3, mũi 4 cho người trên 18 tuổi và tiêm cho trẻ từ 5 - dưới 12 tuổi; thậm chí có tình trạng né tránh tiêm vaccine ở một bộ phận người dân. Công tác truyền thông, vận động, khuyến khích người dân tham gia phòng, chống dịch, nhất là tiêm chủng vaccine chưa hiệu quả; nguồn lực cho phòng, chống dịch chưa được đảm bảo; tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế ở nhiều nơi gây ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch. Theo bà Đào Hồng Lan, hiện nay, dịch COVID-19 cơ bản vẫn được kiểm soát tốt trên phạm vi cả nước, các hoạt động dần trở lại bình thường. Bệnh đậu mùa khỉ và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới nổi khác được theo dõi chặt chẽ, bám sát các diễn biến của tình hình dịch và chuẩn bị sẵn sàng các phương án ứng phó để ngăn chặn sự xâm nhập và hạn chế lây lan trong nước. Các bệnh truyền nhiễm lưu hành trong nước, như: cúm mùa, sốt xuất huyết, tay chân miệng vẫn cơ bản được kiểm soát với nhiều giải pháp quyết liệt được thực hiện trong thời gian qua. Tuy nhiên, tình hình dịch bệnh truyền nhiễm vẫn đang diễn biến phức tạp; ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt và các vấn đến khác như đô thị hóa, di dân… là nguyên nhân của sự xuất hiện các dịch bệnh truyền nhiễm mới hay sự tiến hóa, biến chủng của các virus gây bệnh dẫn đến nguy cơ dịch bùng phát gia tăng, xu hướng dịch bệnh phức tạp, khó lường.


Bộ Y tế yêu cầu đẩy nhanh hơn nữa tốc độ tiêm vaccine phòng COVID-19, hoàn thành sớm nhất kế hoạch đề ra; nhất là việc tiêm vaccine mũi 3, 4 cho từng nhóm đối tượng, tiêm vaccine cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi theo hướng dẫn của Bộ Y tế và không để vaccine không được sử dụng kịp thời, gây lãng phí.

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay

 

TCCS - Trong quá trình xây dựng Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc phát huy vai trò của nhân dân. Đến nay, những quan điểm này của Người vẫn còn nguyên giá trị, góp phần định hướng việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta trong tình hình mới. 

Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước 

Với cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là người khai sinh ra nhà nước kiểu mới ở Việt Nam, mà còn là người thầy vĩ đại trong việc phát huy vai trò của nhân dân - chủ thể cao nhất, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi theo đúng tính chất quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Đến nay, việc phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, người dân về kiểm soát quyền lực nhà nước, cũng như cơ chế phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước có lúc, có nơi vẫn còn bất cập. Do đó, việc nghiên cứu, vận dụng các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề cấp thiết, nhằm tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 

Kiểm soát quyền lực nhà nước được bàn đến với nhiều định nghĩa khác nhau, song theo nghĩa chung nhất, đó là một hệ thống cơ chế, thể chế được thực hiện bởi nhà nước và xã hội nhằm xem xét, giám sát, phát hiện, bảo đảm cho việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, có hiệu quả.

Theo C. Mác và Ph. Ăng-ghen, trong xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực nhà nước nằm trong tay giai cấp thống trị; nếu chế độ nhà nước đó bị đập tan thì quyền lực nhà nước trở về tay nhân dân như chính cội nguồn ban đầu của nó, nhân dân là gốc, là chủ thể của quyền lực. Kế thừa và phát triển quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin khẳng định, kiểm soát quyền lực nhà nước là một trong những chức năng lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, V.I. Lê-nin cho rằng, nhân dân là chủ thể kiểm soát nên cần phải hết sức coi trọng và phát huy vai trò nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước. Người yêu cầu tổ chức cho toàn dân tham gia kiểm tra và kiểm soát hoạt động của nhà nước, “tổ chức việc kiểm tra và kiểm soát từ dưới lên, một cách dân chủ, do chính nhân dân, các hội liên hiệp của nhân viên, của công nhân và của những người tiêu dùng, v.v., thi hành”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cách mạng Việt Nam, đưa sự nghiệp đấu tranh của nhân dân ta đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác. Những quan điểm về kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua vai trò nhân dân được Người vận dụng, phát triển, gồm một số nội dung chính sau:

Thứ nhất, nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách giám sát, phê  bình, giúp đỡ Chính phủ. 

Đề cao vai trò của nhân dân là quan điểm nhất quán, xuyên suốt sự nghiệp  cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Người quan niệm, phải tổ chức sự kiểm soát quyền lực của nhà nước, mà muốn kiểm soát tốt thì phải có quần chúng giúp mới được. Người cho rằng, những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi theo cách từ trên xuống, nên bị hạn chế. Dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, trông thấy vấn đề theo cách từ dưới lên và cũng có hạn chế. Cho nên, Người lưu ý, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, thì tất yếu phải hợp kinh nghiệm cả hai bên lại. Tại kỳ họp Hội đồng Chính phủ cuối năm 1966, Người đã nêu lên thực trạng tại một số nơi, ở cấp cơ sở, có những cán bộ phụ trách, do rơi vào chủ nghĩa cá nhân, thiếu tinh thần phục vụ nhân dân, đã làm những điều đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Do vậy, Người luôn nhất quán khẳng định, chúng ta phải tin ở sự phê bình, kiểm soát của nhân dân. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc (năm 1947), Người viết: “Để cho dân chúng phê bình cán bộ, dựa theo ý kiến họ mà cất nhắc cán bộ, nhất định không xảy ra việc thiên tư, thiên vị, nhất định hợp lý và công bằng. Đồng thời, do sự dùi mài của dân chúng, cán bộ và dân chúng đều tiến bộ, lại do đó, cán bộ và dân chúng đoàn kết chặt chẽ thêm”(2). Người luôn mong muốn nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua việc việc kiểm tra, kiểm soát nhà nước: “Chính phủ ta là Chính  phủ của nhân dân, chỉ có một mục đích là ra sức phụng sự lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ của mình là: người đày tớ trung thành tận tụy của nhân dân”(3).  

Thứ hai, nhân dân kiểm soát quyền lực bằng quyền bầu cử, bất tín nhiệm và quyền khiếu tố với đại biểu do mình cử ra. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ở quần chúng, khai hội, phê bình và bày tỏ ý kiến, bầu cử các ủy ban, các hội đồng, v.v.; đó là những cách quần chúng kiểm soát những người lãnh đạo”(4). Vậy nên, sau khi nước nhà giành được độc lập, Người đã chủ động đề xuất với Chính phủ tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước. Theo Người, tổ chức Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có đức, có tài, để gánh vác công việc nước nhà... Cũng từ Tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội - cơ quan  đại biểu cao nhất của nhân dân. Khi Quốc hội ra đời, sẽ cử ra Chính phủ và Chính phủ do nhân dân cử ra chính là Chính phủ của toàn dân.  

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, bầu cử là quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân trong chế độ mới. Điều này được Người khẳng định ở Đại hội nhân dân Thủ đô chào mừng các vị ứng cử đại biểu Quốc hội tại Hà Nội, ra mắt cử tri ngày 24-4-1960. Trong lời phát biểu, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, việc lựa chọn những đại biểu như vậy là quyền lợi và cũng là nghĩa vụ của cử tri. Người đề cao giá trị mà lá phiếu cử tri mang lại, bởi nó là một dấu hiệu để khẳng định một sự thật rằng nhân dân đã thật sự làm chủ nước nhà. Trong tác phẩm Thường thức chính trị (năm 1953), Người nhấn mạnh: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn hóa, không phân biệt nòi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách rất hợp lý, để nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình”(5)

Mặt khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, với những đại biểu không xứng  đáng, nhân dân có quyền bất tín nhiệm. Trong bài nói chuyện với các đại biểu thân sĩ trí thức, phú hào tỉnh Thanh Hóa vào đầu năm 1947, Người nêu lên tinh thần xây dựng Chính phủ vì nhân dân phục vụ, rằng nếu Chính phủ đó làm hại dân, thì nhân dân có quyền đuổi Chính phủ. Quan điểm của Người về quyền bất tín nhiệm đã được cụ thể hóa tại Điều thứ 20, Hiến pháp năm 1946: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra”. Điều này cũng được Người đề cập trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín  nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm soát của nhân dân đối với đại biểu của mình”(6)

Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến quyền khiếu tố của nhân  dân, coi đây cũng là cách thức để nhân dân tham gia trực tiếp vào việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong Thư gửi đồng bào Liên khu IV (năm 1950), Người viết: “Nước ta là một nước dân chủ. Mọi công việc đều vì lợi ích của dân mà làm. Khắp  nơi có đoàn thể nhân dân, như Hội đồng nhân dân, Mặt trận, Công đoàn, Hội Nông dân cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, v.v.. Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ. Khi ai có điều gì oan ức, thì có thể do các đoàn thể tố cáo lên cấp trên. Đó là quyền dân chủ của tất cả công dân Việt Nam. Đồng bào cần hiểu rõ và khéo dùng quyền  ấy”(7).

Thứ ba, nhân dân kiểm soát quyền lực thông qua xây dựng thể chế dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chế độ của ta là chế độ dân chủ, vì nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ, còn Chính phủ là đày tớ của nhân dân... Theo đó, mọi công việc của Chính phủ từ việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ lợi ích của nhân dân. Trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 3-9-1945, Người đề xuất “xây dựng hiến pháp dân chủ” để thể chế hóa quyền và nghĩa vụ của nhân dân. Lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của dân tộc - được Quốc hội khóa I thông qua ngày 9-11-1946, là thành quả kết tinh trí tuệ của Ban dự thảo do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban, đã nêu rõ, nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng nước nhà trên nền tảng dân chủ. Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946 còn ghi nhận quyền lực nhà nước cao nhất thuộc về nhân dân: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. 

Đánh giá về vai trò của Hiến pháp năm 1946 trong thể chế hóa chế độ dân chủ ở Việt Nam, Người khẳng định: “Chế độ do Hiến pháp năm 1946 xác nhận đã đảm bảo độc lập dân tộc và một nền dân chủ rộng rãi của nhân dân”(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng thể chế dân chủ nhằm huy động vai trò của nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Trong Báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I, ngày 18-12-1959, Người nêu rõ: “Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sức sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia quản lý công việc Nhà nước, ra sức xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”(9)

Định hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy vai trò của nhân dân trong kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay 

Thứ nhất, tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế bầu cử phù hợp với sự phát  triển của thực tiễn. 

Hoàn thiện quy định và lộ trình, bảo đảm tốt nhất điều kiện về nắm bắt  thông tin, nâng cao ý thức trách nhiệm về quyền làm chủ của nhân dân; lấy ý kiến cử tri về các ứng viên tham gia ứng cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp trong quá trình bầu cử. 

Kết hợp chặt chẽ giữa định hướng chính trị, cơ cấu về tỷ lệ đại biểu với  quyền tự ứng cử, quyền đề cử của công dân; nâng cao số lượng cử tri tự ứng cử để phát huy tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân. 

Tiếp tục nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc trong quá trình tổ chức hiệp thương lựa chọn, giới thiệu ứng cử viên và giám sát hoạt động bầu cử, bảo  đảm dân chủ và đúng luật định; khắc phục mọi biểu hiện hình thức, xem xét tiêu chuẩn, lai lịch chính trị, uy tín của ứng viên chưa chặt chẽ; bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong lựa chọn, giới thiệu được những đại biểu thật sự ưu tú tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước. 

Các đại biểu Quốc hội tham dự Kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa XV_Ảnh: Tư liệu

Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các ứng viên tham gia vận động, tiếp xúc cử tri, trình bày kế hoạch hành động sau khi trúng cử; phát huy vai trò của phương tiện thông tin, truyền thông về nhiệm vụ bầu cử, qua đó, cử tri ở từng địa bàn sẽ trực tiếp nắm được thông tin về năng lực, trình độ, phẩm chất, uy tín của các ứng viên, từ đó lựa chọn được những đại biểu ưu tú. 

Thứ hai, hoàn thiện cơ chế thực hiện quyền bất tín nhiệm đại biểu của nhân dân.

Vấn đề bãi nhiệm đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân được quy định ở Điều 7 của Hiến pháp năm 2013, Điều 40 của Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Điều 41 của Nội quy kỳ họp Quốc hội ban hành kèm theo Nghị quyết số 102/2015/QH13, ngày 24-11-2015, theo đó, việc bảo đảm quyền bãi miễn của nhân dân đã được thực thi gián tiếp thông qua Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội, trong thời gian tới, tiếp tục hoàn thiện cơ chế để nhân dân tham gia có hiệu quả hơn vào việc bãi miễn đại biểu không xứng đáng. 

Thứ ba, bổ sung các chế định pháp lý để phát huy quyền làm chủ của nhân  dân trong tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. 

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quản lý Nhà nước và xã hội là cách thức kiểm soát quyền lực nhà nước hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện nay. Thông qua việc góp ý, phê bình, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo của nhân dân sẽ ngăn ngừa được tình trạng lạm dụng quyền lực mưu lợi cá nhân của một bộ phận cán bộ, công chức. Các quyền này đã được chế định ở quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân, quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí, quyền được thông tin, quyền khiếu nại, tố cáo, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và các tệ nạn xã hội... Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ: “Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã  hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng”(10). /.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức và cán bộ

 

TCCS - Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là một hoạt động rất quan trọng, được Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tích cực thực hiện, nhằm góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Thời gian tới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục thực hiện và nỗ lực nâng cao hiệu quả hoạt động quan trọng này, để xứng đáng với vị trí, vai trò trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

Nội dung giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQ) là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, có nhiệm vụ tập hợp, xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; giám sát và phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; góp phần tạo đồng thuận xã hội và gắn kết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, liên quan đến công tác cán bộ; trong đó, có nhiều văn bản giao cho MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia giám sát công tác cán bộ. Điểm đáng chú ý là trong các văn bản này, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã xác định vai trò quan trọng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát công tác tổ chức cán bộ.

Để cụ thể hóa các nhiệm vụ được Đảng tin tưởng giao phó, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam (Ban Thường trực) đã phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội ban hành Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018, “Về phối hợp giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XII”. 

Chương trình phối hợp đã xác định rõ những vấn đề mà MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tập trung giám sát, như giám sát việc triển khai, thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ; giám sát việc đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ; giám sát việc triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới; việc thực hiện công khai, minh bạch các tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự; cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; giám sát, xác minh, kiến nghị xử lý kịp thời thông tin phản ánh từ các tổ chức, cá nhân và phương tiện thông tin đại chúng đối với các nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ; giám sát các biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ được xác định trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; giám sát việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức công vụ và đạo đức nghề nghiệp của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt, của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Để việc giám sát được thực hiện thống nhất trong hệ thống mặt trận, Ban Thường trực đã ban hành Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT, ngày 22-9-2020, về “Hướng dẫn giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ”, trong đó tập trung vào giám sát ba nội dung chủ yếu, cụ thể như sau: 

Thứ nhất, giám sát việc thực hiện các quy định về công tác cán bộ; trong đó, đặt trọng tâm vào việc giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện các quy định về xây dựng đội ngũ cán bộ. Giám sát việc công khai và thực hiện quy trình các khâu trong quản lý cán bộ, như tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động, luân chuyển cán bộ và phân cấp quản lý cán bộ; đánh giá cán bộ; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử; miễn nhiệm cán bộ; khen thưởng, kỷ luật cán bộ; thực hiện chế độ, chính sách cán bộ; kiểm tra, giám sát công tác cán bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo về công tác cán bộ và cán bộ. Giám sát việc thực hiện công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục và hồ sơ nhân sự lãnh đạo của từng cấp theo quy định; việc cung cấp, trao đổi thông tin và giải trình khi có yêu cầu; trách nhiệm của tập thể, cá nhân, nhất là người đứng đầu trong công tác cán bộ.

Căn cứ tình hình và yêu cầu thực tế, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp sẽ chủ động lựa chọn nội dung giám sát cho phù hợp với từng thời điểm cụ thể; thường xuyên, đột xuất, định kỳ tổng hợp, phản ánh ý kiến của nhân dân, người uy tín tiêu biểu về công tác cán bộ đến cấp ủy, chính quyền, nhất là việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp (người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền).

Thứ hai, giám sát việc thực hiện các quy định về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền theo Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị. Theo đó, Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT đã nêu rõ phương hướng để Ủy ban MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp chủ động theo dõi, nắm bắt tình hình thực hiện quy định nói trên. Hoạt động chủ yếu là, lắng nghe ý kiến nhân dân; phản ánh, cung cấp thông tin với cấp ủy, chính quyền những trường hợp cán bộ thiếu tiêu chuẩn, điều kiện, không trung thực; có biểu hiện lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vi phạm nguyên tắc, quy định trong công tác cán bộ; có các biểu hiện tiêu cực, hành vi chạy chức, chạy quyền, bao che, tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền. Giám sát việc thực hiện kết luận thanh tra, kiểm tra, giám sát của cấp có thẩm quyền đối với cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ; giám sát việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao đối với cán bộ, đảng viên trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ.

Thứ ba, giám sát việc thực hiện trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền trong lãnh đạo, tạo điều kiện để MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân thực hiện góp ý, giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ. Thông tri số 10/TT-MTTW-BTT tập trung vào giám sát công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư(1) và các quy định có liên quan đến việc thực hiện góp ý, giám sát đội ngũ cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ của MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tại địa phương.

Đồng chí Đỗ Văn Chiến, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trao đổi với các đại biểu tại Hội nghị Đoàn Chủ tịch lần thứ 11 (khóa IX)_Nguồn: mattran.org.vn

Những kết quả nổi bật và một số hạn chế khi thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ trong thời gian qua

Ngay sau khi Chương trình phối hợp số 30/CTPH-MTTW-TCTV, ngày 30-10-2018 được ký kết, Ban Thường trực đã cùng các tổ chức chính trị - xã hội triển khai thực hiện, trong đó tập trung vào thực hiện các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng, giám sát đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ.

Năm 2019, Ban Thường trực đã chủ trì phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội chủ động xây dựng kế hoạch để triển khai và thực hiện giám sát tại một số địa phương, như thành phố Đà Nẵng và tỉnh Hà Giang... Qua giám sát, Ban Thường trực đã có những kiến nghị cụ thể tới các cơ quan hữu quan về những nội dung liên quan đến đội ngũ cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ phát sinh trong thực tế.

Đến năm 2021, dù tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, nhưng hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội vẫn được thực hiện đồng bộ tới tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Trên cơ sở báo cáo việc thực hiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ của các tỉnh ủy, thành ủy và báo cáo của ban thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam của 58/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về kết quả giám sát đối với cấp ủy cấp huyện, cấp xã, có thể thấy công tác này đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. 

Thứ nhất, về giám sát việc triển khai, hướng dẫn, tổ chức thực hiện các quy định của Đảng về công tác cán bộ: Nhìn chung, cấp ủy các cấp đã kịp thời ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác cán bộ để lãnh đạo, quán triệt tổ chức thực hiện nghiêm túc tại địa phương, cơ sở. Tính riêng trong năm 2020, cấp ủy các cấp đã ban hành 6.250 văn bản nhằm chỉ đạo, phối hợp thực hiện các quy định liên quan đến công tác cán bộ, đảng viên. Hệ thống văn bản hướng dẫn khá chặt chẽ, đồng bộ; có những cách làm mới, phù hợp thực tiễn gắn với quy trình cán bộ được thực hiện dân chủ, công khai, minh bạch. Cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm đều hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, nhận được sự đồng thuận, ủng hộ của cán bộ, đảng viên, nhân dân. Cùng với việc triển khai thực hiện các quy định của Trung ương về công tác tổ chức, cán bộ, các địa phương đã xây dựng đề án về xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng đầy đủ các điều kiện, tiêu chuẩn, có phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Đối với việc triển khai các quy định của Trung ương về cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ có liên quan đến vai trò của MTTQ Việt Nam, cấp ủy các cấp cũng đã ban hành các chỉ thị, quy định và kế hoạch hằng năm để chỉ đạo các đơn vị triển khai thực hiện đầy đủ, kịp thời(2)

Thứ hai, qua giám sát việc thực hiện các quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, lao động hợp đồng theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP cho thấy, việc tuyển dụng cơ bản đúng quy trình theo quy định của Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Luật Viên chức năm 2010; các nghị định của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, viên chức; về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ... Việc thực hiện quy trình tuyển dụng công chức, viên chức thông qua hình thức thi tuyển và xét tuyển, cơ bản đúng tiêu chuẩn, quy trình. Việc xét tuyển viên chức được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm quy trình, tiêu chuẩn, có sự quan tâm đến các đối tượng ưu tiên, như gia đình chính sách, hộ nghèo, cán bộ nữ, cán bộ trẻ có thành tích học tập xuất sắc...; tuyển dụng theo đúng vị trí việc làm và phù hợp với bằng cấp chuyên môn được đào tạo cũng như yêu cầu công tác, hướng đến mục tiêu xây dựng đội ngũ công chức, viên chức trẻ, ngày càng có trình độ, năng lực, đáp ứng với yêu cầu trong tình hình mới. Một số địa phương căn cứ yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển để xem xét, tiếp nhận vào làm công chức đối với các trường hợp đáp ứng đủ điều kiện, tiêu chuẩn. Việc ký hợp đồng lao động cũng cơ bản bảo đảm đúng chỉ tiêu, trình độ, phù hợp với nhiệm vụ. Trong quá trình tuyển dụng công chức, viên chức và hợp đồng lao động không phát sinh đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của người dự tuyển. Tuy nhiên, trong năm 2020, do tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp, nên một số địa phương không thực hiện công tác tuyển dụng cán bộ, công chức.

Thứ ba, về giám sát quy định về bổ nhiệm cán bộ: Kết quả giám sát năm 2020 cho thấy, các cơ quan cấp tỉnh bổ nhiệm các chức danh quản lý cho 4.581 người, trong đó bổ nhiệm là 3.086 người, bổ nhiệm lại là 1.495 người. Các cơ quan cấp huyện thực hiện bổ nhiệm và bổ nhiệm lại các chức danh quản lý là 13.381 người. Các cơ quan cấp xã bổ nhiệm 6.797 người. Công tác bổ nhiệm cán bộ của các địa phương cơ bản được thực hiện đúng quy trình, quy định, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, chặt chẽ, thận trọng, hạn chế tối đa tình trạng chạy chức, chạy quyền, tạo môi trường cho cán bộ rèn luyện, cống hiến, trưởng thành. Quy trình bổ nhiệm cán bộ được áp dụng theo quy định của Bộ Chính trị về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ, bảo đảm đúng tiêu chuẩn, điều kiện của cán bộ về tiêu chuẩn chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ; đội ngũ cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Điều quan trọng là, các quy trình bảo đảm yêu cầu phân cấp, phân quyền, được thực hiện nghiêm túc, rà soát kỹ từng trường hợp.

Trong quá trình giám sát, khi phát hiện những vấn đề thiếu sót, chưa rõ, bộ phận chuyên môn của cơ quan MTTQ Việt Nam các cấp đã kịp thời trao đổi với cấp ủy, chính quyền một số địa phương để nắm bắt thêm thông tin(3), đề nghị giải trình từng trường hợp và rút kinh nghiệm trong thời gian tới. Đối với trường hợp cán bộ có dấu hiệu vi phạm về điều kiện, tiêu chuẩn, quy trình bổ nhiệm, ban thường trực ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp kịp thời ban hành công văn đề nghị cấp ủy địa phương rà soát để xử lý theo đúng quy định(4).

Thứ tư, về chuyển đổi vị trí công tác: Kết quả giám sát cho thấy, cấp tỉnh đã thực hiện chuyển đổi vị trí công tác đối với 4.942 trường hợp cán bộ, công chức, viên chức. Cấp huyện chuyển đổi 3.362/3.956 trường hợp trong diện chuyển đổi vị trí công tác (đạt 84,9%), còn 594 trường hợp chưa chuyển đổi (chiếm 15,1%). 

Nhìn chung, công tác chuyển đổi vị trí việc làm được cấp ủy các cấp quan tâm, chỉ đạo kịp thời, thường xuyên, bảo đảm đúng theo quy trình, thủ tục, góp phần thực hiện tốt Luật Phòng, chống tham nhũng. Mặt tích cực của chuyển đổi vị trí việc làm là giúp nhiều công chức, viên chức có điều kiện rèn luyện bản lĩnh, nâng cao tinh thần trách nhiệm, nâng cao năng lực, khả năng thích nghi, nắm bắt địa bàn, đối tượng quản lý; từ đó, tham mưu các giải pháp tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn bảo đảm hiệu quả tốt. Nhiều công chức bày tỏ sẵn sàng nhận nhiệm vụ mới, phục tùng tuyệt đối sự phân công của tổ chức. Việc chuyển đổi vị trí việc làm góp phần hạn chế tình trạng khép kín, cục bộ, tiêu cực trong thực thi công vụ.

Thứ năm, kết quả giám sát về kê khai và công khai tài sản đối với cán bộ, công chức, viên chức của các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng và chính quyền, cơ quan hành chính nhà nước các cấp cho thấy, qua thống kê chưa đầy đủ của các địa phương trong năm 2020, ở cấp tỉnh, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu là 447.910 người, trong đó số người đã kê khai tài sản lần đầu là 447.579 người (đạt 99,9%). Ở cấp huyện, số người có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập lần đầu là 182.795 người, số người đã kê khai tài sản lần đầu là 181.478 người (đạt 99,3%). 

Việc thực hiện công khai bản kê khai tài sản bằng hình thức niêm yết tại nơi làm việc của cán bộ hoặc công khai bản kê khai tại cuộc họp được tiến hành theo đúng quy định. Hồ sơ lưu trữ được thiết lập theo quy định; danh sách người có nghĩa vụ phải kê khai tài sản, thu nhập lần đầu, các bản kê khai tài sản của người kê khai được lập đầy đủ; việc giao nhận bản kê khai được thực hiện nghiêm túc; biên bản niêm yết bản kê khai tài sản, thu nhập của từng cơ quan, đơn vị được thực hiện chặt chẽ. Kết quả triển khai thực hiện công tác kiểm soát tài sản, thu nhập được báo cáo cơ quan có thẩm quyền theo quy định.

Thứ sáu, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân (HĐND) các cấp, một trong những tiêu chuẩn luôn được nhấn mạnh và thảo luận, xem xét kỹ lưỡng là: Người ứng cử phải gương mẫu chấp hành pháp luật, kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng và các vi phạm pháp luật. Quy trình hiệp thương lựa chọn, giới thiệu người ứng cử được ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp tuân thủ triệt để. Tổ chức Mặt trận đã lựa chọn, giới thiệu những người ứng cử bảo đảm đúng cơ cấu, thành phần, số lượng, không đưa vào danh sách những ứng cử viên có dấu hiệu tham nhũng, không trung thực trong kê khai tài sản hoặc vi phạm pháp luật về bầu cử. Đối với những người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND sau khi MTTQ Việt Nam tổ chức lấy ý kiến cử tri nơi cư trú mà có số phiếu tín nhiệm thấp thì đều không được các cấp hiệp thương của tổ chức mặt trận đưa vào danh sách hiệp thương chính thức (loại khỏi danh sách ứng cử viên đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND)(5). Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã thực hiện nghiêm nhiệm vụ giám sát bầu cử, góp phần bảo đảm các cuộc bầu cử diễn ra dân chủ, lựa chọn được những ứng cử viên xứng đáng để giữ những chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước.

Thứ bảy, việc giám sát công tác tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán, kiểm sát viên cũng được quan tâm thực hiện thường xuyên. Hằng năm, đại diện Ban Thường trực là thành viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đều thực hiện việc đánh giá, thẩm định, cho ý kiến đối với các hồ sơ của người được đề nghị bổ nhiệm làm kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân tối cao(6); là thành viên Hội đồng thi tuyển kiểm sát viên cao cấp, trung cấp và sơ cấp, thực hiện việc cho ý kiến vào danh sách đề nghị thi tuyển kiểm sát viên và danh sách đề nghị được bổ nhiệm kiểm sát viên các cấp theo quy định. 

Sự tham gia của MTTQ Việt Nam trong công tác tuyển chọn thẩm phán, kiểm sát viên đã góp phần giúp cho các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước bổ nhiệm được đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên có đủ năng lực, phẩm chất, đáp ứng được yêu cầu, chất lượng đội ngũ cán bộ của các cơ quan tư pháp trong giai đoạn mới(7).

Hoạt động giám sát công tác tổ chức, cán bộ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian qua, nhất là từ khi có Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Bộ Chính trị, đã thu được những kết quả có ý nghĩa trên nhiều phương diện. Điều này góp phần tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức đối với vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam. Các hoạt động giám sát công tác tổ chức, cán bộ được đông đảo các tầng lớp nhân dân quan tâm theo dõi và đồng tình ủng hộ, các cơ quan thông tin đại chúng cũng  hưởng ứng và tích cực tuyên truyền cho các hoạt động này. 

Bên cạnh những kết quả đạt được, qua giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ, Ban Thường trực nhận thấy vẫn còn những hạn chế nhất định. Nhận thức của một số cấp ủy và tổ chức đảng về công tác giám sát cán bộ, đảng viên và công tác cán bộ có mặt chưa đầy đủ. Sau giám sát, xử lý vi phạm ở một số nơi còn thiếu kiểm tra việc khắc phục, sửa chữa những sai phạm, thiếu sót của cán bộ, đảng viên. Tâm lý ngại va chạm, nể nang, né tránh, thiếu bản lĩnh khi thực hiện nhiệm vụ giám sát công tác tổ chức, cán bộ cũng ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả của hoạt động giám sát.

Vai trò chủ động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp trong tham mưu, đề xuất với cấp ủy, phối hợp các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ giám sát công tác tổ chức, cán bộ có nơi còn hạn chế hoặc khi có dư luận thì mới tiến hành giám sát; hoạt động giám sát thiếu tính thường xuyên.

Khi tiến hành quy trình giám sát liên quan đến công tác cán bộ còn nhiều lúng túng, khó khăn nhất định. Hạn chế này mang nhiều yếu tố chủ quan; bởi lẽ yêu cầu đặt ra đối với cán bộ làm công tác giám sát là phải nắm chắc các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ, trong khi hầu hết cán bộ làm công tác giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội lại chưa được đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ, chủ yếu mới chỉ được tập huấn ngắn hạn do MTTQ Việt Nam triển khai trong hệ thống

Trong khi đó, sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên trong thực hiện giám sát công tác cán bộ còn chưa nhịp nhàng; việc xác định nội dung, phương pháp, hình thức giám sát còn nhiều lúng túng; chất lượng giám sát có lúc chưa cao; việc giải quyết kiến nghị của một số ngành, chính quyền địa phương còn chậm.

Giải pháp phát huy vai trò giám sát công tác tổ chức, cán bộ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy để phát huy vai trò giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đó, MTTQ Việt Nam sớm hoàn thiện Đề án trình Ban Bí thư ban hành Chỉ thị về tăng cường công tác lãnh đạo của Đảng đối với công tác giám sát, phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong thời gian tới. Đây là văn bản quan trọng để lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy các cấp tăng cường hoạt động giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức, cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thực sự hiệu quả.

Cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát (Trong ảnh: Các đại biểu tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ IX)_Ảnh: TTXVN

Thứ hai, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần chủ động nghiên cứu kỹ các văn bản của Đảng, quy định của Nhà nước để từ đó đề xuất, kiến nghị sửa đổi, bổ sung hoàn thiện cơ chế giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong tình hình mới. Giám sát công tác tổ chức, cán bộ là việc khó; vì vậy, đòi hỏi hệ thống pháp luật phải quy định toàn diện, đầy đủ, cụ thể và rõ ràng các vấn đề liên quan. Yêu cầu này tạo cơ sở pháp lý không chỉ cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, mà còn là cơ sở để các cơ quan, tổ chức, nhất là những đối tượng chịu sự giám sát phải thực hiện nghiêm.

Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức khác trong thực hiện giám sát công tác tổ chức, cán bộ. Hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam chỉ có thể phát huy hiệu quả tốt khi có sự phối hợp và thực hiện một cách đồng bộ với các hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát của các cơ quan, tổ chức khác trong hệ thống chính trị. Vì vậy, cần tăng cường kết hợp giữa hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức thành viên với hoạt động thanh tra của các cơ quan nhà nước, hoạt động kiểm tra của Đảng và hoạt động giám sát của Quốc hội, HĐND các cấp... Như vậy, sẽ góp phần làm cho hoạt động giám sát của MTTQ Việt Nam ngày càng hiệu quả, huy động được các cơ quan, tổ chức và nhân dân tham gia, sẽ tạo sức mạnh trong giám sát.

Thứ tư, việc giám sát công tác tổ chức, cán bộ và giám sát đối với cán bộ, đảng viên phải được thực hiện thường xuyên; cần sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm việc triển khai các hoạt động giám sát công tác tổ chức cán bộ trong thời gian qua để lựa chọn những nội dung giám sát sao cho sát - đúng, có trọng tâm, trọng điểm phù hợp với điều kiện thực tế của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.

Thứ năm, để thực hiện tốt việc giám sát công tác cán bộ, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội cần thu hút và sử dụng được những người thực sự có đức, có tài, có bản lĩnh, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm trong hoạt động giám sát. Tăng cường các biện pháp nâng cao trình độ đội ngũ lãnh đạo mặt trận các cấp, có chính sách quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ có năng lực, trình độ, phẩm chất, đạo đức để thực hiện giám sát. Tập hợp, phát huy tối đa tiềm năng to lớn của các tổ chức thành viên và các cá nhân tiêu biểu, các nhân sĩ, trí thức, các nhà khoa học, các hội đồng tư vấn để họ cùng tham gia các hoạt động giám sát, giúp nâng cao chất lượng giám sát nói chung và giám sát công tác tổ chức cán bộ nói riêng của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Đối với các địa phương, cần quan tâm đẩy mạnh công tác tập huấn, trao đổi kinh nghiệm về phương pháp, cách làm hiệu quả, tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giám sát của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; các cán bộ làm công tác mặt trận ở cơ sở cần được trang bị tốt kiến thức về chính sách, pháp luật để thực hiện giám sát có hiệu quả./.

-----------------

(1) Như: Quy chế Giám sát và phản biện xã hội của MTTQ Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội (Ban hành kèm theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị) và Quy định về việc MTTQ Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền (Ban hành kèm theo Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị); giám sát việc thực hiện Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; giám sát việc thực hiện Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”.

(2) Quyết định số 99-QĐ/TW, ngày 3-10-2017, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về “Ban hành Hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 7-6-2012, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 124-QĐ/TW, ngày 2-2-2018, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”; Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, của Bộ Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền”; Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020, của Bộ Chính trị, “Về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”.

(3) Đề nghị Thường trực Tỉnh ủy các tỉnh: Yên Bái, Lạng Sơn, Nghệ An, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Bình Thuận, Bắc Kạn bổ sung thông tin về bằng cấp chuyên môn, trình độ lý luận chính trị, danh sách tuyển dụng công chức, danh sách bổ nhiệm...

(4) Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam ban hành văn bản số 3237/MTTW-BTT, đề nghị báo cáo về thực hiện quy trình bổ nhiệm cán bộ, đề nghị Tỉnh ủy Lào Cai báo cáo cụ thể về thực hiện quy trình, điều kiện bổ nhiệm cán bộ đối với đồng chí Đàm Quang Vinh và kết quả kiểm tra, xác minh, xử lý thông tin Báo Lao động nêu. Ngày 7-12-2021, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nhận được Báo cáo số 195-BC/TU, ngày 2-12-2021, của Tỉnh ủy Lào Cai, “Về việc thực hiện quy trình, điều kiện bổ nhiệm đồng chí Đàm Quang Vinh giữ chức vụ Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai và xác minh thông tin”, đề nghị Ban Bí thư Trung ương Đảng thi hành kỷ luật đối với đồng chí Đàm Quang Vinh; ngày 25-11-2021, Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai đã ban hành Quyết định số 4135/QĐ-UBND, kỷ luật công chức với hình thức buộc thôi việc đối với đồng chí Đàm Quang Vinh, Chánh Thanh tra tỉnh Lào Cai.

(5) Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016 - 2021, so với danh sách trình ra Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất, qua các lần hiệp thương, ủy ban MTTQ Việt Nam các cấp đã loại khỏi danh sách hiệp thương chính thức 150 ứng cử viên đại biểu Quốc hội và 63.607 ứng cử viên đại biểu hội đồng nhân dân các cấp do đã phát hiện vi phạm chính sách, pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, vi phạm đạo đức, lối sống và không được cử tri nơi công tác, nơi cư trú tín nhiệm (Báo cáo số 259/BC-MTTW, ngày 8-7-2016, của Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam về tổng kết công tác Mặt trận tham gia bầu cử).

Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021 - 2026, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam thành lập 9 đoàn kiểm tra, giám sát công tác bầu cử, trong đó, tổ chức kiểm tra, giám sát trực tiếp tại 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp tỉnh đã chủ trì tổ chức 480 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 845 đoàn; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp huyện đã chủ trì tổ chức 2.764 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 4.269 đoàn; ủy ban MTTQ Việt Nam cấp xã đã chủ trì tổ chức 18.490 đoàn kiểm tra, giám sát về công tác bầu cử, phối hợp, tham gia thực hiện kiểm tra, giám sát 23.696 đoàn công tác bầu cử.

(6) Năm 2020, đại diện Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã cho ý kiến về 8 hồ sơ bổ nhiệm kiểm sát viên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; cho ý kiến đối với 1.561 hồ sơ dự thi kiểm sát viên, viện kiểm sát nhân dân các cấp.

(7) Năm 2020, đại diện Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam là thành viên Hội đồng tuyển chọn, giám sát thẩm phán quốc gia đã phối hợp cho ý kiến đối với 729 hồ sơ bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, miễn nhiệm, bãi nhiệm thẩm phán tòa án nhân dân các cấp.