Thứ Tư, 17 tháng 8, 2022

TĂNG CƯỜNG BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ, YÊU CẦU VÀ NHIỆM VỤ TRONG TÌNH HÌNH MỚI

 Bảo vệ chính trị nội bộ là một trong những nội dung quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; có ý nghĩa sống còn đối với sinh mệnh của Đảng, sự sống còn của chế độ và lợi ích quốc gia-dân tộc. Đảng ta xác định: Bảo vệ chính trị nội bộ chính là bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, bảo đảm cho cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Bảo vệ chính trị nội bộ luôn là yêu cầu khách quan, nhiệm vụ cần kíp, cấp bách hiện nay, bởi vì: (1) Bảo vệ chính trị nội bộ có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là mỗi khi cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, Đảng ta đều đề ra chủ trương, biện pháp bảo vệ chính trị nội bộ cho phù hợp với tình hình, yêu cầu nhiệm vụ nhằm nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Đảng, Nhà nước và thành quả cách mạng; phê phán những quan điểm sai trái, thù địch, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội. (2) Thực hiện nghiêm chế độ, thủ tục, quy định, quy chế quản lý cán bộ, đảng viên trong nội bộ, giữ gìn kỷ luật phát ngôn, bảo vệ bí mật nhà nước, bí mật nội bộ của Đảng. Đảng ta coi đây là khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc tổ chức triển khai, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI. (3) Nghiên cứu, phát hiện và xử lý kịp thời những phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất, những đối tượng bị các tổ chức phản động móc nối, lôi kéo, mua chuộc cài cắm vào nội bộ ta. Không để sơ hở, lộ lọt, mất thông tin, bí mật quốc gia để các thế lực thù địch lợi dụng viết bài, tung tin xấu, độc, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. (4) Mấu chốt của bảo vệ chính trị nội bộ là nắm chắc tình hình chính trị nội bộ của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và tổ chức đảng, giải quyết thỏa đáng những vấn đề vướng mắc, thực hiện tốt chủ trương lấy phòng ngừa, chủ động giữ vững bên trong là chính.Tăng cường bảo vệ chính trị nội bộ, yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình mới. Đại hội XIII của Đảng đã xác định bài học kinh nghiệm về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là “làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”. Đồng thời, xác định “tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, chú trọng nắm vấn đề chính trị hiện nay. Chủ động đấu tranh, phòng ngừa có hiệu quả với hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị, nhất là các thông tin xấu, độc trên mạng xã hội. Kiên quyết đấu tranh xử lý nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, những cán bộ, đảng viên, những người lợi dụng phương tiện thông tin đại chúng, internet, mạng xã hội để xuyên tạc, kích động, gây mất đoàn kết nội bộ”. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI xác định: Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ; các biện pháp bảo vệ bí mật, bảo đảm an ninh, an toàn hoạt động của Đảng, Nhà nước và quân đội. Chủ động phòng ngừa, ngăn chặn các hoạt động xâm nhập, cài cắm, móc nối, phá hoại nội bộ của các thế lực thù địch, góp phần xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để xây dựng Quân đội ta tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Phương châm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là chủ động phòng ngừa là chính, kịp thời phát hiện, xử lý dứt điểm những vi phạm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; thận trọng đánh giá, khách quan khi giải quyết các vấn đề chính trị nội bộ. Trong xem xét lịch sử chính trị với những vấn đề chính trị hiện nay, thì xem xét vấn đề chính trị hiện nay là chính; giữa bản thân với quan hệ gia đình thì bản thân là chính; giữa quản lý đầu vào với xử lý đầu ra thì quản lý đầu vào là chính; giữa xử lý với sử dụng thì sử dụng là chính. Qua đó, giải đáp được các câu hỏi: Hiện tại người cán bộ, đảng viên như thế nào, có đủ tiêu chí, tiêu chuẩn chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ, có đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới hay không?. 

Trong thời gian qua, các cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương, Quân ủy Trung ương đến tổ chức cơ sở đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ; nắm chắc tình hình, rà soát, thẩm tra vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay nên công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đề bạt cán bộ, phục vụ kịp thời, hiệu quả công tác nhân sự. Kết quả nổi bật của công tác bảo vệ chính trị nội bộ là đã góp phần quan trọng khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội cũng như củng cố niềm tin của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quân đội; cán bộ, chiến sĩ quân đội cùng toàn Đảng, toàn dân bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ vẫn còn những hạn chế nhất định cần phải tiếp tục giải quyết tốt hơn, nhất là khắc phục sự bị động, lúng túng trong rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị của các đối tượng; nắm và quản lý tình hình chính trị nội bộ sâu sát, kịp thời hơn. Thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước của một số cơ quan, đơn vị, cá nhân cần nghiêm túc hơn, không để xảy ra sơ hở, mất cảnh giác, kể cả ở cơ quan, đơn vị, vị trí trọng yếu, cơ mật. Cùng với đó, phải phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng thường xuyên, chặt chẽ hơn. Trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực và trong nước tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nhất là tác động, ảnh hưởng tiêu cực của cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraine đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, điều đó đặt ra nhiều vấn đề mới cho công tác bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới. Vì vậy, cần nghiên cứu, thực hiện các yêu cầu để góp phần: (1) Hạn chế đến mức thấp nhất những tác động, ảnh hưởng tiêu cực từ tình hình thế giới, khu vực đến tâm lý, tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và một số tác động tiêu cực đến tình hình chính trị nội bộ. (2) Giải quyết kịp thời những vấn đề mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ. (3) Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vi phạm các tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất đạo đức, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố và nâng cao uy tín; xây dựng niềm tin của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai đồng bộ, toàn diện các giải pháp, biện pháp cụ thể, khả thi để nâng cao hơn nữa trình độ nhận thức, hiểu biết về vị trí, vai trò, nội dung, yêu cầu, nhiệm vụ của công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và nhân dân, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Hai là, kết hợp chặt chẽ giữa công tác bảo vệ chính trị nội bộ với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu; sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Ba là, chấp hành nghiêm và thực hiện đầy đủ, hiệu quả các quy định của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, công tác cán bộ, nhất là các quy định về bảo mật, không để lộ, lọt, mất thông tin; không viết bài, đưa tin, phát ngôn sai quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội và trong quân đội; thực hiện nghiêm Quy định số 126-QĐ/TW ngày 28-2-2018 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về quy định những điều đảng viên không được làm. Thực hiện tốt các phương châm trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ nhằm không bỏ sót những người có năng lực, trình độ trong quá trình thực hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ.

Bốn là, thường xuyên thực hiện tốt công tác nắm tình hình, rà soát chính trị nội bộ. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh và có biện pháp sử dụng, quản lý cán bộ, đảng viên phù hợp đối với những trường hợp có vấn đề chính trị. Thực hiện tốt hơn nữa việc kê khai bổ sung lý lịch đảng viên, kiểm tra thẻ đảng, hộ chiếu, các giấy tờ liên quan đến cán bộ, đảng viên, chiến sĩ; kê khai các hoạt động đi ra nước ngoài, quan hệ với nước ngoài của cán bộ, đảng viên để kịp thời phát hiện vi phạm và uốn nắn.

Năm là, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức, bố trí cán bộ làm công tác bảo vệ an ninh ở các cấp. Chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao hơn nữa vai trò của cơ quan, cán bộ chuyên trách, kiêm nhiệm làm công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nâng cao ý thức trách nhiệm, niềm vinh dự, tự hào của cán bộ, đảng viên được bổ nhiệm, đề bạt, cử đi học, ra nước ngoài. Đồng thời, xem xét kỹ lưỡng về mặt chính trị, nhất là việc nhận xét, đánh giá bảo đảm của cơ quan bảo vệ an ninh theo phân cấp.

Bảo vệ chính trị nội bộ là nội dung hết sức quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng, xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị. Với sự quyết tâm cao, công tác bảo vệ chính trị nội bộ sẽ tiếp tục đạt được những kết quả tốt góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


NHỮNG LỖ KIM ĐỦ CHO VOI CHUI LỌT

 Đại án ở ngành y tế, ngoại giao chưa dừng lại; sai phạm trong quản lý đất đai, quản lý tài sản công xảy ra ở nhiều địa phương trên cả nước, điển hình là Bình Dương, Bình Thuận, Khánh Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... đã dấy lên vấn đề: Lỗi do phẩm chất cán bộ hay do cơ chế, chính sách, luật pháp? Có thể thấy, khi cán bộ thoái hóa về phẩm chất đạo đức, lại chủ ý lợi dụng sự chưa hoàn thiện của cơ chế, kẽ hở của chính sách, pháp luật để trục lợi thì con đường từ đỉnh cao quyền lực đến "xộ khám" là tất yếu. Trong tiến trình xây dựng luật pháp và chính sách, Đảng, Nhà nước đang quyết tâm để hoàn thiện các hệ thống này.

Từ kẽ hở luật pháp về đất đai...Trong số hàng loạt cán bộ vướng vào vòng lao lý thì số có liên quan đến sai phạm trong lĩnh vực đất đai không nhỏ. Thực tế cho thấy, khoảng 70% các vụ khiếu kiện hiện nay liên quan đến đất đai, nhiều vụ có tính chất phức tạp, kéo dài. Trong số những đơn thư khiếu kiện mà chúng tôi có điều kiện tiếp cận, phần lớn có nội dung không đồng thuận trong thu hồi, đền bù, áp giá đất giữa cơ quan nhà nước, doanh nghiệp với người bị thu hồi đất. Luật Đất đai năm 1987 ra đời đã đóng vai trò quan trọng, thực hiện được sứ mệnh tạo ra khung khổ pháp lý hoàn thiện hơn trong lĩnh vực đất đai. Cho đến Luật Đất đai năm 2013, qua gần 9 năm thực hiện, luật đã giải quyết được nhiều tồn tại phát sinh trong thực tiễn. Tuy nhiên, trước thực tiễn thay đổi nhanh chóng, Luật Đất đai năm 2013 đã dần bộc lộ một số bất cập, trong đó có những kẽ hở, gây ra nhiều hệ lụy xã hội. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng phát biểu: “Nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em, đồng chí cũng vì đất”. Hàng loạt đại án liên quan đến đất đai ở các địa phương cho thấy lĩnh vực này đã phát hiện nhiều sai phạm, phổ biến nhất là sai phạm trong giao đất, cho thuê đất, thu hồi, đền bù đất, định giá đất, đấu giá đất dẫn đến tình trạng trục lợi về đất rất lớn. Giá đất được xác định trong các trường hợp này thường thấp hơn nhiều so với giá đất trên thị trường, một mặt gây bức xúc dư luận, mặt khác đã để những kẻ cơ hội trục lợi. Các chuyên gia cho rằng, luật pháp hiện hành đang giao cho UBND cấp tỉnh, thành phố quá nhiều quyền, trong đó có quyền quyết định giá đất. Nhiều tổ chức, cá nhân lợi dụng điều này để thâu tóm, trục lợi đất. Thế mới có chuyện, có nơi người dân bị thu hồi đất được đền bù số tiền ít ỏi nhưng lại phải bỏ ra số tiền gấp nhiều lần số tiền được đền bù trả cho doanh nghiệp để mua lại một phần diện tích đất của mình bị thu hồi trước đó. Tất nhiên, diện tích đất ấy đã được chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất ở, đất thương mại. Một kẽ hở khác trong luật pháp về đất đai, đó là các chế tài chưa bảo đảm cho thị trường bất động sản phát triển lành mạnh, minh bạch. Vụ việc điển hình gần đây là việc đấu giá 4 lô đất ở Thủ Thiêm (TP Hồ Chí Minh) đã cho thấy sự nguy hiểm trong lĩnh vực này. Dư luận đi từ ngỡ ngàng đến bàng hoàng khi mức trúng đấu giá của một công ty con thuộc Tập đoàn Tân Hoàng Minh lên tới 2,4 tỷ đồng/m2. Ngay sau đó, thị trường giá đất trên cả nước như "diễn xiếc", đẩy lên cao ngất ngưởng. Nhưng trớ trêu là, cuối cùng, cả 4 đơn vị trúng đấu giá này đều bỏ cọc và không nộp tiền sử dụng đất. Dư luận té ngửa khi biết rằng, luật pháp về vấn đề này chưa chặt chẽ. Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc từng phát biểu: “Có những trường hợp, vốn vay lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu nhưng vẫn phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động tiền, rồi lấy tiền đó đi buôn bán bất động sản. Như vụ việc đấu giá đất ở Thủ Thiêm là điển hình của việc làm nhiễu loạn thị trường". Đất đai bị đầu cơ hoặc lạm dụng sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền kinh tế, gây tác hại khôn lường. Nếu cú áp phe trong vụ đấu giá đất ở Thủ Thiêm trót lọt thì sự trục lợi của các nhóm lợi ích đã toan tính là rất lớn, sẽ lại có những tỷ phú đất mới xuất hiện. Một thực tế đáng suy nghĩ, đó là nhiều tỷ phú, triệu phú ở nước ta giàu có từ kinh doanh đất đai, bất động sản, hoặc khởi đầu từ lĩnh vực này. Sự giàu có từ buôn bán đất đai trên thực tế không tạo ra nhiều giá trị gia tăng về của cải vật chất như lĩnh vực sản xuất. Một hiện tượng bất thường trong xã hội, đó là rất nhiều người dân “chân đất” cũng đi buôn bán đất, đầu cơ đất. Thị trường mua bán đất ngầm hoạt động rầm rộ, lượng tiền giao dịch thực tế rất lớn nhưng số thuế Nhà nước thu được lại không phản ánh đúng thực tế. Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về "Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao" cũng chỉ ra: “Chính sách, pháp luật về đất đai còn nhiều hạn chế, bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý, tạo kẽ hở để không ít cá nhân, tổ chức lợi dụng, tham nhũng, trục lợi, gây thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước”. Bởi thế, việc hoàn thiện thể chế, chính sách, luật pháp trong lĩnh vực đất đai vừa cấp bách, vừa lâu dài.

Vấn đề nhức nhối trong quản lý tài sản công đã thường xuyên làm nóng các cuộc họp, trao đổi từ nghị trường cho đến bàn trà, quán cóc. Sở dĩ tài sản công rất được quan tâm bởi đó là nguồn lực quan trọng của quốc gia. Nhiều cán bộ biến chất, nhiều “nhóm lợi ích” đã tìm mọi cách để đục khoét. Vì sao một cá nhân như Phan Văn Anh Vũ (Vũ "nhôm") có thể lấy được mấy chục trụ sở nhà đất vốn thuộc các cơ quan nhà nước, ở các vị trí đắc địa? Vì sao trong vụ AVG (sai phạm ở Tổng công ty Viễn thông Mobifone), các đối tượng có thể chia chác được nhiều nghìn tỷ đồng bằng một hợp đồng “diễn xiếc” qua mặt các cơ quan chức năng có trách nhiệm thẩm định, giám sát? Vì sao sau cổ phần hóa, một số đất đai, nhà máy, xí nghiệp, tài sản của tập thể, sở hữu nhà nước trước đây đã rơi vào tay một vài cá nhân, trở thành của tư? Không chỉ vậy, có những tài sản nhà nước trong tổ chức, doanh nghiệp cũng bị rơi vào tay cá nhân, hoặc bị sử dụng lãng phí, bị thâu tóm với giá "bèo". Dư luận không khỏi xót xa với những dây chuyền mua sắm công nghệ cũ, lạc hậu của một số nhà máy đường, xi măng, nhà máy gang thép, đóng tàu... sau một thời gian ngắn đã phải "đắp chiếu".

Có thể nói rằng, cùng với Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017 và các văn bản pháp luật, chúng ta đã có hệ thống pháp luật quản lý tài sản công khá đầy đủ, giúp từng bước chấn chỉnh việc quản lý không chặt chẽ tài sản công. Tuy vậy, trên thực tế, tình trạng làm sai pháp luật, lợi dụng kẽ hở để lách luật vẫn rất đáng lo ngại. Điển hình là một số lĩnh vực trong thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị công lập; thực hiện hợp đồng BT, BOT; cơ chế quản lý, hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty, tổ chức tín dụng... Tại Hội thảo “Đổi mới quản lý tài sản công ở nước ta gắn với phòng, chống “nhóm trục lợi” được tổ chức mới đây, PGS, TS Đoàn Minh Huấn, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản cho rằng, nhận diện "nhóm trục lợi", những lỗ hổng trong quản lý tài sản công, đúc rút bài học kinh nghiệm và kiến nghị để hoàn thiện, bổ sung chính sách... là vấn đề khó của mọi quốc gia và là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.

 Nhiều chuyên gia trong lĩnh vực quản lý đã chỉ ra, trong quản lý tài sản công vẫn chưa rõ trách nhiệm của các chủ thể thực thi quyền tài sản công, gồm người định đoạt tài sản, người chiếm hữu, quản lý tài sản, người sử dụng tài sản. Cũng từ thực tế cho thấy, tình trạng người đứng đầu cơ quan, đơn vị không ban hành quy chế quản lý, sử dụng tài sản công để tổ chức thực hiện không hiếm. Điều này dẫn đến một số nơi tài sản công bị quản lý lỏng lẻo, không rõ trách nhiệm. Những sai phạm này không được thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát kịp thời dẫn tới hậu quả xảy ra trong thời gian dài, phức tạp, rất khó khắc phục. Ngay trong phiên chất vấn và trả lời chất vấn về công tác quản lý, khai thác, sử dụng quỹ nhà, đất thuộc quản lý nhà nước trên địa bàn TP Hà Nội diễn ra đầu tháng 7-2022, các đại biểu Hội đồng nhân dân TP Hà Nội đã chất vấn việc thành phố có 802/803 hợp đồng nhà chưa được gia hạn, chưa được ký và có sai phạm trong sử dụng nhà chuyên dùng. Đặc biệt, nợ nghĩa vụ tài chính của các tổ chức, cá nhân sử dụng nhà chuyên dùng trên địa bàn TP Hà Nội khoảng 1.200 tỷ đồng kéo dài nhiều năm và xu hướng ngày càng tăng. Đây cũng là thực trạng chung ở một số địa phương hiện nay.

 Cũng theo các chuyên gia, trong quản lý tài sản công, điều quan trọng là phải bằng mọi quy định pháp luật để từng bước loại bỏ hoàn toàn cơ chế “xin-cho”. Nếu đâu đó còn việc phân bổ nguồn lực theo cơ chế “xin-cho”, quan hệ thân hữu không dựa trên cơ chế thị trường và cạnh tranh công bằng thì nơi đó chắc chắn hình thành “nhóm lợi ích”, “nhóm trục lợi”. Loại bỏ dứt điểm cơ chế "xin-cho" phải bằng chế tài pháp luật chặt chẽ chứ không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Để phòng, chống tham nhũng hiệu quả, nhất là lĩnh vực quản lý tài sản công, tài chính công, chúng ta nên nghiên cứu xây dựng Luật Đăng ký tài sản. Chế tài luật để xử lý hiện tượng nhiều người đang đứng tên, chiếm, sở hữu tài sản mà có thể đó là hợp pháp hay không hợp pháp, có chứng minh được nguồn gốc hợp pháp hay không. Đó cũng là chế tài để xử lý tình trạng các đối tượng tham nhũng che giấu tài sản.

Hơn 20 năm trước đây, đăng đàn trước Quốc hội, một vị chánh án từng phát biểu gây xôn xao dư luận, nêu ra thực trạng đáng suy ngẫm, đó là tình trạng luật pháp của chúng ta tạo ra những cách hiểu khác nhau. Ông nói điều đó nhằm cảnh báo về hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh. Luật pháp và chính sách là xương sống trong quản trị quốc gia. Đảng, Nhà nước không bao biện và luôn nhìn thẳng vào thực tế để thấy rằng, chúng ta có hệ thống pháp luật tương đối đầy đủ; có rất nhiều chính sách tiến bộ, phù hợp với thực tiễn, đặc biệt những chính sách về an sinh xã hội bảo đảm tốt nhất quyền con người. Dù vậy, còn những văn bản luật, những chính sách cần nghiên cứu sâu từ thực tiễn để điều chỉnh cho phù hợp, nhất là những bộ luật, chính sách có ảnh hưởng lớn đến đời sống xã hội như đã phân tích. Đại dịch Covid-19 đã cho chúng ta thêm góc nhìn khách quan về các chính sách ở nhiều lĩnh vực, trong đó có chính sách công. Ở những thời điểm khó khăn nhất, về cơ bản, đội ngũ ngành y vẫn quyết tâm, làm việc hết mình, sẵn sàng xả thân nơi gian khó. Nhưng sau một thời gian dài trên tuyến đầu chống dịch, chính sách tiền lương, chế độ ưu đãi với họ không phù hợp sức lao động bỏ ra đã khiến hàng nghìn nhân viên ngành y rời hệ thống y tế công lập. Không chỉ ngành y, nhiều ngành nghề đang có những bất cập giữa lương và thu nhập, giữa lao động và hưởng thụ, giữa quyền lợi và trách nhiệm.

Không thể phủ nhận, tiến trình từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật luôn được Đảng, Nhà nước ta coi trọng. Chúng ta có đủ các chế tài bao quát mọi lĩnh vực và thượng tôn pháp luật đang đóng vai trò chủ đạo trong quản lý nhà nước. Tuy vậy, cũng như bất cứ quốc gia nào, Việt Nam đang trên con đường hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN, một mô hình nhà nước chưa có sẵn. Lập pháp (bao gồm cả sửa luật) phải tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ và không phải bao giờ cũng dự báo được mọi tình huống xảy ra. Hơn nữa, việc này cần thực tiễn chứng minh. Bởi thế, những khoảng trống, kẽ hở, khiếm khuyết trong quá trình thực thi pháp luật là khó tránh khỏi. Yếu tố cốt lõi chúng ta đang làm là tiếp tục xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, quản lý kinh tế-xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể tham nhũng, tiêu cực".Có đầy đủ cơ sở lý luận và thực tiễn để trả lời câu hỏi "Hàng loạt “quan chức” hầu tòa thì lỗi tại phẩm chất hay cơ chế?".Các Mác từng luận giải một cách thuyết phục: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Luận điểm này đã trở thành nền tảng, cơ sở khoa học khi nghiên cứu, giải quyết vấn đề bản chất con người. Những quan chức, cán bộ sai phạm có cả nguyên nhân do phẩm chất đạo đức, cả nguyên nhân do kẽ hở về cơ chế, chính sách, pháp luật. Trong mối quan hệ này, lỗi do sự suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ mang tính quyết định. Cơ chế, chính sách, pháp luật có lỗ hổng là điều kiện để thúc đẩy họ vi phạm. Hay có thể nói, những cán bộ này là những người cơ hội chủ nghĩa. Ở một góc nhìn khác, một phần nguyên nhân dẫn tới luật pháp, chính sách của chúng ta có những kẽ hở, còn hạn chế cũng có yếu tố do chủ quan phẩm chất đạo đức của chính đội ngũ cán bộ có trách nhiệm, nghĩa vụ xây dựng hệ thống luật pháp, chính sách đó. Luật pháp, chính sách cũng là do con người xây dựng nên. Loại bỏ yếu tố về trình độ, năng lực còn hạn chế khi xây dựng luật thì tình trạng xây dựng luật pháp, chính sách theo kiểu “cuốc giật vào lòng”, “lợi ích nhóm”, "cài cắm" lợi ích vào văn bản, lợi dụng cái hợp pháp để làm điều không hợp lý chưa thực sự chấm dứt.

Như thế cũng là tự diễn biến

 Ông bạn cùng cơ quan tôi nhận quyết định nghỉ hưu thì đề nghị ngay cơ quan chức năng làm thủ tục chuyển sinh hoạt đảng về nơi cư trú. Thủ tục hoàn thành, ông phấn khởi về sinh hoạt tại chi bộ khu phố. “Như vậy, tôi đã thực hiện đúng nguyên tắc, điều lệ sinh hoạt Đảng, những quy định của Ban Tổ chức Trung ương. Tôi không để gián đoạn sinh hoạt Đảng dù chỉ một tháng, có nghĩa là liền mạch được thực hiện quyền lợi và nghĩa vụ của người đảng viên...”.

Nghe ông bạn, người đảng viên đã nhận Huy hiệu 30 năm tuổi Đảng bày tỏ điều ấy, tôi cảm mến và trân trọng biết bao nhiêu. Có thể nói, đại đa số đảng viên là cán bộ, viên chức, bộ đội, công an, công nhân viên sau khi được nghỉ hưu đều chuyển về sinh hoạt Đảng ở nơi cư trú như bạn tôi. Tuy nhiên, vẫn có không ít đảng viên sau khi nghỉ hưu thì không mấy “mặn mà” với việc chuyển Đảng, sinh hoạt Đảng. Có đảng viên cứ khất lần việc chuyển sinh hoạt Đảng với lý do “chưa xác định chính thức nơi cư trú sau khi nghỉ hưu”.Có người nghỉ hưu thì thôi luôn sinh hoạt Đảng, không đến cơ quan, đơn vị làm hồ sơ, thủ tục chuyển Đảng. Có người làm thủ tục chuyển sinh hoạt Đảng, nhưng nhận hồ sơ Đảng về chỉ giữ làm “kỷ niệm”, không chịu đến cơ quan, tổ chức để chuyển tiếp sinh hoạt Đảng. Khi nghỉ hưu, có người sống “nửa phố, nửa quê” thì không trung thực, cấp ủy nơi cư trú hỏi về việc chuyển Đảng thì nói dối là “tôi chuyển Đảng về quê”; khi về quê có người hỏi việc này thì lại ráo hoảnh “tôi sinh hoạt ở chi bộ tổ dân phố”...Tất cả trường hợp trên đều là thiếu tính đảng, đều vi phạm điều lệ và nguyên tắc của Đảng, đều là phủ định chính mình. Khi phấn đấu vào Đảng, hẳn những lời tuyên thệ, đảng viên nào cũng nhớ. Rồi khi còn công tác, chắc hẳn những đảng viên này cũng luôn tỏ rõ vừa “hồng”, vừa “chuyên” để mà tiến thủ... Bây giờ nghỉ hưu, không còn chức vụ, không còn “quyền”, ắt chẳng có “lợi” nên không thiết tha với Đảng nữa. Tư tưởng này rất đáng phê phán, đó cũng là biểu hiện của “tự diễn biến”, biểu hiện của cơ hội, ích kỷ, chính là tư tưởng “lợi ích đương chức”. Đảng ta là một tổ chức cách mạng và chặt chẽ, chứ không phải là một câu lạc bộ mà tồn tại những suy nghĩ, tư tưởng không đẹp đó.

Cần loại bỏ tư duy “cuốc vào” trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

 Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ có tính rường cột trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Muốn xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng, vừa phù hợp với thực tiễn, vừa theo kịp xu hướng phát triển của thực tiễn đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ soạn thảo, dự thảo văn bản đó phải có trách nhiệm cao, có kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực mình được giao soạn thảo. Đặc biệt là các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào quy trình soạn thảo phải luôn công tâm, minh bạch, tuyệt đối không được đan cài lợi ích của ngành mình, tổ chức mình vào trong văn bản quy phạm pháp luật thì mới làm cho văn bản quy phạm pháp luật đạt được tính cách mạng và khoa học. Thực tiễn cho thấy, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. Quốc gia nào có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, chính xác, khoa học, toàn diện thì quốc gia đó sẽ có nhiều thuận lợi trong quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người, tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển. Đối với nước ta, là nước đang trong quá trình phát triển, còn nhiều lĩnh vực mới, vấn đề, hiện tượng mới nảy sinh cần phải được điều chỉnh bằng luật pháp, do đó công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật càng phải được tiến hành khẩn trương, nhưng phải chặt chẽ, khoa học. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng với thẩm quyền, hình thức, quy trình, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Cần loại bỏ tư duy “cuốc vào” trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.  Trong những năm gần đây, công tác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo sát sao tới mức quyết liệt để nhằm tháo gỡ những vướng mắc, làm giảm, tiến tới chấm dứt việc nợ đọng văn bản quy phạm pháp luật. Các bộ, ban, ngành Trung ương, các UBND, sở, ban, ngành các địa phương được giao nhiệm vụ soạn thảo dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn bản luật, dưới luật cũng đã có những cố gắng, bảo đảm cho các văn bản pháp luật sau khi dự thảo có nội dung, hình thức sát với yêu cầu thực tiễn, đúng với quy định của luật, sát với sự chỉ đạo của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ. Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2022, các bộ, ngành đã xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 255 văn bản quy phạm pháp luật. Các địa phương ban hành hơn 1.500 văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh, hơn 1.300 văn bản quy phạm pháp luật cấp huyện và 478 văn bản quy phạm pháp luật cấp xã. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được cấp có thẩm quyền thông qua và ban hành đã phát huy được tác dụng trong quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật cũng còn một số cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa thấm nhuần tư tưởng công minh, chính trực, tính phổ thông, do đó đã xuất hiện các dự thảo văn bản luật, dưới luật mang hơi hướng lợi ích cục bộ theo kiểu “cuốc giật vào lòng” đối với một số tổ chức, cá nhân, nhất là đối với các cơ quan, bộ, ngành được giao trực tiếp đảm nhiệm dự thảo văn bản luật; hoặc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật với các điều khoản nội dung không rõ ràng, gây ra sự lúng túng trong áp dụng, vận dụng.Thực tế này đã diễn ra, bằng chứng là có khá nhiều văn bản luật khi trình ra Quốc hội đã bị các đại biểu bỏ phiếu không tán thành, buộc cơ quan chủ quản và các cơ quan liên quan phải chuẩn bị lại. Những văn bản quy phạm pháp luật này thường có nội dung trùng lặp, chồng chéo giữa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này với cơ quan khác, giữa ngành, lực lượng này với ngành, lực lượng khác đã được luật hóa; hoặc là chồng chéo về mặt nội dung giữa các văn bản luật.Cũng có những tổ chức, cá nhân khi được giao soạn thảo dự thảo văn bản luật đã cố tình làm cho quyền của ngành mình, cơ quan mình “phình ra” trong một số điều, khoản, mục của luật, hoặc văn bản dưới luật. Nếu như các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ giám sát, góp ý vào văn bản luật vì những lý do nào đó mà bỏ qua, thì sau khi văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành sẽ gây cản trở trong quá trình thực thi pháp luật và gây phiền nhiễu đối với các đối tượng được điều chỉnh trong luật.Hệ lụy thứ nhất của việc soạn thảo và ban hành những văn bản pháp luật “có sạn” là sẽ tạo ra một hệ thống văn bản pháp luật không phù hợp với thực tiễn, hoặc là có luật cũng như không, dẫn đến hiện tượng mất công bằng trong xã hội. Xuất phát từ sự “có thể co giãn” của văn bản luật mà cơ quan nắm quyền thực thi pháp luật có thể vận dụng tùy tiện, có lợi cho người này, tổ chức này, hoặc ngược lại, lâu dần dẫn đến mất niềm tin của nhân dân vào luật pháp và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai là văn bản luật nếu có những "lỗ hổng" sẽ đẻ ra sự nhũng nhiễu, cửa quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật và cũng là chỗ để một số đối tượng lợi dụng “lách luật” hòng trục lợi hoặc làm những điều phi pháp.

Thứ ba là việc chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật thiếu chuẩn mực, lợi ích cục bộ sẽ làm mất đi tính khoa học của văn bản luật, thể hiện tư duy lạc hậu, trình độ, nhận thức hạn chế của cơ quan, tổ chức, cá nhân đảm nhiệm soạn thảo, xa hơn là các văn bản này sẽ làm chậm tiến độ ban hành văn bản pháp luật, làm cho một số hành vi, lĩnh vực nảy sinh trong thực tiễn chậm được luật hóa, dẫn đến kéo lùi sự phát triển của xã hội.

Khắc phục các văn bản quy phạm pháp luật có “lỗ hổng”; khắc phục tư duy “cuốc giật vào lòng”, mưu mô lợi ích cục bộ trong việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là việc cấp thiết phải thực hiện rốt ráo và triệt để. Trước hết, các cơ quan chức năng phải thường xuyên rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cho các văn bản này có sự thống nhất về nội dung, không chồng chéo về lĩnh vực, vấn đề cần điều chỉnh trong văn bản luật. Khi phát hiện các “lỗ hổng”, các dấu hiệu trục lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong văn bản luật thì kiên quyết kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, kể cả văn bản luật mới có hiệu lực thi hành.

Về vấn đề này, trong hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho rằng: “Cần phải đẩy mạnh kiểm tra, rà soát văn bản vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm. Các cơ quan chức năng phải đôn đốc, bảo đảm kết luận kiểm tra được thực hiện kịp thời, đúng pháp luật; chú trọng xử lý kết quả rà soát các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn...”.Việc đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp về soạn thảo dự thảo văn bản luật là việc cấp thiết nên cần phải được tiến hành chặt chẽ. Đội ngũ chuyên gia này có thể là các luật sư, hoặc các cán bộ tư pháp có kinh nghiệm, có trình độ cao về các chuyên ngành, lĩnh vực và am hiểu sâu sắc về luật pháp.Về mặt vĩ mô thì cần phải nâng tỷ lệ đại biểu chuyên trách của Quốc hội, bảo đảm cho mỗi đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực sự là một chuyên gia của đất nước về một lĩnh vực nào đó và họ chính là những người thẩm định, giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các văn bản quy phạm pháp luật một cách chính xác, khoa học.Đối với các loại văn bản dưới luật, thì trước khi soạn thảo cần phải rà soát, xây dựng đội ngũ soạn thảo dự thảo sao cho minh bạch và phải thực sự vì công việc, “dĩ công vi thượng”. Tuyệt đối không vì có tình cảm với người này, người kia mà đưa họ vào ban soạn thảo, như vậy dễ dẫn đến những lệch lạc trong khâu soạn thảo.Việc thông qua các văn bản này phải được thẩm định kỹ càng thông qua các hội đồng được lập ra bởi những người có trách nhiệm, bảo đảm thực hiện đúng quy trình, không làm ngang, làm tắt. Hiện nay có khá nhiều cơ quan, đơn vị không tổ chức các cuộc họp hội đồng thông qua các văn bản quy phạm pháp luật nên đã “xin ý kiến” bằng văn bản đối với từng cá nhân. Vì thế việc góp ý đôi khi cũng không chặt chẽ, dẫn đến việc góp ý chất lượng không cao làm ảnh hưởng đến chất lượng văn bản.  Văn bản quy phạm pháp luật chuẩn mực, khoa học, cách mạng sẽ là cơ sở để xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ. Ở đó, các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật đều có quyền lợi, nghĩa vụ như nhau.Văn bản quy phạm pháp luật càng toàn diện, chặt chẽ, minh bạch thì càng hạn chế được sự nhũng nhiễu, ngăn chặn hiện tượng tiêu cực của những người thực thi công vụ, đồng thời thể hiện được tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

 

Vì vậy, mỗi người khi được giao nhiệm vụ cần phải nêu cao tinh thần “dĩ công vi thượng”, loại bỏ hoàn toàn tư duy, lợi ích cục bộ, thực hiện nhiệm vụ soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật một cách công minh, chính trực, vì nhân dân, vì sự phát triển của đất nước. Tất cả thành viên trong bộ phận tham gia soạn thảo đều nêu cao tinh thần ấy thì chắc chắn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta sẽ đạt được tính khoa học, phát triển và thực sự có lợi cho quốc gia, dân tộc.

BẢO VỆ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC XÃ HỘI

 Ngày 10-8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã tiến hành chất vấn Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm; Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Hùng. Vấn đề được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm, xuyên suốt trong cả 2 phần chất vấn đối với hai vị bộ trưởng là làm sao để bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội, nhất là trong bối cảnh mạng xã hội phát triển đã tác động không nhỏ tới đạo đức, lối sống.

Những biểu hiện đáng lo của đạo đức xã hội

Trong phần chất vấn Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL), đại biểu Phạm Văn Hòa (Đồng Tháp) cho rằng, hiện nay, môi trường văn hóa, thuần phong mỹ tục bị xâm hại không chỉ ở trong nhà trường, xã hội mà cả trong gia đình. Đặc biệt là trong giới văn nghệ sĩ cũng có hiện tượng xuống cấp về lối sống, đạo đức. Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy (Đà Nẵng) nêu vấn đề đáng quan tâm nhất về văn hóa hiện nay là xây dựng nếp sống văn hóa, ngăn chặn sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức xã hội. Vấn đề này đã được chỉ ra từ lâu nhưng chưa có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Đại biểu Lê Hoàng Anh (Gia Lai) đề nghị Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết, việc xuống cấp đạo đức xã hội đang ở phạm vi và mức độ nào, xu hướng thời gian tới và giải pháp ngăn chặn như thế nào? Đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình) bày tỏ, vấn đề đạo đức học đường, văn hóa ứng xử trong thời gian qua có nhiều biểu hiện đáng lo ngại, cần có giải pháp căn cơ để hạn chế, khắc phục.  Trả lời về vấn đề đạo đức xã hội, Bộ trưởng Bộ VHTTDL Nguyễn Văn Hùng dẫn lại đánh giá trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng rằng, văn hóa, đạo đức xã hội có mặt đang xuống cấp. Theo Bộ trưởng, văn hóa vừa là chủ thể, vừa là động lực phát triển, nên đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, trong đó có sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc của các cấp, ngành và từng thành viên.

Bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết, có nhiều vấn đề phiền toái liên quan tới ứng xử của văn nghệ sĩ thời gian qua, trong đó có cả những hành xử phản văn hóa. Bộ VHTTDL đã ban hành quy tắc ứng xử trong nghề nghiệp, lấy giá trị thước đo chân, thiện, mỹ để đấu tranh với cái xấu, cái ác. Mặc dù không phải chế tài, nhưng bộ quy tắc ứng xử có tính chất phạm trù đạo đức để văn nghệ sĩ tự giác thực hiện.

Xây dựng các bộ tiêu chí để phát hiện sự lệch chuẩn

Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng chia sẻ, bạo lực gia đình, bạo lực học đường là vấn đề nhức nhối. Bộ VHTTDL vừa ban hành bộ tiêu chí xây dựng gia đình hạnh phúc và quan trọng nhất là vận động thực hiện bộ tiêu chí này. Đây là cuộc cách mạng lâu dài, tinh thần là phải nhân lên cái tốt. Vì vậy, bộ có chủ trương khuyến khích việc biểu dương các gia đình tiêu biểu, gia đình văn hóa với phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”, từ đó tuyên truyền, nhân lên những hình ảnh đẹp trong cộng đồng gia đình, để góp phần lưu truyền giá trị văn hóa gia đình tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Bộ VHTTDL đang tập trung vào vấn đề xây dựng môi trường văn hóa trong trường học và phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) để xây dựng bộ tiêu chí môi trường văn hóa học đường. Bộ VHTTDL mong muốn khơi dậy ở học sinh vai trò là chủ thể trong xây dựng đạo đức, lối sống biết tự giác, biết khuôn mẫu, trên tinh thần phát hiện những nhân tố tích cực để bồi dưỡng, lan tỏa. Cùng trả lời về nội dung này, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Kim Sơn nêu rõ, giáo dục hiện nay đang lấy việc dạy làm người là nội dung trọng tâm và ưu tiên, nên vấn đề về văn hóa học đường, ứng xử trong trường học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Bộ GD&ĐT rất chú ý đến vấn đề này và đã triển khai nhiều hoạt động, nhiều chính sách có liên quan. Trong đó, việc triển khai chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018 là giải pháp toàn diện để tăng cường tố chất văn hóa và phát triển con người. Bộ GD&ĐT đã tham mưu cho Chính phủ trong việc chuẩn bị, ban hành chỉ thị về việc tăng cường triển khai công tác xây dựng văn hóa học đường. Việc triển khai nhiều nội dung của chỉ thị này sẽ tạo ra chuyển biến tốt đối với các vấn đề về văn hóa học đường... Phát biểu kết luận nội dung này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, UBTVQH yêu cầu Bộ VHTTDL tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp xây dựng nếp sống văn hóa, giáo dục đạo đức, lối sống, nhất là cho thế hệ trẻ, ngăn chặn sự xuống cấp về đạo đức xã hội và văn hóa ứng xử; xây dựng, hoàn thiện các bộ quy tắc ứng xử trong cơ quan, tổ chức, cộng đồng, địa bàn dân cư và cả trên không gian mạng.

Dọn "rác" trên không gian mạng

Hầu hết các giá trị, chuẩn mực đạo đức đã được luật pháp bảo vệ, trong đó có pháp luật về hình sự. Bởi thế, bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội thông qua việc xử lý nghiêm tội phạm, bảo vệ nền tảng đạo đức xã hội trên không gian mạng, chống vi phạm pháp luật trên không gian mạng cũng được nhiều đại biểu Quốc hội đặt ra với Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm trong phần chất vấn sáng 10-8.

Trả lời chất vấn của đại biểu Quốc hội, Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm khẳng định, Bộ Công an đã thực hiện các giải pháp để bảo đảm sự lành mạnh trên mạng xã hội. Tuy nhiên, để lành mạnh hóa mạng xã hội thì có vai trò rất quan trọng của nhân dân, của người sử dụng mạng xã hội. Người sử dụng mạng xã hội phải biết tìm hiểu thông tin và sử dụng mạng xã hội một cách lành mạnh nhất.

 

Tham gia trả lời về xử lý tình trạng thông tin sai sự thật trên không gian mạng, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, Bộ Thông tin và Truyền thông đã làm việc với các nền tảng xuyên biên giới thực thi tại Việt Nam và các nền tảng như Facebook, YouTube đã nâng tỷ lệ đáp ứng yêu cầu của các cơ quan nhà nước từ dưới 20% năm 2018 lên 90-95%. Trước năm 2018, chỉ có khoảng 5.000 tin video sai sự thật bị bóc gỡ, đến nay, số lượng thông tin xấu, độc, sai sự thật được bóc gỡ tăng lên 20 lần, với gần 100.000 tin video bị bóc gỡ.Bộ đã thành lập và vận hành Trung tâm Giám sát an toàn không gian mạng quốc gia với khả năng xử lý tới 300 triệu tin mỗi ngày để phát hiện sớm các thông tin xấu, độc, sai sự thật. Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng, việc bóc gỡ thông tin sai sự thật trên không gian mạng cũng như việc dọn "rác" trên không gian mạng. Bộ đang soạn thảo chỉ thị của Thủ tướng về việc các bộ, ngành, địa phương cũng có trách nhiệm lên không gian mạng để phát hiện, tiếp nhận và xử lý "rác" thuộc lĩnh vực quản lý, làm sạch không gian mạng. Bộ cũng đã ban hành bộ quy tắc ứng xử trên không gian mạng nhằm xây dựng các chuẩn mực về hành vi ứng xử trên mạng xã hội...Phó thủ tướng Chính phủ Vũ Đức Đam phân tích, tốc độ lan truyền của thông tin trên mạng rất lớn. Thống kê của thế giới cho thấy, tốc độ tác động và lan truyền của thông tin xấu trên mạng còn nhanh hơn 6-7 lần tốc độ tác động và lan truyền của thông tin tốt trên mạng. Do vậy, một thông tin phản văn hóa và xấu trên mạng xã hội tác động lớn hơn rất nhiều lần so với một hiện tượng xấu khi chưa có mạng xã hội. “Chúng ta đã ban hành Luật An ninh mạng, các nghị định có liên quan, chúng ta một mặt phủ thông tin tốt để che thông tin xấu và bắt đầu xử lý rất nghiêm, kể cả xử lý hình sự những đối tượng lợi dụng mạng xã hội, lợi dụng internet xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân”, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam nói. Phát biểu kết luận nội dung này, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nêu rõ, UBTVQH yêu cầu sớm hoàn thiện cơ sở pháp lý trong lĩnh vực an ninh mạng, bảo đảm an toàn với hệ thống an ninh mạng quốc gia, sớm ban hành nghị định hướng dẫn Luật An ninh mạng. Bộ Công an cần làm tốt công tác nắm tình hình, dự báo, có giải pháp kịp thời với những vấn đề thực tiễn mới phát sinh về an ninh mạng, đẩy mạnh hoạt động của Ban chỉ đạo an toàn, an ninh mạng quốc gia; chủ động phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu xây dựng hạ tầng công nghệ, bảo đảm an toàn an ninh mạng một cách tự chủ, đủ khả năng chủ động ứng phó với các thách thức từ không gian mạng. Quản lý chặt chẽ thông tin trên internet và mạng xã hội trên cơ sở luật pháp và các điều ước quốc tế. Sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về quản lý, sử dụng internet, mạng xã hội, báo chí. Chủ động đấu tranh, ngăn chặn, gỡ bỏ, triệt phá, vô hiệu hóa thông tin xấu, độc, tin giả, tin sai sự thật, xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, phá hoại quan hệ quốc tế của đất nước ta. Phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thiện và thực hiện Bộ Quy tắc ứng xử trên không gian mạng, yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet quản lý chặt chẽ thông tin trên không gian mạng.


Ngày 19/8/1945: Cách mạng Tháng Tám thành công, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

 


Cách mạng tháng Tám (ngày 19 tháng 8 năm 1945) là cuộc cách mạng thắng lợi của Việt Minh với quân Pháp, Nhật Bản và chính phủ Đế quốc Việt Nam do vua Bảo Đại phê chuẩn. Kết quả chính phủ cũ giải tán và sau đó đến ngày 2 tháng 9 năm 1945 Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

.

Ngày 19/8/1945, nhân dân giành chính quyền tại Bắc Bộ phủ (Hà Nội)

Bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, phe trục gồm Đức Ý Nhật đánh lại phe đồng minh gồm Anh, Pháp, Liên Xô. Sau có Mỹ và nhiều nước nữa tham chiến.

Vào tháng 9 năm 1940, ngay giữa Thế chiến thứ hai, Chính phủ Vichy của Pháp, vì đã đầu hàng Đức Quốc Xã, đồng ý cho quân đội Nhật Bản đổ bộ vào Bắc kỳ. Ngay lập tức quân đội Nhật dùng đó làm bàn đạp ảnh hưởng đến các chiến trường Trung Quốc và Đông Nam Á. Trên thực tế, đây là một điểm quan trọng trong chiến lược quân sự của Nhật nhằm thống trị toàn bộ vùng Đông Nam Á. Trong khi chờ đợi cuộc đại thắng của Đức tại châu Âu, Nhật tạm thời duy trì hệ thống bảo hộ của Pháp tại Đông Dương. (Trong những trận đánh lớn hồi đó có thể kể đến việc Hải Quân và Không Quân Nhật xuất phát từ Cam Ranh và Sài Gòn tiêu diệt Hạm đội Viễn Đông của Anh).

Thời gian này, Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo nhiều cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp, như Khởi nghĩa Nam Kỳ, Khởi nghĩa Bắc Sơn nhưng đều thất bại. Những binh lính tham gia chiến tranh Thái Lan thực hiện cuộc Binh biến Đô Lương cũng thất bại.

Vào tháng 5 năm 1941 các lực lượng ái quốc, trong đó nòng cốt là Đảng Cộng Sản Đông Dương, dẫn đầu bởi Hồ Chí Minh, tập họp tại một địa điểm gần biên giới Việt-Trung, tham gia một tổ chức đứng về phía đồng minh giành độc lập cho Việt Nam gọi là Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội. Tổ chức này thường được gọi vắn tắt là Việt Minh. Tổ chức này xây dựng một chiến khu do họ kiểm soát ở biên giới Việt Trung. Ngày 22 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp thành lập một trung đội 34 người mang tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân (một trong những tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam), ngay sau khi thành lập đã tiến đánh quân Nhật, mở rộng chiến khu. Trước khi Nhật đầu hàng đồng minh, chiến khu đã bao gồm nhiều tỉnh vùng đông Bắc Bắc Bộ, gọi là chiến khu Việt Bắc.

Trong suốt Thế chiến thứ hai, Mỹ đã tích cực hỗ trợ lực lượng kháng chiến Việt Minh trong các hoạt động chống Nhật. Một đơn vị đặc nhiệm của tổ chức OSS (Office of Strategic Services) – tiền thân của Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA) – đã từng hợp tác cùng lực lượng Việt Minh thành lập một đại đội Việt-Mỹ (do Đàm Quang Trung làm đội trưởng và Thiếu tá A. K. Thomas làm cố vấn) nhằm vào mục tiêu chung chống Nhật. Lực lượng Việt Minh cũng bảo vệ các phi công Mỹ bị bắn rơi trong khu vực Đông Dương và đưa họ thoát sang Trung Quốc rồi trao lại cho quân đội Đồng Minh.

Đến năm 1945, thấy quân đội Đức bị đánh bại hoàn toàn tại mặt trận châu Âu và ưu thế của quân đội Mỹ càng ngày càng lên tại mặt trận Thái Bình Dương, Nhật quyết định hoàn toàn khống chế Đông Dương. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật trao tối hậu thư cho Toàn quyền Đông Dương (Gouveneur de l’Indochine), Đô đốc Jean Decoux, yêu cầu đặt toàn bộ quân đội Pháp tại Đông Dương dưới quyền chỉ huy và điều động của họ. Decoux từ chối và bị bắt giam ngay lập tức, không kịp báo lệnh cho lực lượng dưới quyền của mình. Quân đội Nhật, sau đó bất thần tấn công các doanh trại và cơ sở của chính quyền thuộc địa Pháp. Chỉ trong một đêm họ đã thanh toán xong toàn bộ cứ điểm và bắt giam tất cả các quan chức người Pháp.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp thành công và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại ra đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam và mời nhà trí thức Trần Trọng Kim ra thành lập chính phủ khác dưới sự bảo hộ của Nhật. Ngày 17 tháng 4, Bảo Đại ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim và ngày 12 tháng 5 thì ra lệnh giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ.

Trong khi đó, phản ứng trước sự kiện Nhật đảo chính Pháp, ngày 12 tháng 3 năm 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” nhằm phát động cao trào kháng Nhật cứu nước (thay đổi hình thức tuyên truyền, tổ chức đấu tranh để thích hợp với thời kì tiền khởi nghĩa, tập dượt quần chúng tiến lên khởi nghĩa giành chính quyền).

Tại Âu châu, Đức thất trận và đầu hàng ngày 7 tháng 5 năm 1945. Ngày 6 tháng 8, Hoa Kỳ ném hai trái bom nguyên tử trên đảo Hiroshima và Nagasaki. Ngày 14 tháng 8, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Do đó quân Nhật tại Việt Nam dao động và tan rã. Theo tối hậu thư Postdam của phe đồng minh gửi Nhật ngày 26 tháng 7, quân đội Nhật sẽ bị giải giới do quân đội Trung Hoa ở bắc vĩ tuyến 16, và do quân đội Anh từ nam vĩ tuyến 16.

Dưới sự cai trị của Nhật, từ tháng 10 năm 1944 đến tháng 5 năm 1945, nạn đói khủng khiếp diễn ra làm 2 triệu người chết. Đây là thời cơ để Việt Minh xây dựng lực lượng lớn khắp cả nước, họ tập hợp nhân dân cướp các kho thóc Nhật. Đồng thời, một đại hội đại biểu toàn quốc họp trên chiến khu, thành lập Quốc dân Đại hội, tức quốc hội lâm thời. Khi Nhật thất bại, khởi nghĩa nổ ra trên toàn quốc, đó là Cách mạng tháng Tám. Cách mạng diễn ra nhanh chóng với sự tham gia của hầu hết dân chúng, Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước trong mười mấy ngày.

Trong khi đó diễn biến tại miền Bắc, khi nhậm chức, bộ trưởng tư pháp Trịnh Đình Thảo của chính phủ Trần Trọng Kim đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó và cho phép các tổ chức, hội đoàn chính trị được hoạt động công khai. Tin đồn dân Nhật sắp sửa đầu hàng đã lan tỏa khắp nơi tại miền Bắc, lợi dụng cơ hội, dân chúng đã tụ tập biểu tình, bãi công nhiều nơi, như ở Thái Bình vào ngày 11 tháng 8. Từ ngày 12 tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh lần lượt tiến công các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái… và hỗ trợ nhân dân các tỉnh này tiến lên giành chính quyền tại các tỉnh lỵ.

Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945 đã nhận định rằng những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín mùi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân khởi nghĩa. Ngày 14-8 một số cán bộ Đảng và Việt Minh dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi nghĩa lan rộng ra xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng Sông Hồng như Thanh Hóa, Thái Bình….

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh do Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào kéo về bao vây, tấn công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên.

Sáng ngày 18 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở làm việc về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các uỷ viên tích cực chuẩn bị cho công việc sáng hôm sau.

Sáng sớm ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10 giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra. Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ toàn bộ khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà không có bất kỳ hành động kháng cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông.

Cùng thời gian đó, ông Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây quanh trại, đòi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ông Nguyễn Khang và ông Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân tích thì quân Nhật đã rất rệu rã, không còn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo toàn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng không được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.

Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn của đàm phán của Việt Minh do ông Lê Trọng Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với tướng Tsuchihashi – Tổng Tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật – ngay tại Tổng hành dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đoán, đã chấp nhận án binh bất động, không can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ sẽ được bảo đảm an toàn, không bị Việt Minh tấn công. Họ đã chấp nhận chính quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ đô vào thời điểm đó.

Cũng trong đêm 19 tháng 8, Xứ ủy quyết định thành lập Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Bắc bộ và Uỷ ban Nhân dân Cách mạng Hà Nội, chính thức hoá vai trò của chính quyền cách mạng với nhân dân và cộng đồng quốc tế.

Ngày 20 tháng 8, khoảng 10 giờ 30 sáng, Ủy ban Nhân dân Cách mạng Bắc Bộ, đại diện cho chính quyền cách mạng lâm thời, đã chính thức ra mắt quốc dân đồng bào tại Vườn hoa Con Cóc trước Bắc Bộ phủ.

Ngày 21 tháng 8 tại Huế phong trào Việt Minh bừng nổi dậy. Tướng tư lệnh Nhật đã nhận được chỉ thị của Đông Kinh phải giữ ngôi cho Hoàng đế Bảo Đại, đã bàn với Thủ Tướng Trần Trọng Kim như sau: “Mặc dù nước Nhật đã đầu hàng nhưng quân đội Nhật tại đây vẫn có nhiệm vụ giữ gìn an ninh trật tự cho tới khi quân đội Đồng minh đến tiếp thu. Xin ngài hãy làm văn thư yêu cầu để chúng tôi tái lập trật tự.” nhưng Thủ Tướng đã từ chối sự giúp đỡ của họ.

Đại tướng Nhật cũng vào yết kiến vua Bảo Đại xin tái lập trật tự để bảo vệ ngai vàng nhưng cũng bị từ chối.

Thắng lợi ở Hà Nội lập tức kéo theo một sự rung động và làm tan vỡ hệ thống chính quyền thân Nhật ở toàn vùng. Các tỉnh trưởng, thị trưởng Hải Phòng, Nam Định, Bắc Ninh, Thái Nguyên… đang ngóng trông tin từ Hà Nội, phải vội vàng chuyển sang tìm gặp và theo Việt Minh ở địa phương. Ngày 23 tháng 8, chính quyền cách mạng ở Hải Phòng được thành lập.

Tại Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ kết hợp các tổ chức chính trị Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng… thành Mặt trận Quốc qia Việt Nam Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Pháp.

Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Việt Minh tổ chức biểu tình và cướp chính quyền tại Sài Gòn. Đến ngày 28 tháng 8, Việt Minh giành được chính quyền toàn quốc. Hai tỉnh cướp được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng.

Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của Pháp trong gần một thế kỉ tại Việt Nam, chấm dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế gần một nghìn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, bất hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động công khai.


Tăng cường công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em

 

Ngày 17-8, Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) Đào Ngọc Dung có Công điện số 03/CĐ-LĐTBXH gửi chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về tăng cường công tác phòng, chống bạo lực, xâm hại trẻ em.

Góp phần tô thắm tình hữu nghị Việt-Hàn

 

Đó là lời nhận xét của Phó tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch Việt Nam Hà Văn Siêu về nhạc sĩ, ca sĩ Hàn Quốc Joseph Kwon (hay còn gọi là Joseph Quyền) trong buổi họp báo ra mắt video ca nhạc quảng bá về du lịch Việt Nam của anh vừa qua.

Nguy hiểm từ "cà phê đường tàu"

 

Sau một thời gian đóng cửa, hiện nay, một số hộ kinh doanh "cà phê đường tàu" đoạn từ phố Điện Biên Phủ đến Phùng Hưng (Hà Nội) lại tiếp tục hoạt động trở lại, thu hút khá đông du khách trong và ngoài nước.

Nhân viên thông tin gương mẫu, tận tâm

 

“Gương mẫu, tận tâm, trách nhiệm với công việc được giao, sống hòa đồng, giản dị, được cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị quý mến...”, đó là nhận xét của Thiếu tá Nguyễn Ngọc Thạch, Chính trị viên Trạm Radar 535, Trung đoàn 351, Vùng 3 Hải quân về Đại úy QNCN Trần Sỹ Phú, nhân viên thông tin của trạm.

Chuyện tình của Trung tướng Năm Lượng

 

Trung tướng Lưu Phước Lượng, nguyên Phó tư lệnh Quân khu 9, nguyên Phó trưởng ban chỉ đạo Tây Nam Bộ và vợ-Đại tá Mạc Phương Minh, nguyên Giám đốc Nhà khách Quân khu 7, có một câu chuyện tình cảm động, ở đó có sự hy sinh, chung thủy và chia sẻ những khó khăn, vui buồn trong cuộc sống.

Trân trọng giữ gìn những dấu ấn lịch sử

 

Bảo tàng LLVT miền Đông Nam Bộ (Cục Chính trị, Quân khu 7) tại TP Hồ Chí Minh những ngày này có nhiều khách tham quan hơn thường lệ. Nơi đây đang diễn ra Triển lãm “Uống nước nhớ nguồn, tri ân những người có công với cách mạng”.

Gắn bó nghĩa tình với đồng bào tôn giáo

 

Tham luận tại Hội nghị sơ kết công tác tôn giáo 6 tháng đầu năm 2022 và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm do Ban Tôn giáo Chính phủ tổ chức, nhiều đại biểu khẳng định: Bộ đội Cụ Hồ nói chung, LLVT Quân khu 7 nói riêng đã thực hiện tốt công tác dân vận, nhất là dân vận trong vùng đồng bào có đạo thông qua nhiều mô hình hay, cách làm sáng tạo, hiệu quả, thể hiện rõ nét đặc trưng phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ gắn bó máu thịt, nghĩa tình với nhân dân.

Nghĩa tình ở Jơ Ngây

 

Chúng tôi về xã Jơ Ngây (huyện Đông Giang, tỉnh Quảng Nam) đúng vào dịp cán bộ, chiến sĩ các đơn vị, phân đội thuộc Bộ Tham mưu Quân khu 5 đang thực hiện đợt hành quân dã ngoại làm công tác dân vận trên địa bàn.

Hết lòng vì người bệnh

 

Khoa Tâm thần kinh, Bệnh viện Quân y 120, Cục Hậu cần Quân khu 9 có nhiệm vụ thu dung, điều trị, chăm sóc các bệnh nhân tâm thần và hỗ trợ cho bệnh nhân thích ứng khi tái hòa nhập với cộng đồng trong khu vực và lân cận.

Dân vận khéo ở biên giới Nậm Pồ

 

Mới đây, chúng tôi có dịp theo các cán bộ thuộc Ban CHQS huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên thực hiện công tác dân vận bằng tiếng dân tộc Mông và tiếng Dao tại nhà trưởng bản Huổi Cơ Dạo, xã Nà Hỳ, huyện Nậm Pồ.

Rẻ nhưng không... ôi!

 

Khi nền kinh tế đang trên đà phục hồi thời kỳ “hậu Covid-19” thì vấn đề nhà ở cho người thu nhập thấp ở các đô thị (nhà ở xã hội) lại tiếp tục được dư luận quan tâm.

Không lơ là, chủ quan với lửa

 

"Cháy" là từ và hình ảnh xuất hiện liên tục trên báo chí, mạng xã hội những ngày gần đây, nhất là sau vụ cháy ngày 1-8 vừa qua tại quán karaoke trên địa bàn phường Quan Hoa (Cầu Giấy, Hà Nội) khiến 3 cán bộ, chiến sĩ công an hy sinh khi tiến hành chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ...

Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của cách mạng trong giai đoạn mới

 

Ngày 17-8, tại Hà Nội, Ban chỉ đạo (BCĐ) Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) đã họp Phiên thứ 22 để kiểm điểm, đánh giá kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm, xác định nhiệm vụ những tháng cuối năm 2022.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 17 THÁNG 8 NĂM 1962!

     “Phải dựa vào nhân dân, vì đông đảo nhân dân rất nhiều tai mắt, cho nên bộ đội, công an không những phải đoàn kết nội bộ, lại phải đoàn kết với nhân dân, dựa vào nhân dân, giáo dục nhân dân cảnh giác thì địch không làm gì được”.
     Lời dạy của Người trích trong “Bài nói chuyện với trường thanh niên lao động xã hội chủ nghĩa Hòa Bình” ngày 17 tháng 8 năm 1962. Đây là thời kỳ cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, cứu nước của dân tộc ta ở thời kỳ vô cùng ác liệt, Đảng, Nhà nước đã động viên, khích lệ tinh thần xung kích, tình nguyện của các thế hệ thanh niên làm nên những thành tích vẻ vang trong xây dựng trường học kiểu mẫu, góp sức vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; trong đó, có sự ủng hộ, giúp đỡ rất lớn của nhân dân.
     Tư tưởng về phát huy sức mạnh nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam, được Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm và giành nhiều công sức xây dựng. Bác luôn nhấn mạnh đến vai trò của nhân dân, coi nhân dân là nền tảng, là cội nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam, đúng như lời Người đã khẳng định: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Thực tiễn đã minh chứng, chỉ có đoàn kết chặt chặt chẽ với nhân dân, dựa vào dân, được nhân dân tin yêu thì quân đội và công an mới có được những thuận lợi trong chiến đấu, công tác, lao động sản xuất và trong mọi sinh hoạt của cuộc sống. Cách xa dân, không gắn bó với nhân dân, không liên hệ mật thiết với nhân dân, không dựa vào dân thì bộ đội và công an không thể hoàn thành được nhiệm vụ; bởi theo Bác: “Có dân là có tất cả”.
     Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là hai lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng, Nhà nước và nhân dân, giữ vai trò nòng cốt trong thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, luôn đoàn kết, gắn bó, phối hợp và tạo điều kiện, giúp đỡ nhau hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, mỗi lực lượng đều nhận thức sâu sắc và thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy, luôn giữ vững mối quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân, tích cực giúp đỡ nhân dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ dân, tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh; đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo làm mũi nhọn tấn công trong chiến lược “diễn biến hòa bình” kích động tư tưởng chống đối, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội./.
Yêu nước ST.