Thứ Tư, 4 tháng 9, 2024

Chuyển đổi số - Động lực quan trọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

 Nhân kỷ niệm 79 năm Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm có bài viết: “Chuyển đổi số - Động lực quan trọng phát triển lực lượng sản xuất, hoàn thiện quan hệ sản xuất đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới”. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu nội dung bài viết:

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm 

1. Ngay sau khi giành được chính quyền, Đảng ta đã nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của việc phát triển lực lượng sản xuất và từng bước cải tạo, hoàn thiện quan hệ sản xuất. Quá trình này diễn ra qua nhiều giai đoạn, phản ánh sự vận động và phát triển không ngừng của Cách mạng Việt Nam.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 mở ra trang sử mới cho sự phát triển của dân tộc trong điều kiện đất nước vừa giành độc lập đã phải bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ. Xuất phát điểm từ nền nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm thực dân đô hộ, Đảng ta đã thực hiện chính sách “người cày có ruộng” nhằm trao ruộng đất về tay nông dân, xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hướng tới việc cải tạo quan hệ sản xuất, tạo tiền đề xây dựng phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. 

 Giai đoạn 1954 - 1975, cách mạng nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược, Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Ở miền Bắc, lấy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới dựa trên ba trụ cột: chế độ công hữu, quản lý kế hoạch hóa tập trung và phân phối theo lao động [1], đã đưa lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc.

Năm 1975, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra chương mới trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội lần thứ IV của Đảng năm 1976 trên cơ sở đánh giá đặc điểm lớn của đất nước đó là, từ nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đã đề ra đường lối: kiên định chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, quyết tâm tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: về quan hệ sản xuất, khoa học - kỹ thuật và tư tưởng văn hóa [2]. Trong đó, cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, đẩy mạnh công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm.

Từ năm 1979 đến trước Đại hội VI của Đảng năm 1986, đất nước ta đã trải qua những khủng hoảng nghiêm trọng, một phần nguyên nhân do sự thiếu đồng bộ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất [3]. Từ nhận thức đúng đắn đó, Đại hội VI của Đảng đã quyết tâm tiến hành đổi mới toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, xóa bỏ bao cấp, từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị là bước đột phá về đổi mới quan hệ sản xuất trong nông nghiệp khi chính thức thừa nhận hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ và trao quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân, phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất [4]. Chỉ sau một năm thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, Việt Nam từ một quốc gia thiếu lương thực triền miên đã sản xuất được 21,5 triệu tấn lúa và lần đầu tiên xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo. Việc điều chỉnh quan hệ sản xuất phù hợp đã tạo động lực mới cho lực lượng sản xuất phát triển, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng, bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện và hội nhập quốc tế.

2. Bước sang thế kỷ 21, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội. Ước tính tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2021-2025 đạt 5,7-5,9%/năm, thuộc nhóm dẫn đầu khu vực và thế giới; quy mô nền kinh tế tăng 1,45 lần, ước đạt 500 tỷ USD vào năm 2025. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 3.400 USD đến khoảng 4.650 USD, đưa Việt Nam vào nhóm nước thu nhập trung bình cao vào năm 2025. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát; các chính sách điều hành linh hoạt, hiệu quả; vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng cao; tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức cao, đời sống Nhân dân được cải thiện đáng kể.

Lực lượng lao động ước đạt 53,2 triệu người vào năm 2025, với cơ cấu chuyển dịch tích cực; tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm mạnh, còn 25,8%; chất lượng nguồn nhân lực không ngừng nâng cao với 70% lao động qua đào tạo. Nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong các lĩnh vực then chốt, như công nghiệp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, công nghệ thông tin được tập trung phát triển, bước đầu hình thành đội ngũ lao động với tư duy số và kỹ năng số ngày càng được nâng cao.

Trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn và điện toán đám mây đang dần trở thành những công cụ sản xuất quan trọng trong nhiều ngành, lĩnh vực. Kết cấu hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng số, đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ. Mạng lưới viễn thông và internet băng thông rộng phủ sóng rộng khắp cả nước, tạo nền tảng phát triển kinh tế số, xã hội số.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải đối mặt với những thách thức mới. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cấp thiết nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ, sự phát triển công cụ sản xuất trong nền kinh tế số tạo ra biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất, dẫn đến những mâu thuẫn mới với quan hệ sản xuất hiện hữu; vừa tạo tiền đề, động lực hình thành phương thức sản xuất mới trong tương lai, vừa đòi hỏi thay đổi căn bản cách thức tổ chức sản xuất và quản lý xã hội. Lực lượng sản xuất mới đang hình thành và phát triển mạnh mẽ; song chất lượng nguồn nhân lực vẫn còn khoảng cách so với yêu cầu phát triển đất nước trong giai đoạn mới, trong khi đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực công nghệ cao, vẫn là thách thức lớn. Quan hệ sản xuất còn nhiều bất cập, chưa theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất.

Trong đó, cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu.

Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để.

Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả.

Dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta nhận thức rõ rằng, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định sự phát triển của quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải không ngừng được điều chỉnh để phù hợp với trình độ ngày càng cao của lực lượng sản xuất. Khi quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất, nó sẽ trở thành lực cản, kìm hãm sự phát triển tiến bộ của toàn bộ phương thức sản xuất, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.

3. Chúng ta đang đứng trước yêu cầu phải có một cuộc cách mạng với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển. Đó là cuộc cách mạng chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ nhằm tái cấu trúc quan hệ sản xuất phù hợp với sự tiến bộ vượt bậc của lực lượng sản xuất. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số.

Sự thay đổi trong quan hệ sản xuất sẽ tác động mạnh đến kiến trúc thượng tầng, mở ra phương thức mới trong quản trị xã hội, tạo ra những công cụ mới trong quản lý nhà nước, làm thay đổi căn bản cách thức tương tác giữa nhà nước và công dân, giữa các tầng lớp xã hội. Quá trình chuyển đổi số cần được thực hiện toàn diện, đồng bộ, có tính đến mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, nhằm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phát huy sức mạnh của lực lượng sản xuất hiện đại, vừa đảm bảo bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa, phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam trong thời đại mới. Muốn vậy, người đứng đầu cấp ủy Đảng, chính quyền, cơ quan, doanh nghiệp và người dân phải nhận thức đầy đủ, thống nhất, có trách nhiệm và quyết tâm thực hiện quá trình chuyển đổi số; đồng thời cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm, sau đây:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp luật, kiên định mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời không ngừng đổi mới để bắt kịp xu thế phát triển của thời đại. Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho nền kinh tế số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có cơ chế, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi số trong mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, khuyến khích đổi mới sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.

Thứ hai, khơi thông và phát huy tối đa mọi nguồn lực xã hội, đẩy nhanh hiện đại hóa. Có cơ chế, chính sách phù hợp huy động nguồn lực to lớn trong Nhân dân, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế; nguồn lực từ đất đai, tài sản trong xã hội mà người dân đang tích luỹ, biến những tiềm năng này thành động lực, tư liệu sản xuất, để sản xuất ra nhiều của cải vật chất cho xã hội. Tạo môi trường đầu tư thông thoáng, minh bạch, thu hút mạnh mẽ nguồn vốn trong và ngoài nước cho phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo. Phát huy tối đa nguồn lực con người - nhân tố quyết định của sự nghiệp đổi mới. Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Thứ ba, cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo của các địa phương. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Trong quá trình cải cách, bám sát nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Việc tinh gọn bộ máy phải nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, chất lượng phục vụ người dân và doanh nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn là tất yếu khách quan để Việt Nam bứt phá trong kỷ nguyên mới. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số tạo động lực mới cho tăng trưởng; thúc đẩy ứng dụng công nghệ số trong mọi ngành, lĩnh vực, tạo ra các mô hình kinh doanh mới. Phát triển công dân số, trang bị kiến thức, kỹ năng cần thiết để người dân tham gia hiệu quả vào nền kinh tế số và xã hội số, bảo đảm không ai bị bỏ lại phía sau.

Đất nước ta đang đứng trước vận hội mới, vừa là thời cơ đồng thời cũng là thách thức trên con đường phát triển. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, chúng ta nhất định sẽ thực hiện thành công cuộc cách mạng chuyển đổi số, tạo ra bước đột phá trong phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất, đưa đất nước ta, dân tộc ta vươn mình vượt bậc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại./.

T.L
------------------------
[1] Văn kiện Đảng toàn tập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9/1960.

[2] Văn kiện Đảng toàn tập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, tháng 12/1976.

[3] Văn kiện Đảng toàn tập, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, tháng 12/1986.

[4] Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm gia đình cố nhạc sỹ Văn Cao.

 Nhân kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9, sáng 2/9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tới thăm gia đình cố nhạc sỹ Văn Cao và cố họa sỹ Bùi Trang Chước, những cây đại thụ của nền âm nhạc và hội họa Việt Nam.

Cùng đi có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Bùi Thị Minh Hoài; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Nguyễn Duy Ngọc.

Trong không khí thân tình, ấm áp ngày Tết Độc lập, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã thắp hương tri ân cố nhạc sỹ Văn Cao và tặng quà bà Nghiêm Thúy Băng, vợ cố nhạc sỹ cùng các con cháu.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm dâng hương tưởng niệm nhạc sĩ Văn Cao - tác giả Quốc ca Việt Nam. Ảnh: Lâm Khánh - TTXVN

Nói chuyện với gia đình, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước bày tỏ lòng biết ơn đối với những đóng lớn lao của cố nhạc sỹ Văn Cao cho cách mạng Việt Nam; khẳng định ngoài Quốc ca, nhạc sỹ Văn Cao còn có nhiều tác phẩm, bản nhạc khác có ý nghĩa quan trọng, mang tính hiệu triệu, kêu gọi và động viên tinh thần rất lớn, góp phần quan trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tặng phu nhân cố nhạc sỹ Văn Cao và gia đình bức chân dung Bác Hồ, thăm hỏi chân tình và chúc phu nhân cố nhạc sỹ luôn mạnh khỏe, là chỗ dựa cho con cháu và có thêm nhiều đóng góp cho đất nước.

Tri ân tác giả Quốc ca và Quốc huy Việt Nam (Nguồn: vtvgo.vn) 

Phu nhân cố nhạc sỹ Văn Cao bày tỏ xúc động và vinh dự được đón Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đến thăm đúng vào ngày Quốc khánh và cũng là thời điểm cách đây 80 năm bài “Tiến quân ca” ra đời. Bà Nghiêm Thúy Băng bày tỏ cảm ơn trước những tình cảm chân tình của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, đồng thời khẳng định sẽ tiếp tục động viên gia đình luôn thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tặng chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh cho gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao. Ảnh: Lâm Khánh - TTXVN 

Nhạc sỹ Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, tại Hải Phòng trong một gia đình viên chức. Ông là tác giả của bài “Tiến quân ca” - Quốc ca của Việt Nam với những giai điệu thiêng liêng, hào hùng. Bài hát ra đời gắn với những ký ức Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám cùng những kỷ niệm khó quên của tác giả.

Tên tuổi của ông quen thuộc với đông đảo với công chúng qua rất nhiều tác phẩm đi cùng năm tháng, trong đó đặc biệt nổi tiếng là “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Trường ca sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”… Nhạc sỹ Văn Cao là một trong những văn nghệ sĩ đầu tiên được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Những cống hiến của ông đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh…

Tiếp đó, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tới thăm gia đình cố họa sỹ Bùi Trang Chước, tác giả của mẫu Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm ân cần thăm hỏi cuộc sống của gia đình và cho biết nhân dịp Quốc khánh, thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến thắp hương tưởng nhớ, tri ân những đóng góp to lớn của họa sỹ Bùi Trang Chước với đất nước.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định những tác phẩm của họa sỹ Bùi Trang Chước đều là những tác phẩm kỹ lưỡng, tỉ mỉ, chi tiết, có tính khái quát cao, có sự cuốn hút của tác phẩm. Ngoài vẽ biểu tượng Quốc huy, họa sỹ Bùi Trang Chước cũng là người thiết kế mẫu các huân chương và biểu trưng của nhiều ngành. Các tác phẩm đều có những nét đặc trưng, thể hiện sự tâm huyết và tài năng của họa sỹ.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh, họa sỹ Bùi Trang Chước là một trong những người nổi bật trong thế hệ có công với đất nước. Những công lao, đóng góp của họa sỹ, nhất là tác phẩm thiết kế Quốc huy không chỉ là biểu tượng của nhân dân Việt Nam mà còn được quốc tế đánh giá cao; có ý nghĩa tập hợp đoàn kết quốc gia bền vững, sức mạnh toàn dân tộc.

 
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm chung vui ngày Quốc khánh 2/9 với gia đình cố họa sĩ Bùi Trang Chước. Ảnh: Lâm Khánh - TTXVN 

Đại diện gia đình, các con trai, con gái của họa sỹ bày tỏ lòng biết ơn sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và đặc biệt là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, khẳng định gia đình tiếp tục học tập, noi theo tấm gương của họa sỹ thực hiện tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Họa sỹ Bùi Trang Chước tên thật là Nguyễn Văn Chước, sinh ngày 21/5/1915 tại thôn Phú Xá, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Ông tốt nghiệp loại Xuất sắc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1941. Ra trường, ông được mời về giảng dạy tại Trường Kiến trúc Đà Lạt. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, họa sỹ Bùi Trang Chước cùng gia đình chuyển ra Hà Nội và giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Hà Nội. Lúc toàn quốc kháng chiến, ông lên Việt Bắc theo cách mạng, giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Liên khu Việt Bắc.

Ngoài việc giảng dạy, họa sỹ Bùi Trang Chước dành nhiều thời gian sáng tác nghệ thuật và là một trong những họa sỹ tài năng của nền hội họa Việt Nam. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật và ứng dụng, giàu ý nghĩa. Các phác thảo mẫu Quốc huy, mẫu tem thư, tiền giấy, tranh phong cảnh, ký họa nghệ thuật và rất nhiều các tác phẩm đồ họa khác giàu tính thẩm mỹ được ông vẽ công phu, tỉ mỉ. Các phác thảo mẫu Quốc huy của ông đã được công nhận Bảo vật quốc gia.

Đặc biệt, họa sỹ Bùi Trang Chước còn có nhiều tác phẩm giá trị về Chủ tịch Hồ Chí Minh đậm chất nhân văn và dấu ấn lịch sử, trong đó có các tác phẩm như: mẫu Huy hiệu “Intercosmos” và chân dung “Hồ Chủ tịch”; mẫu Huy hiệu Hồ Chí Minh, áp phích 100 năm Ngày sinh nhật Bác Hồ; khung tranh vẽ bằng bột màu Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm sinh nhật của Người năm 1970; mẫu Huy hiệu kỷ niệm 81 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mẫu tem kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Hồ Chủ tịch; mẫu tiền có vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh; mẫu vẽ thiết kế trang trí mặt tiền Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh...

Ghi nhận tài năng và công lao của họa sỹ Bùi Trang Chước, Đảng và Nhà nước đã trao tặng họa sỹ nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.../.

Làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác Chiến lược toàn diện Việt Nam - Nhật Bản.

 Chiều ngày 3/9, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm hội đàm trực tuyến cấp cao với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Thủ tướng Kishida Fumio một lần nữa chia buồn sâu sắc trước sự ra đi của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio tin tưởng Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm sẽ tiếp tục đóng góp quan trọng thúc đẩy và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Việt Nam là đối tác quan trọng của Nhật Bản ở khu vực và trên thế giới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio đã gửi Điện chia buồn và cử Đặc phái viên là nguyên Thủ tướng Suga Yoshihide dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ Nhật Bản sang dự Lễ Quốc tang cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trân trọng cảm ơn Thủ tướng Kishida Fumio đã gửi lời chúc mừng đến Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, tái khẳng định Nhật Bản là đối tác quan trọng của Việt Nam trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước hội đàm trực tuyến cấp cao với Thủ tướng Nhật Bản
(Nguồn: vtvgo.vn)

Hai nhà lãnh đạo vui mừng về sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng và toàn diện trong quan hệ song phương, nhất là việc hai nước thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình ở châu Á và trên thế giới nhân dịp kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai bên nhất trí tiếp tục tăng cường tin cậy chính trị, hiểu biết lẫn nhau thông qua duy trì trao đổi cấp cao bằng nhiều hình thức linh hoạt, phát huy hiệu quả các cơ chế đối thoại, hợp tác song phương. Hai bên nhất trí đẩy mạnh hợp tác kinh tế là trụ cột chính của quan hệ hai nước, đi sâu kết nối hai nền kinh tế. Thủ tướng Nhật Bản nhấn mạnh Nhật Bản sẽ tiếp tục đóng góp vào sự phát triển của Việt Nam thông qua viện trợ ODA, tăng cường hợp tác với Việt Nam trong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh Việt Nam sẽ tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng, hoan nghênh các doanh nghiệp nước ngoài, trong đó có các doanh nghiệp Nhật Bản tham gia đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam.

 Hội đàm trực tuyến cấp cao  giữa Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm với Chủ tịch Đảng Dân chủ Tự do, Thủ tướng Nhật Bản Kishida Fumio. (Ảnh:  Trí Dũng/TTXVN)

Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng - an ninh theo hướng thực chất, triển khai có hiệu quả các thỏa thuận hợp tác đã ký kết; làm sâu sắc hơn kết nối nguồn nhân lực, giao lưu nhân dân, hợp tác giữa các địa phương. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đề nghị Chính phủ Nhật Bản tiếp tục quan tâm, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho cộng đồng người Việt Nam đang sinh sống, học tập, làm việc tại Nhật Bản.

Hai bên cũng trao đổi về các vấn đề quốc tế, khu vực cùng quan tâm, nhất trí tăng cường hợp tác củng cố môi trường hòa bình, an ninh, ổn định ở khu vực, trong đó có vấn đề Biển Đông./.

Chủ tịch Quốc hội dâng hương tưởng nhớ các đồng chí tiền bối cách mạng tại Vĩnh Long.

 Nhân chuyến công tác tại Vĩnh Long, sáng 4/9, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Đoàn công tác đã đến dâng hương tại Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng và Khu tưởng niệm Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt.

Tại Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng ở ấp Long Thuận A, xã Long Phước, huyện Long Hồ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Đoàn công tác đã thành kính dâng hoa, dâng hương tưởng nhớ, tri ân Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng - Nhà lãnh đạo có uy tín lớn của Đảng, Nhà nước ta, người con ưu tú của quê hương Vĩnh Long anh hùng.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn dâng hương, dâng hoa tưởng nhớ cố Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng tại xã Long Phước, huyện Long Hồ.
(Ảnh: Thống Nhất - TTXVN) 

Ghi sổ cảm tưởng, Chủ tịch Quốc hội chúc quê hương Vĩnh Long ngày càng giàu đẹp, đời sống của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, như ước nguyện của đồng chí cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng lúc sinh thời.

Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng (1912 - 1988) là người cộng sản trung kiên, bất khuất. Cả cuộc đời hoạt động của đồng chí Phạm Hùng là một tấm gương tiêu biểu, mẫu mực về đạo đức cách mạng - Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.

Sáng cùng ngày, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn và Đoàn công tác đã dâng hoa, dâng hương tại Khu tưởng niệm Thủ tướng Võ Văn Kiệt ở khóm 2, thị trấn Vũng Liêm, huyện Vũng Liêm.

Ghi sổ cảm tưởng, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn xúc động viết: "Xin kính cẩn nghiêng mình tưởng nhớ cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt – nhà lãnh đạo kiệt xuất của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là người con ưu tú của tỉnh Vĩnh Long. Đồng chí cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt đã trọn đời kiên trung với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, nêu tấm gương sáng về sự năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và tinh thần tận tụy phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân".

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đến dâng hương, hoa tưởng nhớ cố Thủ tướng Chính phủ
Võ Văn Kiệt tại huyện Vũng Liêm. (Ảnh: Thống Nhất - TTXVN) 

Gần 70 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Võ Văn Kiệt (1922 - 2008) từng giữ nhiều trọng trách lãnh đạo Đảng và chính quyền. Với phong cách làm việc dân chủ, sâu sát, lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm, đồng chí Võ Văn Kiệt đã có nhiều đóng góp quan trọng và để lại nhiều dấu ấn nổi bật trong công cuộc đổi mới, hội nhập và phát triển của đất nước.

Chủ tịch Quốc hội hoan nghênh và đề nghị Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Vĩnh Long tiếp tục làm tốt công tác quản lý Khu tưởng niệm Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt và Khu lưu niệm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng, thu hút rộng rãi khách đến tham quan, học tập và nghiên cứu, góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ./.


KHÔNG LẠM DỤNG HÌNH ẢNH CỜ TỔ QUỐC!

         Đang lồng lá cờ Tổ quốc vào chiếc cán mới để treo lên cổng chào mừng kỷ niệm Ngày Quốc khánh 2-9 thì ông Hinh giật mình bởi tiếng gọi từ phía sau của ông Bảo cùng xóm:
- Nhà ông bây giờ mới treo cờ Tổ quốc à? Mà cổng nhà ông đẹp thế này, sao không sơn hẳn lá cờ lên nóc ấy. Ông đã nhìn hình cờ Tổ quốc vừa sơn kín cả mái nhà tôi chưa?

- Nóc nhà ông cao thế thì tôi thấy làm sao được?

- Ờ... thì... ông đứng dưới ngước lên cũng thấy một phần mà. Hôm trước, con trai tôi nó mua mấy hộp sơn, vẽ toàn bộ nóc nhà thành hình lá cờ Tổ quốc, đẹp lắm. Thôn mình cũng có một số nhà sơn quốc kỳ ở cổng, ở tường và trên nóc nhà rồi đấy. Ông đúng là... lạc hậu thật!

- Ông ơi! Tôi lại thấy cách làm đó không hợp lý, thậm chí chỉ là đua đòi, a dua không phải lối, có khi còn vi phạm pháp luật ấy chứ.

Tưởng sau khi “khoe” sẽ được nghe lời khen, ai ngờ lại bị chê, ông Bảo nóng ran trong người:

- Ông có vẻ không yêu nước thì phải. Người ta vẽ cờ Tổ quốc như thế mà ông lại chê...

- Ai bảo ông là tôi không yêu nước? Không yêu nước mà tôi phải ra tận chợ huyện để mua cán mới, lá cờ mới về để treo à? Chẳng lẽ cứ phải vẽ hình lá cờ lên mái nhà, lên các chỗ khác thì mới là yêu nước hay sao?

Đúng lúc không khí đang căng thẳng thì anh Thanh, Trưởng thôn đi tới. Thấy Trưởng thôn, cả ông Bảo và ông Hinh đều ra sức phân trần, đề nghị Trưởng thôn làm “trọng tài” phân xử. Nghe xong câu chuyện, anh Thanh cười, giọng trầm ấm:

- Theo cháu thì cả hai bác đều rất yêu nước, có trách nhiệm với cộng đồng. Còn chuyện sơn lá cờ với treo cờ là cách thể hiện riêng của mỗi người, nếu qua việc này mà khẳng định ai yêu nước hơn là không đúng. Có điều, cháu nghĩ, quốc kỳ là biểu tượng thiêng liêng của đất nước và dân tộc nên việc sử dụng phải đúng quy định, bảo đảm sự trang nghiêm, nhất là về màu sắc, kích cỡ, tỷ lệ, vị trí, cách thức treo, đặt...

Hiện nay, trên mạng xã hội đang xuất hiện trào lưu sơn cờ Tổ quốc trên mái nhà, tường, cửa cuốn với nhiều kiểu dáng, kích cỡ khác nhau. Cháu thấy điều này thể hiện tinh thần yêu nước, niềm tự hào dân tộc, nhưng chúng ta không nên lạm dụng, sử dụng tùy tiện. Bởi vì, nếu cờ vẽ sai tỷ lệ, hình khối, hoặc vẽ ở những vị trí quá thấp, đặt ở vị trí không trang trọng thì sẽ thành vi phạm quy định. Chưa kể, sau một thời gian hình vẽ đó bị bong tróc sơn, bay màu thì trông sẽ phản cảm.

Vấn đề này, tối nay chi ủy thôn sẽ họp để có đề xuất, định hướng. Hai bác đã đứng tuổi, lại cùng là đảng viên nên trong việc này càng cần phải thận trọng, không to tiếng tranh cãi kẻo kẻ xấu lại lợi dụng, kiếm cớ đả kích, xuyên tạc, khiến câu chuyện phức tạp hơn đấy ạ!

Trước những lời phân tích chí lý, ông Hinh và ông Bảo bắt tay xin lỗi nhau rồi cùng phân trần với Trưởng thôn: “Đúng là chúng tôi có tuổi rồi mà nhiều lúc vẫn còn... bốc đồng thật! Nhưng chúng tôi đều xuất phát từ lòng yêu nước...”.
Ảnh: Khắp các con phố, ngõ nhỏ đều treo cờ Tổ quốc trong không gian yên bình của ngày Tết Độc lập.
Yêu nước ST.

CHỐNG CHỦ NGHĨA XÉT LẠI Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA CÁCH MẠNG THÁNG 8 /1945

Trong những ngày này, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân cả nước ta đang tưng bừng chào mừng Kỷ niệm 79 năm Ngày Quốc khánh Nước Cộng hoà Xã hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024). Cách đây 79 năm, trong mùa thu lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bản tuyên ngôn Độc lập bất hủ đó đã mở ra một kỷ nguyên mới cho dân tộc ta, lần đầu tiên người dân Việt Nam có quyền ngẩng cao đầu, có quyền tự hào mình đã trở thành công dân của một nước tự do và độc lập, là những người chủ thực sự của đất nước. 79 năm qua là cả một quá trình phấn đấu hy sinh đầy gian khổ, không tiếc của cải và cả xương máu của dân tộc, để xây dựng nên Tổ quốc Việt Nam hôm nay. Ngày nay đất nước ta đã lớn mạnh hơn gấp nhiều lần, Việt Nam đã trở thành một quốc gia độc lập, tự chủ, có uy tín trên trường quốc tế. Giá trị và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là minh chứng hiển nhiên và không thể phủ nhận của của lịch sử.

           Hiểu rõ và cảm thấy tự hào về ý nghĩa lịch sử vĩ đại ngày độc lập của dân tộc là trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người con đất việt dù bất cứ ở nơi đâu. Ấy thế mà trong một số năm gần đây, trên mạng Internet xuất hiện nhiều bài viết thể hiện luận điệu xuyên tạc, sai trái, phản động, nhận thức lệch lạc của các thế lực thù địch, các phần tử phản động, như Việt Tân, BBC, RFA, hay một số thành phần thoái hóa biến chất cơ hội chính trị đã bị loại ra khỏi hàng ngũ của đảng đang cố gắng xuyên tạc, bóp méo tính chất và ý nghĩa của các sự kiện lịch sử này. Trong đó, những luận điệu hết sức hoang đường và thâm hiểm như: Đảng ta “cướp chính quyền của nhà Nguyễn” chứ không phải đảng đã lãnh đạo nhân dân đánh pháp, đuổi nhật để giành độc lập dân tộc. Chúng cho rằng: “Cách mạng Tháng Tám thành công nhờ may mắn từ hoàn cảnh lịch sử”, cho rằng Đảng ta lãnh đạo nhân khởi nghĩa giành chính quyền thành công và lập nên Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là đã Đánh đuổi đi một nền văn minh”, rằng  “không cần có cuộc cách mạng Tháng Tám rồi Việt Nam cũng sẽ giành được độc lập”. Nguy hiểm hơn thời gian gần đây một số đối tượng phản động bất mãn với đường lối chính sách và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng tự xưng là “người yêu nước”, “người bất đồng chính kiến” đang lợi dụng các trang mạng xã hội đòi xét lại sự kiện lịch sử Cách Mạng Tháng Tám.

          Những luận điệu xuyên tạc trên mà các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị cố tình rêu rao không có gì mới, thậm chí đã bị không ít các chuyên gia, các nhà nghiên cứu lịch sử và đông đảo quần chúng nhân dân lên án và phản đối vì nó đi ngược lại hoàn toàn với lợi ích quốc gia, dân tộc và nguyện vọng của nhân dân và có một chân lý: Giá trị và ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 sẽ không bị phai mờ theo thời gian. Tuy nhiên trong thời đại công nghệ thông tin với sự phát triển bùng nổ của mạng xã hội thì những luận điệu sai trái này lại đang âm thầm lan rộng, tác động đến một bộ phận quần chúng nhân dân (nhất là thế hệ trẻ), do thiếu cảnh giác, bản lĩnh chính trị không vững vàng, có thể ngộ nhận, dao động, suy giảm niềm tin vào con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vào công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mục đích của chúng không có gì khác ngoài làm suy giảm uy tín của đảng, phai mờ hình ảnh công lao của chủ tịch Hồ Chí Minh, phá hoại về tư tưởng và đại đoàn kết dân tộc, gây mất lòng tin của các thế hệ, các tầng lớp trong xã hội đối với truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc Việt Nam, qua đó lợi dụng các vấn đề còn bất cập trong xã hội để tuyên truyền chống phá đường lối chính sánh của đảng, gây bất ổn xã hội, cuối cùng là làm suy yếu dẫn đến xóa bỏ chế độ chính trị ở nước ta. Song thực tiễn đã khẳng định với đường lối lãnh đạo đúng đắn của đảng, với sự thành công của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, sự phát triển về kinh tế, sự độc lập tự chủ trong đường lối đối ngoại, sự nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế là nhũng bằn chứng đanh thép nhất, rõ ràng nhất về tính đúng đắn của con đường cách mạng mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn qua đó đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam.

          Lợi dụng các tổ chức phản động trong và ngoài nước, các đối tượng phản động, trở cờ, cơ hội chính trị để xuyên tạc, bôi nhọ xét lại lịch sử đưa ra những luận điệu xuyên tạc vu khống về giá trị lịch sử của Cách Mạng Tháng Tám nói riêng và những sự kiện, nhân vật lịch sử nói chung là âm mưu thủ đoạn vô cùng nguy hiểm của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy chúng ta đặc biệt là những đảng viên trẻ, cần nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn, bóp méo lịch sử của các thế lực thù địch và phần tử xấu. Đồng thời, hãy tuyệt đối nêu cao tinh thần cảnh giác, giữ vững niềm tin đối với Đảng, Nhà nước, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, tích cực chủ động tuyên truyền vị trí vai trò, ý nghĩa lịch sử của những sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành niềm tự hào của đất nước, của dân tộc như Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.... Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện của chủ nghĩa xét lại với những sự kiện lịch sử của dân tộc tên không gian mạng, tích cực tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân không nghe theo kẻ xấu lôi kéo, kích động, xúi giục thực hiện những hành vi chống phá, gây rối, mất an ninh trật tự tại địa phương để đập tan âm mưu xuyên tạc , chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với Cách mạng Việt Nam. 

ÂM MƯU THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC

 

Ngày 9-11-1946, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó ghi nhận: Nhân dân có quyền "tự do tín ngưỡng". Trong quá trình lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta luôn quan điểm nhất quan trong tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo đúng Pháp luật. Các tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ, bình đẳng trước Pháp luật.

          Thực tiễn hiện nay ở Việt Nam có hơn 26.5 triệu tín đồ tôn giáo, chiếm 27% dân số cả nước, có 43 tổ chức và 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp phép đăng ký hoạt động, các tổ chức tôn giáo đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc đặc biệt trong công tác phòng chống dịch covid 19 đã có hơn 3000 tình nguyện viên tham gia chống dịch, “Bếp yêu thương”, có thể khẳng định trên thế giới Việt Nam nằm trong số ít các nước có nhiều tổ chức tín ngưỡng tôn giáo đến vậy, việc sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo đa dạng phong phú, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân, trong xu thế phát triển của thời đại luôn gắn liền với đời sống tín, ngưỡng tôn giáo hoạt động theo Hiến pháp và Pháp luật của Nhà nước. Chức sắc và tín đồ thuộc các tôn giáo đều được tự do sinh hoạt, tự do thực hành các lễ nghi tôn giáo, biểu hiện đức tin, được tạo điều kiện tốt nhất để mở mang cơ sở vật chất, tu sửa nơi thờ tự và mở mang, phát triển quan hệ giao lưu quốc tế. Các ngày lễ trọng, lễ hội truyền thống như Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành... Được tổ chức trang nghiêm, thu hút đông đảo không chỉ tín đồ mà cả quần chúng nhân dân tham gia. Cùng với sự phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam cũng không ngừng gia tăng trong những năm gần đây.

          Tuy nhiên thời gian gần đây các tổ chức phản động thường xuyên đẩy mạnh chống phá, lợi dụng các vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để đưa tin sai sự thật, đặc biệt các tổ chức RFA, Việt Tân… Chúng thường xuyên móc nối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước để lôi kéo kích động nhân dân, thủ đoạn dùng các vấn đề dân tộc đòi ly khai như ở Tây nguyên, vấn đề tồn đọng trong xã hội vụ việc Formosa Hà Tĩnh để kích động nhân dân biểu tình… một số tổ chức Tin lành nước ngoài chưa được cấp phép, điển hình là các tổ chức tà giáo mang danh nghĩa Tin lành truyền vào Việt Nam như Hội thánh của Đức Chúa Trời mẹ, Tân Thiên Địa, hoạt động của các tôn giáo này chủ yếu mê tín dị đoan, có biểu hiện trục lợi, hoạt động lén lút, xúi dục, kích động nhân dân, chúng vu khống chính phủ Việt Nam đàn áp tôn giáo, không cho người dân “tự do tín ngưỡng”, thực tế cho thấy ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới các tổ chức tôn giáo đều phải hoạt động theo khuân khổ Pháp luật của quốc gia đó, ở Việt Nam cũng vậy.

          Tóm lại, các thế lực thù địch lợi dụng các vấn đề tự do tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, âm mưu thủ đoạn chống phá ngày càng đa dạng, với tính chất ngày càng phức tạp, tinh vi, cả trong và ngoài nước, chống phá trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, nhằm từng bước xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy cần sự chung sức đồng lòng của các cấp uỷ đảng từ Trung ương đến địa phương, tuyên truyền để nhân dân hiểu đường lối chủ trương chính sách của Đảng, sự đồng lòng của nhân dân từ đó làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.

PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG LÀ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH HÀNG ĐẦU

 

Tham nhũng và cuộc đấu tranh chống tham nhũng là vấn đề nóng bỏng, phức tạp, nan giải và rất bức xúc ở nước ta hiện nay. Tham nhũng đã và đang đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là vấn đề liên quan nhiều nhất, chi phối đến quá trình xây dựng và phát triển của đất nước.

Tệ tham nhũng, lãng phí đã đưc khái quát, nêu rõ bản chất và nguy cơ hậu quả tai hại của nó đối với đất nước như "giặc nội xâm", đe dọa đến sự sống còn của chế độ. Hiểu rõ nguy cơ đó, thời gian qua Đảng, Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đề ra những chủ trương, giải pháp phòng, chống tham nhũng, lãng phí như: Pháp lệnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí và các cơ chế, chính sách có liên quan; ban hành và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về phòng, chống tham nhũng đến năm 2020… Những năm gần đây, nhất là khi có Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí đã đạt được một số kết quả nhất định: Nhiều vụ tham nhũng lớn, phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng tồn tại từ lâu đã bị phát hiện, xử lý; việc xử lý kỷ luật nghiêm khắc đối với những cán bộ đã dính líu vào tham nhũng; rồi những bản án tử hình, tù chung thân và bắt buộc phải bồi thường tiền, tài sản đã tham nhũng của Nhà nước, của nhân dân, làm cho tệ tham nhũng từng bước được kiềm chế. Song, tình trạng tham nhũng, lãng phí hiện nay vẫn còn nghiêm trọng, phạm vi rộng, tính chất phức tạp, làm cho nhân dân lo lắng, giảm lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước.

Để thực hiện phòng ngừa tốt tham nhũng, trước hết phải tiến hành và thực hiện nghiêm túc các giải pháp đồng bộ cả về tư tưởng, chính trị, kinh tế, pháp luật, giáo dục đạo đức, lối sống; bổ sung hoàn chỉnh các cơ chế, quy định, trước hết là nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, người đứng đầu trong phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tăng cường công tác tổ chức, cán bộ; tiếp tục hoàn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phòng, chống tham nhũng, lãng phí; nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí; mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch; phát huy vai trò giám sát của Quốc hội; Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, nhân dân và công luận; đồng thời, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, quản lý tài sản công, ngân sách nhà nước, các quỹ do nhân dân đóng góp và do nước ngoài viện trợ, bảo đảm công khai, minh bạch trong hoạt động kinh tế, tài chính, ... Đối với công dân, cần chăm lo giáo dục cho mọi người đạo đức trong sáng, lối sống lành mạnh, cách ứng xử văn minh; tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân nhận diện được các hành vi tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tạo ra môi trường xã hội chống tham nhũng, lãng phí. Đối với cán bộ, đảng viên, coi giáo dục đạo đức và xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết là biện pháp quan trọng đầu tiên để ngăn chặn, hạn chế tham nhũng, lãng phí.

Cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí là một cuộc đấu tranh khó khăn, phức tạp, nhưng được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đồng tình và quyết tâm thực hiện có hiệu quả. Chúng ta đã ban hành Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, có Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng, các cơ quan chức năng được củng cố và những kinh nghiệm trong xử lý các vụ tham nhũng, lãng phí lớn vừa qua, với ý chí, quyết tâm, thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân, chúng ta tin tưởng: Cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nhất định sẽ giành được thắng lợi, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới.

 

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG BÁO MẠNG CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ CÁCH MẠNG NƯỚC TA

 

Lợi dụng vào nhu cầu tìm hiểu thông tin của mỗi người, các phần tử phản động, những kẻ chống phá đất nước đã sử dụng chiêu trò tạo ra các website giả mạo với thiết kế giao diện, các chuyên mục thông tin, đăng ký tên miền gần như website thật, thậm chí lấy thẳng tên miền, tên website y như một tờ báo điện tử thật và ung dung đăng tin tức, thu quảng cáo… như một tờ báo chính thống. Ngoài ra các đối tượng còn lập và sử dụng hàng ngàn website, blog, mạng xã hội, diễn đàn trực tuyến như trang: “Quan làm báo”, “Dân làm báo”, “Châu Xuân Nguyên”, “Anh Ba Sàm”, “Tin tức hàng ngày”, “Tạp chí sự thật”, “Người buôn gió”… Từ đó, bằng các chiêu trò tạo dựng, phát tán các thông tin, hình ảnh giả tạo, sai lệch, biến có thành không, không thành có, thật giả lẫn lộn, để lôi kéo, hướng lái dư luận ngả theo quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động mà người đọc khó kiểm chứng hết được. Với thủ đoạn chủ yếu là giả mạo, cắt xén, ngụy tạo bằng chứng để vu cáo; sử dụng thông tin cũ với những luận điệu mới; lợi dụng những vấn đề chính trị, thời sự để tung tin thất thiệt, tạo dư luận xấu; từ các vụ việc tiêu cực, tham nhũng để quy chụp do đường lối của Đảng, Nhà nước và chế độ. Tận dụng tối đa sơ hở trong quản lý truyền thông thế hệ mới của mạng 3G, 4G…, khai thác triệt để ưu thế của các ứng dụng cung cấp nội dung cho người sử dụng Internet để tán phát tin bài, tác phẩm, tài liệu có nội dung chống phá Đảng và cách mạng nước ta.

Trước tình trạng lợi dụng báo mạng chống phá Đảng và cách mạng nước ta của các thế lực thù địch như hiện nay. Đồng thời, thực hiện tốt mục tiêu bảo vệ chế độ, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cần tập trung một số biện pháp cụ thể sau:

Một là, nhận rõ âm mưu, thủ đoạn thâm độc, nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động: Trước những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động diễn ra ngày càng quyết liệt cả về cường độ, tính chất, nội dung cũng như phương thức thủ đoạn. Vì vậy, mỗi chúng ta cần phải nhận thức sâu sắc rằng: các thế lực thù địch, phản động vẫn luôn tìm mọi cách để phủ nhận, xuyên tạc nhằm mục đích chuyển hóa chế độ xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là mục tiêu không hề thay đổi. Vì lẽ đó, chúng đã, đang và sẽ tiếp tục thực hiện với nhiều chiêu bài, âm mưu thâm độc, nham hiểm, cách thức tinh vi, xảo quyệt, thật giả lẫn lộn, khó kiểm chứng; cùng với sự giúp sức của công nghệ truyền thông đang hàng ngày, hàng giờ chống phá Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân ta; phá hoại cuộc sống, môi trường hòa bình, ổn định mà chúng ta phải đổ bao xương máu mới có được. Do đó, chúng ta cần phải nâng cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động; phải thật sự bình tĩnh, luôn tỉnh táo, không mắc mưu kẻ xấu, không để kẻ xấu lôi kéo, kích động làm tổn hại đến lợi ích của nhân dân, dân tộc và đất nước.

Hai là, các cơ quan, đơn vị cần quan tâm và đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền: Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền giáo dục, giác ngộ, nâng cao nhận thức để mọi cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững đường lối quan điểm của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước cũng như âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch. Phối hợp hiệu quả với các ngành chức năng đẩy mạnh công tác đấu tranh chống “diễn biến hòa bình,” phản bác các thông tin, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch; phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ, tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Qua đó làm cho mọi người có được cách tiếp cận đúng, phân biệt đúng, sai; tiếp nhận thông tin và biết sàng lọc thông tin, nhất là trong điều kiện thông tin mở, thông tin mạng như hiện nay. Nhận thức đúng những thông tin có lợi cho quốc gia, dân tộc để không tin theo những phần tử phản động, không cổ súy và lan truyền những thông tin xấu, có hại cho Đảng, cho đất nước, cho dân tộc.

Ba là, tăng cường xây dựng môi trường thông tin lành mạnh cho nhân dân: Việc tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân được tiếp cận những thông tin chính thống, tin cậy, tích cực, nhân văn, tránh để các thế lực phản động lợi dụng mạng xã hội nhằm kích động, lôi kéo nhân dân tụ tập đông người là rất quan trọng. Là biện pháp kịp thời định hướng dư luận, đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá thâm độc của các thế lực thù địch, phản động. Muốn vậy phải kiểm soát chặt chẽ các trang, bài trên báo điện tử; báo chí tuyệt đối không được “chạy theo thông tin xuyên tạc, bịa đặt trên mạng” mà phải vào cuộc với sự tỉnh táo, trách nhiệm. Đồng thời, xây dựng và triển khai các phương án phòng ngừa, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân; ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng dân chủ, vi phạm pháp luật. Kiên quyết đấu tranh chống mọi luận điệu xuyên tạc, âm mưu, hoạt động gây rối, phá hoại an ninh, trật tự và âm mưu chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bốn là, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự là công bộc, là đầy tớ thật trung thành, tận tụy với nhân dân: Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự gương mẫu, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe nhân dân đóng góp ý kiến để kịp thời nắm bắt tư tưởng, tuyên truyền, vận động và định hướng dư luận theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng. Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng những sơ hở, hạn chế trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên để tập trung công kích, nói xấu. Thậm chí ở một số nơi chúng còn cắt, ghép hình ảnh thành những clip rồi tung lên mạng nhằm tạo thông tin sai lệch, gây tâm lý hoài nghi, dạo động, thiếu niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, chí công vô tư; đồng thời, biểu thị rõ thái độ dứt khoát trước các biểu hiện lừa gạt, kích động của các thế lực thù địch góp phần giữ vững thế trận lòng dân trước sự chống phá của chúng.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự tiện ích mà mạng xã hội, truyền thông đem lại trong đời sống xã hội là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, trong thế giới ảo đó có cả thật, giả lẫn lộn, có những điều tốt nhưng cũng có cả những liều thuốc độc. Chúng ta cần phải  tỉnh táo, có một cái đầu lạnh, một trái tim nóng trước những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch; phải nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bình tĩnh xem xét các vấn đề, nắm chắc đường lối, quan điểm của đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước để tiếp nhận, xử lý thông tin cho chuẩn xác. Đặc biệt là qua các luận điệu xuyên tạc bôi xấu đảng ta của các thế lực thù địch để tránh mắc mưu của chúng; góp phần đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch bảo vệ đảng và thành quả cách mạng mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã đem lại trong sự nghiệp giải phóng, bảo vệ, gìn giữ hòa bình và phát triển đất nước của dân tộc ta.

CẢNH GIÁC VỚI THỦ ĐOẠN “MỀM” TRONG CHỐNG PHÁ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG HIỆN NAY

 

Sau nhiều biện pháp tuyên truyền trắng trợn, xuyên tạc chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách công khai, nhằm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta không mang lại kết quả, các thế lực thù địch quay sang sử dụng thủ đoạn đoạn “mềm”, bằng cách triệt để tận dụng xu thế toàn cầu hóa và chủ trương hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Thực hiện thủ đoạn “mềm”, các thế lực thù địch chuyển từ đối đầu sang thực hiện quan hệ thân thiện, đi sâu vào các lĩnh vực, các ngành mà chúng ta còn bộc lộ nhiều hạn chế, thiếu sót trong quản lý, chỉ đạo và thực hiện; chúng tăng cường quan hệ nhiều mặt để tiếp cận, thâm nhập. Qua đó, tác động vào tư tưởng của cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ đảng viên có vị trí, vai trò cao trong Đảng, Nhà nước để thúc đẩy quá trình “tự diễn biến” ngay từ trong nội bộ ta.

Các thế lực thù địch luôn cho rằng, để thực hiện được mưu đồ “chuyển hóa” chế độ chính trị ở Việt Nam thì vấn đề trước tiên là phải xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa; phải xây dựng ý thức hệ, hệ thống lý luận có khả năng triệt tiêu chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng một giai cấp – xã hội mới kiểu tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Bên cạnh đó, còn phải tăng cường hợp tác toàn diện, tiến tới “lộ trình dân chủ toàn diện” ở Việt Nam.

Để thực hiện mưu đồ trên, trước hết chúng lấy tiến công trên lĩnh vực kinh tế làm mũi nhọn, thông qua đầu tư thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản tại Việt Nam, từ đó làm cho nền kinh tế Việt Nam chệch hướng xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường, điều kiện để hình thành “chính trị dân chủ”, “xã hội dân sự”, tạo ra môi trường và cơ hội cho các tổ chức chính trị đối lập xuất hiện công khai chống Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho Đảng ta không kiểm soát được tình hình; tạo tình thế không thể không thay đổi, buộc Đảng hoặc phải chấp nhận “dân chủ”, hoặc tan vỡ do bạo động, đột biến chính trị, xã hội. Đồng thời, chúng kêu gọi dân chủ kiểu tư sản nhằm “dân chủ hóa chính quyền”, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng và đảng viên ra khỏi quần chúng để tạo áp lực, lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng cho rằng, chỉ có điều chỉnh chính sách, thông qua “thân thiện giả hiệu” để đi sâu vào Việt Nam, làm ăn với chúng ta thì chúng mới có cơ hội, điều kiện, môi trường tiếp cận rộng rãi để tạo dựng, thúc bách “xã hội dân sự” tại Việt Nam.

Hai là, thông qua hoạt động ngoại giao chính thức, một mặt chúng tăng cường tiếp cận với mọi đối tượng để mua chuộc, lôi kéo, tác động làm “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” nội bộ ta ngay từ bên trên, bên trong; chú trọng việc hỗ trợ cho những phần tử được chúng cho là “có tư tưởng dân chủ, thân phương Tây”. Mặt khác, chúng tăng cường tổ chức các hoạt động giao lưu, trao đổi, đối ngoại với Việt Nam trên nhiều lĩnh vực để tăng cường quảng bá hình ảnh, giá trị tư bản chủ nghĩa thông qua các thủ đoạn “ngoại giao thân thiện”; đồng thời tạo kênh và cơ hội tiếp cận sâu hơn với cán bộ, đảng viên để thúc đẩy “tự chuyển biến”, “tự chuyển hóa”; tăng cường xâm nhập, tiến công “chuyển hóa” ngầm bằng các thủ đoạn hết sức tinh vi, để phá hoạt nội bộ ta.

Trước những thủ đoạn “mềm” của các thế lực thù địch, mỗi chúng ta, trước hết là mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không ngừng trau dồi phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của người đảng viên; kiên định, nhất quán quan điểm của Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động.