Thứ Hai, 23 tháng 9, 2024

Thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 Cách đây 55 năm, trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, chứa đựng những tư tưởng lớn về Đảng và xây dựng Đảng, trong đó có nội dung hết sức sâu sắc về thực hành dân chủ trong Đảng. Quán triệt và thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cách thức hữu hiệu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, thật sự “là đạo đức, là văn minh” theo tâm nguyện của Người.

1- Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc thiêng liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách và tình cảm, tâm nguyện của Người đối với dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta. Di chúc chứa đựng những tư tưởng lớn, là bản tổng kết lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc về cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Di chúc đề cập nội dung hết sức  sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, để Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của tình hình và nhiệm vụ mới, xứng danh là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở nước ta.

Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nhiều tâm huyết, trí tuệ và suy tư, trăn trở cho công tác xây dựng Đảng. Người căn dặn Đảng ta: việc cần làm trước tiên là “chỉnh đốn lại Đảng”, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ “đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”; đồng thời nhấn mạnh, “Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy, chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.

Xác định rõ tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc tới việc làm thế nào để dân chủ trong Đảng được phát huy mạnh mẽ trong mọi hoạt động của Đảng. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ là “của quý báu nhất của nhân dân” và thực hành dân chủ là “chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1) trong quá trình Đảng lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.

Thực hiện dân chủ trong Đảng là quá trình Đảng đưa các giá trị dân chủ vào hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong sinh hoạt đảng, làm cho dân chủ trở thành hiện thực trong mọi hoạt động của Đảng. Dân chủ trong Đảng là dân chủ có tính đảng, gắn với kỷ luật, kỷ cương, đối lập với tình trạng dân chủ tùy tiện, vô chính phủ, dân chủ giả hiệu.

Thực hành dân chủ trong Đảng thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó có việc tổ chức đảng, đảng viên bàn bạc, thảo luận các vấn đề để đi tới hình thành quyết sách chính trị của Đảng. Dân chủ trong Đảng được phản chiếu trong văn hóa đấu tranh tự phê bình và phê bình, hoạt động chất vấn của tổ chức đảng và đảng viên; phản ánh, kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về bản chất, dân chủ không đối lập với tập trung, kỷ luật, mà chỉ đối lập với sự quan liêu, thói gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền và lạm quyền. Tập trung cũng không đối lập với dân chủ, mà chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, thói tự do vô chính phủ.

Thực hành dân chủ trong Đảng được thể hiện trong tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. V.I. Lê-nin từng chỉ rõ: Không thể có một đảng cách mạng chân chính mà lại phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu không có tập trung thì đảng trở thành một tổ chức biệt phái, hỗn độn, một “câu lạc bộ tranh luận”; nếu xa rời dân chủ, đảng sẽ bị biến thành một tổ chức chuyên quyền, độc đoán, quan liêu. Vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I. Lê-nin về nguyên tắc tập trung dân chủ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, có lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập “tập trung dân chủ”, nhưng nhiều hơn cả là Người đề cập “dân chủ tập trung”. Tập trung dân chủ bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là nguyên tắc tổ chức cao nhất và là chế độ lãnh đạo của Đảng, phải được tuân thủ nghiêm ngặt, triệt để, làm cho Đảng ngày càng thống nhất về ý chí và hành động. Người lý giải: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương; tất cả đảng viên phải chấp hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người còn chỉ rõ: “Tập trung trên nền tảng dân chủ. Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân chính. Những phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế là tập trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên chính; nó là xây dựng trên nền tảng dân chủ(2). Dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung, được thể hiện ở chỗ “trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng”(3).

Để thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải thật sự mở rộng dân chủ để cho tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải tập hợp ý kiến của đảng viên để giúp Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt; làm như thế là khơi dậy tinh thần trách nhiệm và tính tích cực chủ động của tất cả đảng viên. Khi đã thảo luận, bày tỏ ý kiến rồi thì đi đến tập trung, làm cho “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(4), tức là đề cập ý chí thống nhất, hành động thống nhất. Việc thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ trong Đảng cũng như đi tìm chân lý trong lĩnh vực tư tưởng. Người chỉ rõ: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân lý”(5). Trong quá trình thực hành dân chủ phải kiên quyết chống mọi biểu hiện lệch lạc, không để “sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”(6).

Là tổ chức lãnh đạo xây dựng, phát triển nền dân chủ ở nước ta, Đảng phải là hạt nhân và là tấm gương thực hành, phát huy dân chủ. Vì thế, Người đòi hỏi “đảng viên ở địa vị càng cao... càng phải làm gương dân chủ”(7). Dân chủ trong Đảng, do đó có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát huy dân chủ trong xã hội.

Một điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm khi phát huy dân chủ trong Đảng, đó là: Với vai trò, sứ mệnh là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì Đảng phải phát huy cao độ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức chính trị - xã hội để thông qua các tổ chức này, nhân dân thực hiện và phát huy vai trò là chủ, làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân - đó chính là dấu hiệu đặc trưng của chế độ dân chủ mới. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn tình trạng người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Đảng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Vì thế, thực hành dân chủ trong Đảng đòi hỏi phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, “Phải thật sự thi hành dân chủ trong Đảng và trong quần chúng”(8). Đảng phải khuyến khích nhân dân trong vai trò làm chủ “giúp Chính phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các cán bộ”(9). Điều đó có ý nghĩa lớn trong phát triển nền dân chủ mới, giúp cho Đảng phòng, tránh được tệ quan liêu hóa, xa rời nhân dân. Để phát huy dân chủ, Đảng có trách nhiệm làm cho mỗi người dân “phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”(10), họ phải biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Đó là những vấn đề có liên quan trực tiếp tới quá trình thực hành và phát triển dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Một trong những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm là phòng, chống việc làm đi ngược với lợi ích của quần chúng, biểu hiện lệch lạc trong quá trình dân chủ hóa. Người lên án hiện tượng một số cán bộ “Miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”(11). Người còn chỉ rõ: “Tác phong của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”(12).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ và kỷ luật của Đảng có mối quan hệ biện chứng, là hai mặt không thể tách rời trong một thể thống nhất của chế độ sinh hoạt đảng. Người cho rằng, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. “Để làm cho Đảng mạnh, thì phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật”(13) và “thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng(14). Theo Người, “Trong nội bộ Đảng có dân chủ rộng rãi, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc”(15); do đó, phải kiên quyết chống lời nói và việc làm tự do vô tổ chức, như “không xét thời gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn”(16).

2- Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để phát huy dân chủ, để cán bộ, đảng viên được phát huy tối đa năng lực cá nhân, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội chính là cách thức phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Vận dụng và phát triển tư tưởng về thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã cụ thể hóa trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội các khóa và từng bước hoàn thiện trong nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, trong hoạt động thực tiễn của tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên.

Những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, của công tác xây dựng Đảng là thước đo cho những giá trị đạt được về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Thực tiễn cho thấy, dân chủ ngày càng được thực hiện tốt hơn qua từng năm và qua mỗi nhiệm kỳ Đại hội Đảng. Dân chủ trong Đảng được mở rộng đúng hướng, từ đó tăng cường đoàn kết thống nhất trong nội bộ Đảng; đồng thời, phát hiện và ngăn ngừa nhiều việc làm sai trái, xử lý nghiêm không ít tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề cập việc có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung. Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều được lấy ý kiến rộng rãi trong Đảng và trong xã hội. Trong công tác cán bộ, việc lấy phiếu tín nhiệm, ứng cử, đề cử đều được đưa vào quy định của Đảng, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, theo phương châm “trong trước, ngoài sau”, “trên trước, dưới sau”, “cấp trên nêu gương cho cấp dưới”, thực hành dân chủ được quán triệt và yêu cầu thực hiện trong tất cả hoạt động của Đảng, từ công tác cán bộ, khen thưởng, kỷ luật và “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” khi xử lý sai phạm.

Trong các nhiệm kỳ gần đây, thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được mở rộng, phát huy bằng những quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như Quy định của Bộ Chính trị báo cáo công việc và hoạt động giữa hai kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; các cấp ủy có trách nhiệm báo cáo sự lãnh đạo, chỉ đạo giữa hai kỳ họp. Quy định thời gian tiến hành tự phê bình và phê bình, lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan cao nhất đến tổ chức cơ sở, nhân dân góp ý xây dựng Đảng. Các quy chế về thông tin, cung cấp thông tin, bảo mật thông tin được tăng cường(17).

Cùng với đẩy mạnh thực hành dân chủ trong Đảng, việc thực hành dân chủ trong các cơ quan nhà nước được chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”(18). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), tiếp tục khẳng định và nêu rõ hơn vấn đề này: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”(19). Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa các Hiến pháp trước đó, trên cơ sở truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây dựng nên nền văn hiến Việt Nam, quán triệt việc lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Hiến pháp năm 2013 đã cụ thể hóa tư tưởng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. 

Trong sự vận hành của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng ta nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phải bảo đảm “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” thông qua kiểm soát chặt chẽ việc thực thi quyền lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Trong gần 40 năm đổi mới vừa qua, Đảng đã chỉ đạo xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực đạt nhiều kết quả trong thực tiễn. Nhiều văn bản liên quan được chỉ đạo xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả trong đời sống xã hội(20). Trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XII và hơn nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, “Về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”. Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, Bộ Chính trị đã ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày 26-10-2022, về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng lần lượt được ban hành, như Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở...

Tuy nhiên, để dân chủ thấm sâu trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội..., chúng ta còn nhiều việc phải làm. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về dân chủ và phát huy dân chủ phần nào chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn, đặc biệt trong điều kiện mới, như phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy công nghệ thông tin, công nghệ số, mạng xã hội phát triển nhanh chóng, mở ra nhiều cơ hội đồng thời đưa đến nhiều thách thức cho việc thực hành dân chủ,... Việc thực hành dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, nhiều mặt chưa gắn kết chặt chẽ với việc thực hiện pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó vào cuộc sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn kịp thời; dân chủ bị vi phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt đảng giảm sút... Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”(21).

3- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước”(22). Người cũng lưu ý: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”(23), vào Đảng không phải là để “làm quan cách mạng”, để “thăng quan tiến chức”, để “một người làm quan cả họ được nhờ”, “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân, phong kiến”,... Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức rất rõ trách nhiệm lịch sử và vinh quang khi được nhân dân và dân tộc trao sứ mệnh lãnh đạo, cầm quyền, để quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, theo đó: “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”. Trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(24).

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò quyết định trong quá trình phát huy dân chủ. Dân chủ trong Đảng là một trong những tiền đề chủ yếu để thúc đẩy dân chủ trong xã hội. Đứng trước thuận lợi, thời cơ mới của đất nước sau gần 40 năm đổi mới; đối diện với nhiều khó khăn, thách thức đan xen trong quá trình phát triển đất nước, Đảng ta ngày càng nhận rõ sức mạnh của dân chủ và phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội.

Để thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách thực chất, hiệu quả, trước hết cần giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội, làm cho họ nhận thức rõ sức mạnh và ý nghĩa hết sức to lớn của dân chủ đối với Đảng, với chế độ. Cùng với đó, quy định cụ thể, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên; giúp cho cán bộ, đảng viên tự giác, nghiêm túc, thường xuyên thực hiện và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, theo hướng mở rộng dân chủ trong tất cả các khâu, từ tuyển dụng, tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bổ nhiệm, giới thiệu, bầu cử, sử dụng, thực hiện chính sách đối với cán bộ,... bảo đảm lựa chọn và sử dụng được người có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn thiện thể chế và cơ chế kiểm soát quyền lực đi đôi với bảo vệ, khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung; thực hiện quy định nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của cấp ủy, người đứng đầu bảo đảm thực chất, thiết thực đồng thời với đẩy mạnh việc noi gương, học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đổi mới mạnh mẽ nội dung và hình thức sinh hoạt đảng theo hướng phát huy hơn nữa tinh thần dân chủ, tiếp thu ý kiến góp ý. Có cơ chế cụ thể để phát huy mạnh mẽ vai trò và tinh thần trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, đặc biệt là trong giám sát việc thực hiện nêu gương, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. 

Bản Di chúc thiêng liêng, trong đó có những lời căn dặn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, luôn là kim chỉ nam, là ánh sáng soi đường để Đảng và nhân dân ta thêm kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện, xứng danh Đảng “là đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tri, phẩm giá của dân tộc và thời đại./.

 

 

 

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ TÔN GIÁO ĐỂ CHỐNG PHÁ CÁCH MẠNG NƯỚC TA

 

Tôn giáo là một trong những vấn đề nhạy cảm, liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Tôn giáo đang và sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Giải quyết vấn đề tôn giáo nhằm tăng cường và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Các quyền này đã được nêu rõ trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước Việt Nam. Mặc dù vậy, các thế lực thù địch vẫn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Việt Nam. Một số nước vẫn còn có các nhóm người công khai, lợi dụng vấn đề tôn giáo, can thiệp thô bạo đến công việc nội bộ của Việt Nam. Lợi dụng chính sách đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước Việt Nam, hàng năm có hàng chục phái đoàn vào “tìm hiểu tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam”; trong đó, vẫn có những nhân vật lợi dụng hoạt động này để nắm bắt tình hình, hỗ trợ, chỉ đạo các hoạt động chống phá Việt Nam.

Những phương thức chủ yếu của các thế lực thù địch, phản động trong việc lợi dụng tôn giáo nhằm chống phá cách mạng.

Thứ nhất, chúng tìm mọi cách để đưa giáo hội vào các cuộc chiến chính trị.

Một mặt chúng thúc giục các giáo hội ủng hộ các đảng phái đồi lập hoạt động chống Ðảng Cộng sản. Mặt khác, thông qua hoạt động của các đảng, phái đối lập để lôi kéo, tập hợp, kích động các chức sắc, giáo sĩ, tín đồ chống lại Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, xúi giục các giáo hội đòi lập khu tôn giáo tự trị.

Từ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, chủ nghĩa đế quốc chú trọng đến việc xây dựng các khu tôn giáo tự trị ngay trên lãnh thổ các nước xã hội chủ nghĩa. Mục đích của việc hình thành các khu tự trị tôn giáo này là: tăng thêm tính độc lập của giáo hội đối với nhà nước; tạo thế và lực cho giáo hội hoạt động chống Nhà nước; tạo cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động can thiệp trực tiếp khi giáo hội yêu cầu.

Thứ ba, khơi dậy, khoét sâu những mâu thuẫn, những vấn đề tôn giáo và dân tộc; kích động các cuộc chiến tranh mang màu sắc tôn giáo, sắc tộc, làm suy yếu tiến tới làm sụp đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay và trong thời gian tới, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đã, đang và sẽ tăng cường chỉ đạo, giúp đỡ mọi mặt để phát triển đạo trong các vùng dân tộc ít người, bao gồm cả phát triển các đạo giáo mới và cả số người theo đạo, biến các tổ chức và hoạt động tôn giáo thành các tổ chức và hoạt động chính trị chống lại cách mạng Việt Nam. Do đó, chúng ta phải thường xuyên nêu cao cảnh giác, đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, vận động để Nhân dân thấy rõ âm mưu thâm độc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.

Trên cơ sở đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tôn giáo, từ thực trạng vấn đề tôn giáo trong lịch sử thế giới, khu vực và ở nước ta, để đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam cần thực hiện tốt giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, quán triệt quan điểm, chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước; âm mưu thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch.

Hai là, củng cố và từng bước hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, dân tộc, cán bộ an ninh, cán bộ người dân tộc thiểu số.

Ba là, thường xuyên, chủ động xây dựng kế hoạch; triển khai thực hiện có hiệu quả các mặt công tác phòng, chống và giải quyết triệt để các “điểm nóng”, khu vực xảy ra biểu tình, bạo loạn.

Đấu tranh phòng, chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt Nam là một yêu cầu khách quan, cấp thiết đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Vì vậy, hơn bao giờ hết, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta phải luôn nêu cao cảnh giác, tích cực tuyền truyền, đấu tranh với các hoạt động của các thế thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng nước ta, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới./.

Mở rộng chỉ tiêu, ngành nghề đào tạo cho quân nhân

 

Bộ Quốc phòng nhận được kiến nghị của cử tri tỉnh Bình Dương do Ban Dân nguyện chuyển đến theo Công văn số 655/BDN ngày 2-8-2024, với nội dung: “Tại điểm b khoản 1 Điều 6 Luật Quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng có quy định về quyền được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, quân sự, pháp luật và chuyên môn kỹ thuật, nghiệp vụ phù hợp với vị trí, chức danh đảm nhiệm.

Tình người bên dòng sông Thao

 

Chúng tôi quay lại con đường Quốc lộ 32C hướng về phía Đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ. Vài ngày trước, trên cung đường này hai bên mênh mang là nước. Hoa màu, cây cối, nhà cửa, các công trình bị nhấn chìm. Lũ rút đi rồi, Hạ Hòa dần trở lại với cảnh sắc vốn có: Núi cao, đầm rộng, sông dài, hồ nước trong xanh bát ngát, cây cỏ tốt tươi...

Cựu dân quân làm giàu trên đồng cát quê hương

 

Ở bất cứ nơi đâu trên mảnh đất hình chữ S này luôn có những cựu chiến binh, dân quân, tự vệ lao động, sáng tạo, làm giàu trên mảnh đất quê hương. Anh Hoàng Bé, cựu dân quân ở làng Mỹ Lợi, xã Vinh Mỹ, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế là một tấm gương không quản ngày đêm miệt mài canh tác trên miền cát trắng khô cằn thành công với nhiều sản phẩm nông nghiệp có giá trị, đem lại thu nhập cao.

Nghị lực của chàng trai khiếm thị

 

Khiếm thị hoàn toàn khi chỉ mới 10 tuổi, nhưng Phùng Văn Minh (Ba Vì, Hà Nội) vẫn không ngừng học tập, vươn lên trong cuộc sống và còn giúp đỡ những người khuyết tật như mình.

Binh nhì vượt khó

 

Dù có gia cảnh đầy khó khăn so với bạn bè nhưng Binh nhì Trần Thanh Tuấn (người dân tộc Cơ Tu), chiến sĩ Tiểu đội 4, Trung đội 2, Đại đội 11, Tiểu đoàn 86, Lữ đoàn 132, Binh chủng Thông tin liên lạc lại có ý chí và nghị lực phi thường trong học tập, huấn luyện để trở thành đóa hoa tươi thắm tại Đại hội Thi đua Quyết thắng Binh chủng Thông tin liên lạc giai đoạn 2019-2024.

Kỹ thuật viên đam mê sáng kiến

 

Đến Trung đoàn 224 (Sư đoàn 375, Quân chủng Phòng không-Không quân), chúng tôi được nghe cán bộ, chiến sĩ đơn vị khen ngợi về người kỹ thuật viên đam mê sáng kiến. Đó là Trung tá QNCN Phạm Khắc Nghĩa, Kỹ thuật viên Ban Hậu cần-Kỹ thuật.

Tổ chức Chương trình trải nghiệm thực tế cho sinh viên Lào và Campuchia

 

Ngày 22-9, tại huyện Cần Giờ, Hội Nông dân TP Hồ Chí Minh tổ chức Chương trình trải nghiệm thực tế "Một ngày làm nông dân" cho 40 sinh viên Lào, Campuchia đang học tập tại TP Hồ Chí Minh.

Bộ đội về, nghĩa tình ở lại

 

Bão lũ đã đi qua, cuộc sống của người dân TP Yên Bái đang dần ổn định trở lại. Bộ đội trở về đơn vị nhưng tình quân dân thì luôn còn mãi…

Tiếp tục đổi mới, hội nhập trong kỷ nguyên vươn mình

 

Nhân dịp tham dự Tuần lễ cấp cao Đại hội đồng Liên hợp quốc Khóa 79 và làm việc tại New York, Hoa Kỳ, sáng 23-9 (giờ địa phương), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã phát biểu chính sách tại Đại học Columbia.

 


Một số giải pháp đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, thù địch về đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay

 

    Trong thời gian tới, khi cuộc đấu tranh PCTNTC mạnh hơn nữa, quyết liệt, hiệu quả hơn nữa; “không dừng”, “không nghỉ”, các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu sẽ tìm mọi cách để lợi dụng tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước với âm mưu, thủ đoạn tinh vi hơn, cường độ quyết liệt hơn, mức độ nguy hiểm hơn. Vì vậy, để đẩy mạnh PCTNTC, bên cạnh việc kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời, dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, chúng ta cần hết sức đề cao cảnh giác, nhận diện rõ và “kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phần tử xấu muốn lợi dụng cuộc đấu tranh PCTN để chia rẽ nội bộ, nói xấu, bôi nhọ Đảng, Nhà nước và chế độ ta”(14), góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Để làm được điều đó, chúng ta cần làm tốt một số giải pháp như sau:

 

    Một là, cần tiếp tục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính nguy hiểm, hậu quả, tác hại và những diễn biến mới về phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động khi đưa ra các thông tin, luận điệu chống phá về PCTNTC. Đây là biện pháp thiết thực đầu tiên để đấu tranh PCTNTC và bảo vệ nền tảng tư  tưởng của Đảng, bảo vệ bản chất cách mạng của Đảng, loại bỏ những nhân tố làm suy yếu bản chất cách mạng dẫn đến xa rời nền tảng tư tưởng của Đảng. Đặc biệt, đẩy mạnh tuyên truyền để nâng cao nhận thức và ý thức cảnh giác của cán bộ, đảng viên và nhân dân, từ đó, giúp phân biệt được đâu là thông tin thật, đâu là thông tin giả, thông tin xấu, độc hại, tạo “sức đề kháng” và “miễn dịch” trước các luận điệu sai trái, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu về tình hình tham nhũng và công tác đấu tranh PCTN; đồng thời, thấy được quyết tâm PCTNTC, những kết quả đạt được trong công tác PCTNTC của Đảng, Nhà nước thời gian qua để củng cố vững chắc niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và thành công của công cuộc PCTNTC. Một khi đã hiểu, đã tin thì các luận điệu sai trái, xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch, phản động và phần tử xấu sẽ trở nên lạc lõng, không còn đất để sinh sôi, nảy nở. Mặt khác, phải kịp thời phát hiện, có biện pháp xử lý hiệu quả những đối tượng lợi dụng PCTNTC để nói sai, đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và nhân dân; ngăn chặn, bóc gỡ những thông tin sai trái, xuyên tạc, kích động trên các phương tiện thông tin, nhất là trên các trang mạng xã hội. 

 

    Hai là, các cơ quan chức năng trong quá trình chỉ đạo, xử lý các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng phức tạp, dư luận xã hội quan tâm thuộc diện Ban Chỉ đạo trung ương về PCTNTC theo dõi, chỉ đạo quán triệt nghiêm Quy định số 116-QĐ/TW, ngày 28/7/2023 của Ban Bí thư về chỉ đạo, định hướng và cung cấp thông tin, tuyên truyền PCTNTC. Đồng thời, phối hợp chặt chẽ với Ban Chỉ đạo trung ương về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, Ban tuyên giáo Trung ương, các cơ quan báo chí để cung cấp kịp thời, đầy đủ thông tin chính xác, khách quan về kết quả kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, kết quả xác minh, điều tra, xử lý vụ việc, vụ án, giúp định hướng dư luận và cũng thể hiện sự công khai, minh bạch của Đảng, Nhà nước trong xử lý tham nhũng. Phát huy tối đa sức mạnh của phương tiện thông tin và truyền thông để tuyên truyền, đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Các cơ quan chức năng phối hợp, định hướng Đài truyền hình Việt Nam, Đài tiếng nói Việt Nam, cơ quan thông tấn của Việt Nam,… định hướng dư luận qua thực hiện các chương trình, chuyên mục: “Đấu tranh với thông tin xấu, độc trên mạng xã hội”, “Đối diện”, “Nhận diện sự thật”, “Chống diễn biến hòa bình”, “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”,…

 

    Ba là, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ bằng lý luận, lời nói hay nghị quyết mà phải bằng hành động thực tiễn, “lời nói đi đôi với việc làm”. Vậy nên, chúng ta cần tiếp tục thực hiện đấu tranh PCTNTC có hiệu quả với phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ án, vụ việc tham nhũng, các cán bộ, đảng viên, công chức tham nhũng, tiêu cực, nhất là các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Chỉ có kiên quyết, kiên trì xử lý nghiêm minh, dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng, nhất là các vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm thì chúng ta mới có căn cứ thuyết phục để hỗ trợ, nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền, phản bác, đánh bại âm mưu của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu lợi dụng PCTN để xuyên tạc, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước ta, làm cho dân tin, dân hiểu và ủng hộ công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng ta. Đây là mũi tiến công sắc bén nhất trong đấu tranh, phản bác các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc sai sự thật của các thế lực thù địch, phản động về công tác đấu tranh PCTNTC.

 

    Bốn là, chủ động nắm tình hình, phát hiện kịp thời các quan điểm, luận điệu tuyên truyền sai trái về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực để phục vụ hiệu quả việc triển khai công tác đấu tranh phản bác. trong đó, cần tập trung nắm tình hình về các đối tượng hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ cuộc đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; nội dung mà các đối tượng tuyên truyền, xuyên tạc; phương thức, thủ đoạn được các đối tượng sử dụng để tuyên truyền, xuyên tạc; sự liên kết, mối quan hệ giữa các đối tượng trong nước với các đối tượng ở nước ngoài trong việc lập, duy trì hoạt động của các trang web, blog, mạng xã hội,… sử dụng để đăng tải nội dung tuyên truyền, xuyên tạc về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Nắm chắc những vấn đề nêu trên là cơ sở, định hướng để tổ chức đấu tranh, phản bác có hiệu quả với luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực.

 

    Năm là, chủ động, kịp thời lan tỏa thông tin tích cực, chính thống, định hướng dư luận xã hội trong đấu tranh, phản bác luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, sai trái, bịa đặt về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Nội dung thông tin cần lan tỏa, định hướng dư luận tập trung vào sự đúng đắn trong chủ trương, quyết tâm chính trị về đấu tranh PCTNTC của Đảng, Nhà nước và nhân dân; ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; vạch trần, làm rõ bản chất phi nghĩa, sai trái trong các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; những sai phạm của các đối tượng có hành vi tham nhũng, tiêu cực; kết quả xử lý của cơ quan chức năng để quần chúng nhân dân hiểu rõ,… Việc lan tỏa thông tin tích cực, định hướng dư luận cần phải được tiến hành chủ động, “đi trước một bước”, thường xuyên, liên tục và tăng cường vào thời điểm phát hiện các thế lực thù địch, phản động gia tăng hoạt động tuyên tuyền, xuyên tạc công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, đặc biệt là thời điểm cơ quan chức năng xử lý vụ án, vụ việc tham nhũng, tiêu cực được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm. Sự kịp thời, chính xác, chủ động lan tỏa thông tin tích cực, định hướng dư luận xã hội giúp tránh xảy ra tình trạng “tranh tối, tranh sáng”, “khoảng trống, độ trễ” của thông tin chính thống, không cho các đối tượng xấu có cơ hội lợi dụng để tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu, bịa đặt. Quan tâm xây dựng đội ngũ cộng tác viên để lan tỏa thông tin tích cực, chính thống, định hướng dư luận trong đấu tranh, phản bác quan điểm, luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Đội ngũ cộng tác viên cần được xây dựng từ trung ương đến cơ sở, tập trung xây dựng đội ngũ cộng tác viên vào những người có uy tín, ảnh hưởng với đông đảo quần chúng (nhà khoa học, nghiên cứu đầu ngành, nhân sĩ, trí thức, cán bộ hoạt động trên các lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn học, nghệ thuật, các cựu chiến binh, lão thành cách mạng,…).

 

    Sáu là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh thông tin mạng. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư gắn liền với sự phát triển của không gian mạng, sự tương tác và kết nối internet. Với tốc độ đường truyền nhanh, độ bao phủ rộng và chi phí thấp, các thế lực thù địch sẽ tăng cường các chiến dịch thông tin truyền thông trên các nền tảng mạng xã hội để phá hoại tư tưởng chống phá cách mạng, gồm cả vấn đề tuyên truyền, xuyên tạc, bịa đặt sai sự thật về công tác đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực. Do vậy, phải làm tốt hơn nữa công tác quản lý nhà nước về an ninh thông tin mạng để chủ động phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; quan tâm ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt là công nghệ AI trong theo dõi, ngăn ngừa, thậm chí là chủ động tấn công, loại bỏ các thông tin xấu, độc, xuyên tạc nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng và các chính sách PCTNTC của Đảng và Nhà nước ta.

 

    Bảy là, cùng với tuyên truyền phản bác các luận điệu sai trái, thù địch cũng cần tuyên truyền, đấu tranh đẩy lùi, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh PCTN sẽ “làm chậm sự phát triển”, làm “hạn chế sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, “nhụt chí”, “làm cầm chừng”, “phòng thủ” trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nếu không đấu tranh đẩy lùi nhận thức sai lệch nêu trên rất dễ dẫn đến “e dè”, “thiếu kiên quyết”, “không triệt để”, “nửa vời” trong đấu tranh PCTNTC, từ đó, dễ xuôi theo các luận điệu sai trái, thù địch và là cơ hội để các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu lợi dụng xuyên tạc, chống phá.

 

  Theo ThS. Bùi Thị Thu Huyền (Ban Nội chính Trung ương)

 

 

Những em bé vùng lũ Làng Nủ

 

Con đường dẫn vào thị trấn Phố Ràng (huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai) rác thải, bùn đất vẫn còn ngổn ngang trong các nhà dân. Cơn lũ vừa đi qua khiến người dân nơi đây vẫn chưa hết bàng hoàng về vụ sạt lở tại Làng Nủ.

 


Nhận diện những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng

của Đảng trong giai đoạn hiện nay

 

    Phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (PCTNTC) ở Việt Nam hiện nay được xem là vấn đề “nóng”, đã “trở thành xu thế không thể đảo ngược, được đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân đánh giá cao, bạn bè quốc tế ghi nhận” và đây cũng là một trong những mục tiêu mà các thế lực thù địch, phản động nhắm vào để xuyên tạc, gây chia rẽ nội bộ, chống phá cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch nói chung và quan điểm sai trái, thù địch về đấu tranh PCTNTC nói riêng là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa sống còn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay.

   Luận điệu 1: Đấu tranh PCTNTC, xử lý cán bộ đảng viên sai phạm chỉ là trò “đánh trống” “khua chiêng” nhằm “che mắt thế gian”, thực chất là “đấu đá, thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng phe cánh”, vì lợi ích của một bộ phận cán bộ “chóp bu” trong hệ thống chính trị.

    Những kẻ phản động, thù địch luôn tìm ra mọi lý lẽ để bẻ lái các thông tin theo ý muốn của chúng. Khi chúng ta chưa đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng hoặc đã làm nhưng kết quả bước đầu chưa rõ nét, còn hạn chế thì các thế lực thù địch, phần tử xấu cho rằng đấu tranh PCTNTC, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm chỉ là mị dân, “hô khẩu hiệu”, thiếu triệt để, trò “đánh trống”, “khua chiêng” nhằm “che mắt thế gian”. Đến khi những vụ án, vụ việc tham nhũng bị phát hiện, xử lý quyết liệt thì chúng cho rằng, các vụ án, vụ việc được phát hiện, xử lý này chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”, là những vụ án, vụ việc không thể che đậy được nữa; mục đích nhằm xoa dịu bức xúc, bất bình nhất thời của cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội. Và sở dĩ không phát hiện, xử lý được “phần chìm của tảng băng” là do Đảng không muốn chống tham nhũng đến cùng; có sự bao che, tiếp tay cho các hành vi tham nhũng, can thiệp, ngăn cản việc chống tham nhũng của các cơ quan chức năng.

Khi Đảng và Nhà nước ta thể hiện quyết tâm chính trị, đẩy mạnh cuộc đấu tranh PCTNTC, kiên quyết xử lý hàng loạt cán bộ, đảng viên có hành vi tham nhũng, tiêu cực, đấu tranh “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, thì chúng lại cho rằng, thực chất cuộc đấu tranh PCTNTC ở Việt Nam hiện nay là “cuộc chiến giữa các phe phái trong nội bộ Đảng”, là “khóa mới kỷ luật khóa cũ”, là việc “chỉ mang tính nhiệm kỳ”. thậm chí, khi chúng ta nhận định một số hạn chế trong công tác PCTNTC, nhất là tình trạng “trên nóng, dưới lạnh” ở một số địa phương, bộ, ngành, thì chúng tuyên truyền rằng, đây là minh chứng cho việc các bộ, ngành, địa phương còn “e dè”, mới chỉ hô khẩu hiệu, chưa thực sự quyết tâm ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực. 

    Đây là những luận điệu hết sức lạc lõng, dựng chuyện và xuyên tạc, bởi vì: Đảng và Nhà nước ta luôn coi tham nhũng như “giặc nội xâm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời đã chỉ ra rằng, nhiệm vụ chống lại nó “cũng cần kíp như đánh giặc trên mặt trận”. trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã nhận thấy tham nhũng gây ra rất nhiều hậu quả to lớn, “trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc Đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ”, làm “tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng”), xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và quan trọng nhất, tham nhũng “vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ, do đó,  Đảng ta xác định, công tác PCTNTC là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài; phải tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục với những bước đi vững chắc, tích cực, chủ động và có trọng tâm, trọng điểm. Với những nhận thức đúng đắn, sâu sắc về tham nhũng, bản chất, hậu quả của tham nhũng, tiêu cực, Đảng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh PCTNTC, đề ra các nhiệm vụ, giải pháp PCTNTC “ngày càng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, với bước đi, lộ trình phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của đất nước”. 

 

    Những con số về xử lý kỷ luật của Đảng và xử lý hình sự trong các vụ án tham nhũng, kinh tế thời gian qua đã cho thấy quyết tâm rất cao, nỗ lực rất lớn, nói đi đôi với làm của Đảng và Nhà nước ta trong việc phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực. Đẩy mạnh đấu tranh PCTNTC không chỉ là tuyên ngôn, “hô khẩu hiệu” mà đã trở thành quyết tâm chính trị và hành động thực tế của cả hệ thống chính trị. Chưa bao giờ chúng ta xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ sai phạm, nhất là các cán bộ cấp cao như thời gian qua, điều đó cho thấy, việc này không phải nhằm “che mắt thế gian”, “đấu đá, thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, mà thực chất là răn đe, ngăn ngừa để không xảy ra sai phạm, “xử một vài người để cứu muôn người”. Đảng ta chỉ có một mục tiêu duy nhất trong đấu  tranh PCTNTC là vì lợi ích của Đảng, của dân tộc, của đất nước và nhân dân, không phải vì lợi ích của bất cứ cá nhân hay phe cánh nào. Chúng ta “kiên quyết không để lọt vào cấp ủy những cán bộ không đủ tiêu chuẩn, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực, tham nhũng”, tăng cường công tác quản lý cán bộ, ban hành các quy định về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, bảo đảm “có vào, có ra, có lên, có xuống” trong công tác cán bộ, kịp thời thay thế những cán bộ bị kỷ luật, năng lực hạn chế, uy tín giảm sút; khẳng định rõ sự đoàn kết, quyết tâm trong việc lựa chọn cán bộ đủ đức, đủ tài, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. thực tế đã chứng minh, mục tiêu của chúng ta đủ lớn, sự đoàn kết và quyết tâm cao thì chúng ta mới có thể đạt được kết quả rất quan trọng, làm cho “tham nhũng từng bước được đẩy lùi và có chiều hướng thuyên giảm” nhưng vẫn thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân và góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.

 Đặc biệt, thời  gian qua, để đẩy mạnh PCTNTC, Đảng ta đã có rất nhiều thay đổi trong cách thức, biện pháp PCTNTC: Đại hội XIII của Đảng đã xác định không chỉ đấu tranh PCTN, lãng phí, mà còn gắn PCTN với phòng, chống tiêu cực. Đến ngày 16/9/2021, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 32-QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo trung ương về PCTNTC; thành lập Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTNTC; tập trung chống tham nhũng không chỉ trong khu vực nhà nước mà còn mở rộng ra cả khu vực ngoài nhà nước; chú trọng thu hồi tài sản bị chiếm đoạt, thất thoát trong các vụ án tham nhũng, kinh tế; tăng cường kiểm soát quyền lực để PCtNtC;… Những động thái, bước đi quyết liệt này của Đảng ta chính là minh chứng hùng hồn nhất đập tan các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch nêu trên.

 Luận điệu 2: Nếu quá tập trung vào chống tham nhũng sẽ làm mất “nguyên khí” quốc gia, làm “nhụt chí” sự sáng tạo, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm và làm “chậm” sự phát triển của đất nước.

 Luận điệu này đang ngày càng được tuyên truyền mạnh mẽ, gây nhiễu và đang có nguy cơ bén rễ vào trong các tổ chức của Đảng ta, thậm chí một bộ phận cán bộ, đảng viên ý thức hệ còn non kém, thiếu bản lĩnh chính trị, không nhận thức sáng suốt và “tự diễn biến”, “tự suy thoái” cũng tin rằng, càng đấu tranh PCTNTC càng làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm. Tuy nhiên, từ lý luận cho đến thực tiễn, với những kết quả rõ nét trong PCTNTC đã chứng minh sự thật hoàn toàn ngược lại.

 Đẩy mạnh đấu tranh PCTNTC và xây dựng, làm trong  sạch Đảng và bộ máy nhà nước là chủ trương, chính sách hoàn toàn đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc, được ví như cuộc cách mạng dọn sạch “cỏ dại”, thành phần “ung nhọt” của Đảng. Đây là cuộc đấu tranh tất yếu, khách quan, có được sự đồng tình, ủng hộ, vào cuộc, quyết tâm của cả hệ thống chính trị. Chúng ta cũng nhận ra rằng, con đường chúng ta kiên định đang đi sẽ trải qua vô vàn khó khăn, thách thức và gặp phải sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch. Những thông tin, luận điệu xuyên tạc nêu trên đã làm hoang mang dư luận, làm nhiều cán bộ, đảng viên bị nhiễu loạn, thậm chí đồng tình và dần trở nên “nản lòng”, “chùn bước”. 

 Tuy vậy, đây chính là con đường duy nhất, không còn cách nào khác để xây dựng, củng cố hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, vì nhân dân phục vụ. tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từng khẳng định: Đẩy mạnh PCTNTC không làm “nản lòng”, “chùn bước”, sợ sai của cán bộ, đảng viên, mà chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những  người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu bản lĩnh, thiếu kiến thức và kinh nghiệm. Tổng Bí thư cũng đã thể hiện thái độ rất kiên quyết, không chấp nhận những biểu hiện, thái độ thờ ơ, nửa chừng, vô trách nhiệm: “Lò đã nóng lên rồi thì củi tươi cũng phải cháy… Cá nhân nào muốn không làm cũng không thể được”, “Ai nhụt chí thì dẹp sang một bên cho người khác làm”.

 Hiện nay, Đảng ta cũng sớm nhận thấy, một vài biểu hiện “nhụt chí”, “chùn bước” là hiện tượng cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, làm việc cầm chừng, đùn đẩy, né tránh, sợ trách nhiệm không dám làm, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp, nhất là trong việc phê duyệt, thực hiện các dự án đầu tư, đấu thầu, đấu giá có liên quan đến tiền, tài sản nhà nước, mua sắm công,… tình trạng này diễn ra ở nhiều lĩnh vực, có cả ở các cơ quan trung ương lẫn địa phương. Ở một số nơi, cán bộ, công chức còn có nhận thức “không làm thì không sai”, “đứng trước hội đồng kỷ luật còn hơn đứng trước hội đồng xét xử”. Đây chính là một biểu hiện của tiêu cực, một loại “tự diễn biến” trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên, gây nhiều hệ lụy xấu, làm cho công việc bị trì trệ, dậm chân tại chỗ, làm chậm sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nguyên nhân của tình trạng này chủ yếu là do nhận thức chưa đúng, chưa đầy đủ; pháp luật còn có quy định bất cập, chồng chéo; cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung chưa cụ thể, rõ ràng; vì vậy, tại nhiều cuộc họp gần đây của thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC, Tổng Bí thư Nguyễn Phú trọng đã yêu cầu phải “tập trung chấn chỉnh, khắc phục ngay tình trạng này”. Hiện nay, nhiều địa phương đã ban hành quy định cụ thể nguyên tắc làm việc, chế độ trách nhiệm, quan hệ công tác, cách thức và quy trình giải quyết công việc để giải quyết tình trạng này. Thậm chí, có tỉnh ủy, thành ủy  đã ban hành Chỉ thị để khắc phục tình trạng né tránh, đùn đẩy, không làm đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức.


 

Mầm sống sẽ lại lên xanh

 

Con đường dẫn vào thị trấn Phố Ràng (Bảo Yên, Lào Cai) ngổn ngang rác thải, bùn đất vẫn còn đầy trong nhà các hộ dân. Cơn lũ vừa đi qua khiến người dân nơi đây chưa hết bàng hoàng.

 

 Nhận diện những luận điệu xuyên tạc của thế lực thù địch về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng

của Đảng trong giai đoạn hiện nay (tiếp theo)

 

Luận điệu 3: Chống tham nhũng vô ích vì “tham nhũng là khuyết tật bẩm sinh của quyền lực”; “Việt Nam phải học cách sống chung với tham nhũng, tiêu cực”; “Chống tham nhũng quá quyết liệt sẽ làm tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư nước ngoài, giao dịch thông thường trong nước, cản trở sự phát triển của đất nước”.

 Tham nhũng đúng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực, là hiện tượng xã hội có tính lịch sử, gắn liền với sự xuất hiện chế độ tư hữu và các thiết chế quyền lực xã hội; xảy ra ở hầu hết các quốc gia. Nhưng không vì lẽ đó mà coi tham nhũng như là một căn bệnh quái ác, không thể điều trị được và càng không thể “học cách sống chung” với tham nhũng như loạn ngôn mà các thế lực thù địch, phản động tung tin. Chính vì tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực nên Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang đẩy mạnh kiểm soát quyền lực để PCTNTC, “nhốt” quyền lực vào trong “lồng” cơ chế, siết chặt thể chế để “không thể tham nhũng”, “không dám tham nhũng”. Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành 2 Quy định (Quy định số 131-QĐ/TW và Quy định số 132-QĐ/TW) về kiểm soát quyền lực, PCTNTC trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; và trong hoạt động thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Hai quy định này đã thể hiện rõ quyết tâm của Đảng ta trong kiểm soát quyền lực với nguyên tắc: Mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền lực càng cao, trách nhiệm càng lớn; lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu trách nhiệm và xử lý nghiêm minh.

 

    Đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực không thể “vô ích” hoặc làm cản trở sự phát triển của đất nước được. Ngược lại, chính nhờ đẩy mạnh công tác PCTNTC, làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đặc biệt là chúng ta đã từng bước lấy lại, tăng cường  sự đồng thuận và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Qua gần 40 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.

 

    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10). Khép lại năm 2023, mặc dù trong bối cảnh khó khăn, thách thức nhiều hơn cơ hội và thuận lợi, tình hình an ninh, chính trị, kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, bất thường, Việt Nam vẫn đạt được nhiều kết quả quan trọng, khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, trong đó, Việt Nam tiếp tục là điểm sáng kinh tế toàn cầu. tăng trưởng GDP cả năm khoảng 5%, giúp nền kinh tế nước ta vẫn thuộc nhóm các nước tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Giá trị thương hiệu quốc gia Việt Nam đạt 431 tỷ USD, tăng 1 bậc lên thứ 32/100 thương hiệu quốc gia mạnh trên thế giới. Xếp hạng môi trường kinh doanh Việt Nam cũng tăng 12 bậc trên toàn cầu. Đối ngoại, hội nhập quốc tế đạt được những thành tựu lịch sử; nhiều chuyển biến vượt bậc trong phát triển hệ thống đường cao tốc; xuất khẩu nông sản lập đỉnh, mở rộng thêm các thị trường mới,… Cũng chỉ tính riêng trong năm 2023, sau khi Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về PCTNTC được thành lập trên 63 tỉnh, thành trên cả nước, ở địa phương đã khởi tố mới hơn 830 vụ án tham nhũng (tăng 02 lần so với năm 2022, tăng gấp 3 lần so với năm 2021), thể hiện rõ đây là kết quả tích cực từ chủ trương chống tham nhũng quyết liệt của Đảng ta. Do đó, chống tham nhũng đạt được “rất nhiều lợi ích” mà không phải là vô ích hay làm tê liệt nền kinh tế, chính trị đất nước như những luận điệu xuyên tạc đưa ra. 

 Luận điệu 4: Tham nhũng là bản chất của hệ thống chính trị Việt Nam; ở Việt Nam chỉ có một Đảng duy nhất cầm quyền thì không thể chống tham nhũng thành công.

  “Đảng Cộng sản Việt Nam không thể đấu tranh chống tham nhũng, suy thoái thành công vì cơ chế độc đảng lãnh đạo”. Đây là luận điệu thường xuyên mà các thế lực thù địch, phản động và các phần tử xấu tung ra. Chúng cho rằng, ở Việt Nam khi chỉ duy nhất có Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, quá trình lãnh đạo không có các lực lượng chính trị đối trọng để giám sát, phản biện, kiểm soát thì sẽ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền, Đảng đứng trên pháp luật. Chúng cho rằng đây là “lỗi hệ thống”, là nguyên nhân sâu xa làm cho tình trạng tham nhũng ở Việt Nam ngày càng phổ biến, phức tạp, nghiêm trọng và trở thành “bản chất cố hữu” của chế độ; muốn chống tham nhũng thành công phải bắt đầu từ việc “sửa lỗi hệ thống”, tức là phải thực hiện đa nguyên đa đảng. 

 

    Thực ra, tham nhũng xuất hiện và tồn tại ở nhiều nước trên thế giới, dù là nước phát triển hay đang phát triển, theo chế độ tư bản chủ nghĩa hay XHCN, không phân biệt do một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo. Liên hợp quốc đã ban hành Công ước quốc tế về chống tham nhũng, trong đó, nhiều quốc gia là thành viên tham gia đã tuân thủ và tìm ra các cách thức để PCTN hiệu quả hơn(11). Mặt khác, nghiên cứu kinh nghiệm PCTN trên thế giới cho thấy, nhiều quốc gia có một đảng cầm quyền(12) cũng quyết liệt PCtN và đạt được nhiều thành công; ngược lại, không ít quốc gia có nhiều đảng nhưng không có nghĩa là không có tham nhũng và PCtN thành công(13). Như vậy, luận điệu cho rằng, tham nhũng là sản phẩm của thể chế chính trị ở Việt Nam rõ ràng là sự quy chụp, thiếu căn cứ và vô cùng nguy hiểm, về bản chất là muốn thay đổi chế độ chính trị ở Việt Nam và xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

    Tóm lại, các luận điệu tuyên truyền của các thế lực thù địch, phản động, phần tử xấu nêu trên là thiếu căn cứ, mang tính chủ quan, suy diễn, nhìn nhận một cách phiến diện về tình hình tham nhũng và kết quả công tác PCtNtC ở Việt Nam. Với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, những luận điệu đó đã và đang lan tỏa nhanh chóng, rộng khắp, hàng ngày, hàng giờ tác động tiêu cực đến tư tưởng, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân thiếu thông tin, nhận thức còn hạn chế, ý thức cảnh giác chưa cao.

 Từ đó, gây tâm lý hoài nghi trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhân dân vào quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, tạo cơ hội để các thế lực thù địch xúi giục, kích động đòi thay đổi Cương lĩnh chính trị, thể chế chính trị ở Việt Nam, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thực hiện đa nguyên đa đảng. Do đó, về bản chất, các luận điệu tuyên truyền xuyên tạc cuộc đấu tranh PCTN ở Việt Nam là một bộ phận trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch nhằm tấn công vào nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng.

 


 

 

TĂNG CƯỜNG XÂY DỰNG KHỐI ĐẠI ĐOÀN KẾT GIỮA ĐỒNG BÀO TÔN GIÁO VÀ KHÔNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM


Đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết dân tộc đã trở thành tư tưởng xuyên suốt, một chiến lược cách mạng quan trọng của Đảng  ta, đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau là nguyên tắc trọng tâm, xuyên suốt và nhất quán trong quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau là một bộ phận của khối đại đoàn kết; là một bộ phận không thể tách rời của chiến lược đại đoàn kết toàn dân. Việc tăng cường đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo phải được quan tâm thường xuyên và phải dựa trên những yêu cầu, nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân.

Đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo phải trên cơ sở lợi ích của quốc gia, dân tộc và vì mục tiêu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Thực tiễn lịch sử khẳng định rất rõ, chính sự đoàn kết ấy đã làm nên sức mạnh để dân tộc ta chiến thắng mọi thù trong, giặc ngoài, xóa bỏ mọi áp bức, bất công xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Trong giai đoạn mới, Đảng và Nhà nước ta xác định khối đại đoàn kết toàn dân tộc nói chung và sự đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau nói riêng là động lực chủ yếu của sự nghiệp đổi mới.

Đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo và cả hệ thống chính trị đều phải có trách nhiệm xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; phải tôn trọng lẫn nhau, tin cậy ở nhau để chung sức, chung lòng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cấp ủy, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội ở các địa phương nhất là vùng đồng bào tôn giáo, theo chức năng nhiệm vụ của mình phải ra sức củng cố, tăng cường mối đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo cùng nhau phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước là, đi đôi với thực hiện đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo với đồng bào không theo tôn giáo, giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, chúng ta phải kiên quyết đấu tranh với những hành động lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo” gây chia rẽ mất đoàn kết, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong mọi trường hợp cần phân biệt rõ ràng đâu là vấn đề thuộc về tín ngưỡng, tôn giáo, đâu là vấn đề kẻ thù lợi dụng kích động, chia rẽ, chống phá để có thái độ và hành động đúng đắn.

Đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo là nguyên tắc trọng tâm, xuyên suốt và nhất quán trong quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trên tất cả các lĩnh vực trong thời gian qua là hết sức to lớn, không những chỉ trong nước mà bạn bè quốc tế cũng thừa nhận. Đó là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quan trọng nhất là đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo, cũng như đồng bào theo các tôn giáo khác nhau luôn gắn bó trên nền tảng chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc.

Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, theo lời kêu gọi yêu nước của Bác Hồ thời kỳ chống thực dân Pháp, nhờ chính sách đại đoàn kết dân tộc, đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo... đã đồng sức, đồng lòng đứng lên đưa dân tộc ta thoát khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, trong đó đồng bào theo tôn giáo cũng như đồng bào không theo tôn giáo đều vì mục tiêu chung là thống nhất nước nhà, giành độc lập, tự do cho đất nước mà thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là kết quả sinh động nhất của tinh thần đoàn kết đó. Sau chiến tranh, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo tiếp tục kề vai, sát cánh vì mục tiêu xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Đặc biệt là thời kỳ hội nhập, mục tiêu chung của xã hội ta là làm cho “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mục tiêu này luôn luôn gắn với lợi ích của mỗi cá nhân, của cả người theo tôn giáo, không theo tôn giáo và của cả dân tộc. Do vậy, mọi người dân đất nước Việt Nam ai ai cũng sẵn sàng gạt bỏ mọi sự khác biệt về tôn giáo, tín ngưỡng… để chung tay vì mục tiêu của cách mạng.

Những năm gần đây, đồng bào theo các tôn giáo, đồng bào không theo tôn giáo đã đoàn kết tích cực tham gia có hiệu quả vào nhiều hoạt động, nhiều cuộc vận động như xoá đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, từ thiện nhân đạo, xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư... Đặc biệt là cùng với MTTQ tham gia hiệu quả nhiều chương trình góp phần xây dựng, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh trật tự, phòng, chống tệ nạn xã hội… Các tổ chức tôn giáo có nhiều cách làm sáng tạo tuyên truyền, vận động các tín đồ sống “tốt đời, đẹp đạo”; “Sống Phúc âm trong lòng dân tộc”, “Kính Chúa yêu nước”... Đó có thể xem đó như chất keo kết dính đồng bào tôn giáo với đồng bào không tôn giáo và giữa các tôn giáo với nhau. Người Việt Nam dù là dân tộc nào, dù tôn giáo hay không tôn giáo, theo tôn giáo này hay tôn giáo khác... trong sâu thẳm lòng mình vẫn ấp ủ niềm tự hào về nguồn gốc con cháu Lạc Hồng. Và ai ai cũng ước mong đất nước mình ngày cường thịnh, non sông mình ngày càng đẹp tươi, đời sống đồng bào mình ngày càng ấm no, hạnh phúc.

Tuy nhiên, trên thực tế còn có nơi này, nơi kia, người này, người khác chưa hiểu rõ và thực hiện chưa tốt chính sách tôn giáo, trước hết là chính sách đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết người có tôn giáo với nhau, đoàn kết người khác tôn giáo với nhau, đoàn kết người có tôn giáo với người không tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Không ít người, trong đó có cả chức sắc tôn giáo chưa gương mẫu trong thực hiện chính sách. Đặc biệt, một số đối tượng đã lợi dụng tôn giáo để hoạt động chính trị; kích động, chia rẽ phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ đồng bào tôn giáo, không tôn giáo và giữa các tôn giáo với nhau…

Tăng cường sự đoàn kết giữa những người có tín ngưỡng, tôn giáo và những người không tín ngưỡng, tôn giáo; giữa những người có các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau đó là quan điểm, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ai đó nói rằng Việt Nam cản trở hoạt động tôn giáo là chưa hiểu hết quan điểm, chủ trương và thực tiễn những gì đã, đang diễn ra. Nhà nước Việt Nam quy định rõ, một tôn giáo muốn hoạt động hợp pháp phải đáp ứng đủ những tiêu chí cơ bản như: có tín đồ tự nguyện tin theo, có giáo sĩ hướng dẫn việc đạo, có tôn chỉ mục đích hoạt động không trái với pháp luật... Nhà nước Việt Nam cũng chỉ quan tâm đến tư cách, phẩm chất công dân của những chức sắc các tôn giáo, chứ không can thiệp vào trình độ tôn giáo của những người đó. Từ trước tới nay, Việt Nam không xử tù, giam giữ, quản chế hành chính bất kỳ một nhân vật nào vì lý do tôn giáo. Nhà nước khuyến khích tôn giáo tham gia các hoạt động giáo dục, từ thiện, nhân đạo theo sự hướng dẫn của các cơ quan chuyên môn. Đồng thời, Nhà nước Việt Nam không tịch thu bất cứ tài sản nào của các tôn giáo ngoại trừ nếu các tài sản đó được sử dụng như một công cụ nhằm phục vụ cho các hoạt động gây bạo loạn, lật đổ, chống lại Nhà nước và nhân dân. Các tổ chức cá nhân tôn giáo cũng được tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu quốc tế, được đi đào tạo ở nước ngoài. Đã có rất nhiều các tổ chức tôn giáo quốc tế vào Việt Nam giao lưu với các tổ chức tôn giáo...

Để thực hiện tốt việc xây dựng khối đại đoàn kết giữa đồng bào tôn giáo và không tôn giáo ở nước ta, phải tiến hành thường xuyên và đồng bộ các giải pháp; trong đó, phải làm cho toàn Đảng, toàn dân nói chung, các tín đồ, chức sắc tôn giáo nói riêng hiểu rõ và thực hiện đúng quan điểm, tư tưởng, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước hiện nay. Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền tự do không tín ngưỡng của công dân; nghiêm cấm sự phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo hoặc tín ngưỡng. Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tôn giáo để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và đấu tranh đối ngoại; tận dụng các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác quốc tế nhằm làm cho các nước và nhân dân thế giới hiểu đúng chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta và thành tựu đã đạt được trong đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam, góp phần đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc về tình hình tôn giáo ở nước ta../.

 

Nữ điều dưỡng trưởng tận tụy với công việc

 

Chiều muộn, thành phố Huế đã lên đèn, người, xe tấp nập, hối hả trở về bên tổ ấm gia đình nhưng Thiếu tá QNCN Nguyễn Thị Anh, Điều dưỡng trưởng Khoa Khám bệnh (Khoa C1), Bệnh viện Quân y 268, Cục Hậu cần, Quân khu 4 vẫn đang tất bật dọn dẹp bàn ghế, lau chùi khu vệ sinh...

 

CÔNG NGHỆ AI VÀ CÂU CHUYỆN GẮP LỬA BỎ TAY NGƯỜI

Trí thông minh nhân tạo hay còn gọi là trí tuệ nhân tạo (AI) đang ngày càng phát triển, ứng dụng rộng rãi, có hiệu quả trong nhiều lĩnh vực của đời sống. Tuy nhiên, trí tuệ nhân tạo cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ, rủi ro cho xã hội, nhất là khi nó được các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị lợi dụng nhằm thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bịa đặt, hòng bôi nhọ, vu khống, xúc phạm người khác. Đây là thực tế đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia, trong đó có Việt Nam, cần được nhận thức và có biện pháp đối phó hiệu quả.  

AI - đúng-sai khó phân biệt

Các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị ngoài các cách thức truyền thống còn sử dụng các thủ đoạn tinh vi, trong đó có sử dụng AI, lợi dụng những câu trả lời không phân biệt được “đúng-sai” của các phần mềm để chống phá, thực hiện thông tin, tuyên truyền các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng. Các bài báo sử dụng AI của các tổ chức như: Đài châu Á tự do; BBC News Tiếng Việt; Việt Tân... liên tục được đăng tải, chia sẻ với mục đích xuyên tạc, hướng lái người dân hiểu sai về Đảng, về hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh, về chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.

Các tổ chức này đã sử dụng các dữ liệu bịa đặt, xuyên tạc để thực hiện huấn luyện các phần mềm thông minh nhân tạo như ChatGPT, Bing, Bar... để khi đặt những câu hỏi mang tính định hướng xuyên tạc như: “Ai là cha già dân tộc của chúng ta?”; “Ai sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta?”; “Ai đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng?”... Với những câu hỏi bị thêm, bớt câu từ hay thiếu địa danh như trên thì câu trả lời của “trí tuệ nhân tạo” ChatGPT đưa ra thường là: “Không có người được chỉ định là cha già dân tộc Việt Nam”; “Không có ai sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”; “Không có một người hoặc tổ chức nào cung cấp cho chúng ta một mùa xuân đầy ước vọng”... đồng thời tuyên truyền ChatGPT là trí tuệ, là hiện đại và hiểu toàn xã hội nên ChatGPT khi trả lời là khách quan, là công bằng và cần phải tin ChatGPT là “chân lý”.

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng của Người, các tài liệu lưu trữ về cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người chưa bao giờ tự nhận mình là “Cha già dân tộc”, đây là vì nhân dân kính yêu, mỗi lần thành kính khi nói về Người. Hình tượng “người Cha” của Bác đã đi vào thi ca, âm nhạc, vào hồn cốt của văn hóa dân tộc. Nhà thơ Tố Hữu viết: "Người là Cha, là Bác, là Anh/ Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ" (Sáng tháng Năm) hay “Người Cha mái tóc bạc/ Đốt lửa cho anh nằm” (Đêm nay Bác không ngủ-Minh Huệ)...

“Vị Cha già dân tộc” là cái tên thể hiện sự tôn kính, đi vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam, vì một vĩ nhân đã hy sinh cả cuộc đời cho dân tộc Việt. Cũng giống như hình tượng ẩn dụ Đảng chính là mùa xuân của đất nước, của dân tộc, thể hiện niềm tin và hy vọng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự phát triển của tương lai đất nước.

Vậy AI là gì? Vì sao thời gian qua các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng AI để sản xuất các thông tin nhằm phủ định các thành quả của Đảng và Nhà nước ta? Câu trả lời là: AI là một ngành thuộc lĩnh vực khoa học máy tính, là một sản phẩm do con người sử dụng các kỹ thuật, công nghệ để giúp máy tính có thể tự động hóa các hành vi, suy nghĩ, xử lý và hành động mô phỏng suy nghĩ của con người. Nguyên lý hoạt động của các phần mềm AI sử dụng cách thức hỏi-đáp tự động sử dụng dữ liệu lớn khá là đơn giản. Về bản chất, đây là các phần mềm thông minh nhân tạo, thực hiện các câu trả lời của người dùng thông qua dữ liệu ghi nhớ từ dữ liệu thu thập được, phân tích để tìm ra các tầng ý nghĩa của các dữ liệu nên khi được hỏi, các phần mềm này không phân biệt được đúng hay sai.

Quá trình tạo ra một phần mềm thông minh nhân tạo bao gồm các bước: Thu thập dữ liệu (từ không gian mạng, từ cung cấp của người dùng), chọn lọc dữ liệu, gán nhãn dữ liệu để thực hiện huấn luyện cho phần mềm và huấn luyện phần mềm như việc tiếp thu tri thức của con người. Dữ liệu thu thập được càng nhiều thì càng có nhiều câu trả lời. Tuy nhiên, một vấn đề nảy sinh khi sử dụng các phần mềm này, đó là phần mềm có thể phân tích và hiểu rất nhiều tầng ý nghĩa của một dữ liệu đầu vào, nhưng không thể hiểu được ý nghĩa đó "đúng" hay "sai".

Các dữ liệu đang tồn tại trên internet mà các nhà khoa học thu thập được để huấn luyện cho phần mềm cũng không phải luôn theo thiên hướng có ý nghĩa là “đúng” và dữ liệu đó chứa thông tin là “đúng” do các nhà khoa học thường sử dụng các công cụ thu thập dữ liệu tự động, sức người cũng không thể thu thập được các dữ liệu để phân tách được tính đúng-sai của các dữ liệu đó do dữ liệu trên internet là rất lớn.

Những dữ liệu như vậy, các phần mềm thông minh nhân tạo như ChatGPT không thể đoán nhận và không thể bình luận, phán xét. Tuy nhiên, chính những nội dung này lại lôi kéo các thành phần phản động, cơ hội chính trị vào bình luận, chia sẻ. Chúng sử dụng các câu hỏi không đầy đủ, không mang tính khoa học để đánh lừa phần mềm thông minh nhân tạo nhằm bôi nhọ Đảng, Nhà nước như: “Không thể tồn tại kinh tế thị trường mà lại định hướng xã hội chủ nghĩa phải không?”; “Khi nào về đích chủ nghĩa xã hội”; “Lúc nào thì làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu?”...

Hay đặt câu hỏi so sánh sai lệch, cổ xúy kẻ bán nước như “Cờ vàng ba sọc đỏ là của nước nào?”... Và khi các phần mềm này trả lời những thông tin không như chúng mong muốn, chúng lại cung cấp các dữ liệu xuyên tạc, sai lệch để phần mềm trả lời theo hướng lái của chúng.

Nhận thức và sử dụng AI làm sao cho đúng?

Với một số đánh giá, phân tích như trên có thể thấy, các phần mềm thông minh nhân tạo có những ưu điểm nhất định, nếu chúng ta khách quan, sử dụng các dữ liệu đúng, phù hợp thì câu trả lời sẽ mang tính chất khách quan, minh bạch. Nếu có những đối tượng dùng các thủ đoạn xấu, cung cấp các dữ liệu sai lệch thì các phần mềm này dễ dàng bị hướng lái.

Chính vì thế, làm thế nào để nhận diện, xác định và loại bỏ các nội dung được tạo ra bởi các ứng dụng thông minh nhân tạo khi bản thân nó chứa các thông tin chưa được kiểm chứng, không trích dẫn nguồn gốc, sai lệch cũng như các vấn đề bảo mật thông tin người dùng. Khi triển khai các nội dung thông tin, tuyên truyền, chúng ta luôn cần những dữ liệu trung thực, nguồn thông tin và các góc nhìn mới về các sự kiện chính trị, xã hội, văn hóa đang diễn ra trong thực tiễn Việt Nam và trên thế giới, trong khi đó các phần mềm ứng dụng AI có khả năng trợ giúp con người tạo ra các thông tin mới dựa trên phân tích ngữ nghĩa và tổng hợp thông tin từ các dữ liệu có sẵn, hoặc nếu bị các đối tượng lạm dụng các phần mềm ứng dụng AI này để sản xuất nội dung sẽ dẫn tới các thông tin sai lệch, xuyên tạc.

Hiện nay, các thế lực thù địch, chống phá Đảng và Nhà nước ta cũng đang lợi dụng các kỹ thuật mới, công nghệ mới, trong đó có AI để xây dựng các nội dung chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, tấn công thu thập dữ liệu để sử dụng vào mục đích chống phá, can thiệp vào hoạt động chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, đưa ra các thông tin thất thiệt hay dựng chuyện, bịa chuyện, sử dụng AI để đưa thông tin sai sự thật hòng bôi nhọ, vu khống và xúc phạm người khác... Một số khuyến cáo về giải pháp trong thời gian tới như sau:

Một là, đối với chủ thể quản lý, cần tiếp tục quán triệt sự lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; cần có sự thống nhất và phối hợp đồng bộ trong các cơ quan, tổ chức quản lý thông tin trên không gian mạng. Cần nhận thức đúng đắn trong toàn hệ thống chính trị về sử dụng các phần mềm thông minh nhân tạo theo bản chất vốn có của nó-không thể phân biệt “đúng-sai”.

Hai là, cần bổ sung, hoàn thiện hành lang pháp lý, ban hành luật pháp và hướng dẫn thực thi pháp luật liên quan đến sử dụng các hệ thống phần mềm ứng dụng AI, đặc biệt là sử dụng các dữ liệu trên không gian mạng, về điều chỉnh hành vi của người dùng khi sử dụng các phần mềm hỏi-đáp tự động để sáng tạo nội dung và cung cấp thông tin trên không gian mạng. Xây dựng chính sách hợp lý nhằm tổ chức thực hiện, phối hợp giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ nghiên cứu, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ bí mật nhà nước, chủ quyền quốc gia, an ninh quốc gia trên không gian mạng.

Ba là, các cơ quan quản lý nhà nước cần xây dựng các kế hoạch, chiến lược, chương trình tập huấn cho các cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức khi sử dụng các phần mềm thông minh nhân tạo nhằm nâng cao nhận thức của các tổ chức, cá nhân và phát huy vai trò của các cơ quan, tổ chức trong kiểm chứng các thông tin. Cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức để tận dụng thế mạnh về các cơ sở dữ liệu của mình, đồng thời chia sẻ dữ liệu với các cơ quan, tổ chức khác; trên cơ sở đó định hướng để người dân hiểu rõ về các phần mềm thông minh nhân tạo đã trả lời như thế nào, có khách quan, minh bạch hay không, câu trả lời có phù hợp và chuẩn xác hay không.

Bốn là, tăng cường công tác tập huấn, đào tạo nguồn nhân lực tham gia hoạt động bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, nguồn lực tham gia việc kiểm chứng thông tin, đặc biệt nhận diện và kiểm chứng thông tin do các phần mềm ứng dụng AI tạo ra. Chú trọng các hoạt động ứng dụng AI của các lực lượng chuyên trách bảo đảm và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia trên không gian mạng...


 

Nghĩa đồng bào nơi tâm lũ Lào Cai

 

Trong những ngày qua, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam tỉnh Lào Cai đã tiếp nhận sự ủng hộ rất lớn về tiền, vật chất từ nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, nhà hảo tâm, cá nhân trên khắp mọi miền đất nước.