Thứ Năm, 8 tháng 8, 2019

BIỂN ĐÔNG: VIỆT NAM KIÊN QUYẾT BẢO VỆ CHỦ QUYỀN

Trước những căng thẳng ngày càng gia tăng ở Biển Đông, các lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đều khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam trong việc gìn giữ hòa bình, ổn định trong khu vực, kiên quyết bảo vệ chủ quyền.

Thứ Tư, 7 tháng 8, 2019

Mưu đồ chính trị xấu xa của tổ chức phóng viên không biên giới (RSF) và Ủy ban bảo vệ ký giả (CPJ)


Thoạt nhìn ý nghĩa của các tổ chức này, chúng ta có thể liên tưởng đến tổ chức bảo vệ các nhà báo đấu tranh vì tiến bộ xã hội, bảo vệ tự do báo chí. Tuy vậy, đây chỉ là cái mác để tổ chức này tiến hành các hoạt động chống phá, gây rối khi thường xuyên đưa ra những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật về các vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền của các quốc gia, trong đó một trong đích ngắm của hai tổ chức phản động này là Việt Nam.
Bằng các bài viết với luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật đặc biệt vào các dịp này lễ, kỷ niệm của Việt Nam và thế giới. Ví dụ như, nhân ngày Quốc tế phụ nữ 8/3 vừa qua, chúng “tôn vinh” những tù nhân nữ đang chấp hành án vì các tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, xúc phạm Quốc kỳ” là “Nhà báo”; quy chụp Việt Nam đối xử vô nhân đạo, tệ hại, khủng khiếp với những phạm nhân này để kích động dư luận, gây mất trật tự xã hội. Bằng những lý lẽ ngụy biện, đi ngược với lợi ích dân tộc, chúng hô hào ủng hộ những phạm nhân với danh hiệu “Nhà báo” cho những blogger, tội phạm gây rối, chống phá Đảng, Nhà nước, ví dụ như Trần Thị Nga là nhà hoạt động bảo vệ cho quyền công dân, Huỳnh Thục Vy là thành viên tích cực, có nhiều cống hiến của tổ chức xã hội dân sự - Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam.

Tuyên phạt bị cáo Huỳnh Thục Vy 2 năm 9 tháng tù về tội Xúc phạm Quốc kỳ - Ảnh 1.
Phiên tòa xử tội Huỳnh Thục Vy với tội danh tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước
Thực chất, các đối tượng này đã lợi dụng mạng xã hội liên tục đăng tải, phát tán thông tin có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, truyền bá những tư tưởng phản động, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; cung cấp những thông tin, tình hình sai lệch về hoạt động của các cơ quan Đảng, chính quyền các cấp, về lãnh đạo Đảng, Nhà nước cho các đài, báo phản động ngoài nước và viết, dán nhiều biểu ngữ có nội dung bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng Công an, tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 14 và bầu cử Hội đồng Nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021… Rất may, âm mưu thủ đoạn của chúng không thể lọt lưới pháp luật Việt Nam, và chúng đang phải chấp hành hình phạt nghiêm khắc cho các hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc. Những Trần Thị Nga, Huỳnh Thục Vi, Đặng Minh Mẫn… Những kẻ được hai tổ chức phản động RSF cà CPJ tôn vinh là các “nhà báo” yêu nước bị bóc trần âm mưu xấu xa, cơ hội giờ có thời gian cải tạo để suy ngẫm về những hành động sai trái, vô ơn của mình với đất nước.
Qua đây, chúng ta cần hết sức tỉnh táo trước những tổ chức lợi dụng tôn chỉ mục đích được khai báo nhưng chiến lược hành động lại hoàn toàn khác, lộ rõ bản chất gây bất ổn chính trị, tạo cớ để chống phá Đảng, Nhà nước và can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Cần phải vạch trần những âm mưu đó với những dẫn chứng khách quan, lòng yêu nước của người dân Việt Nam vì nền hòa bình, độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội./.

Phong cách quần chúng Hồ Chí Minh

Đây là nội dung quan trọng hàng đầu của phong cách làm việc, phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh, được thể hiện bằng những hành động cụ thể:

Cảnh giác với những phương thức, thủ đoạn xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh

Nhằm thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam, những năm qua, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền, xuyên tạc nhằm xóa bỏ nền tảng lý luận trong đời sống tinh thần của xã hội Việt Nam.

Học tập Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của văn hóa để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ thiên tài, nhà hoạt động chính trị kiệt xuất, người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại mà Người còn là một nhà văn hoá lỗi lạc, một danh nhân văn hoá thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá mới Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hoá nói riêng là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta.

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2019

Cách mạng Tháng Tám 1945: Mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử

          Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Ngày 02-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: – Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)

             Tầm vóc thời đại và ý nghĩa thực tiễn

        Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là kết quả đấu tranh lâu dài của nhân dân Việt Nam chống đế quốc thực dân, phát huy cao nhất truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc đã được hình thành qua hàng ngàn năm lịch sử. Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công do sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt khôn khéo của Đảng Cộng sản Việt Nam, là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo, có phương pháp và chiến lược, chiến thuật cách mạng thích hợp, linh hoạt. Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng nhìn rõ hơn tầm vóc vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo Cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 dẫn tới việc khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có ý nghĩa to lớn đối với dân tộc ta và quốc tế sâu sắc, Cách mạng Tháng Tám là một trong những trang sử vẻ vang nhất, chói lọi nhất của lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
            Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam là sự phối hợp hiếm thấy giữa cuộc đấu tranh giành độc lập của một dân tộc thuộc địa với cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới chống phát xít, đặc biệt là với cuộc tấn công của phe đồng minh tiêu diệt chủ nghĩa phát xít để kết thúc cuộc Thế chiến lần thứ hai.
            Cách mạng Tháng Tám trước hết, là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, bởi vì nó đã kết thúc chế độ thuộc địa trên 80 năm của thực dân Pháp cũng như chế độ bóc lột cực kỳ tàn bạo của phát xít Nhật đã được áp đặt từ năm 1940 đến năm 1945 trên đất nước Việt Nam. Bằng cuộc Cách mạng, nhân dân Việt Nam đã chấm dứt cuộc đời nô lệ, đã đưa hai chữ Việt Nam trở lại trên bản đồ thế giới mà chủ nghĩa thực dân phát xít đã xoá bỏ suốt gần một thế kỷ. Đây thực sự là một cuộc cách mạng của dân tộc Việt Nam, được huy động lực lượng của toàn dân để tiến hành khởi nghĩa từng nơi, từng phần và đi đến đỉnh cao thắng lợi bằng cuộc Tổng khởi nghĩa toàn dân, toàn quốc vào Tháng Tám năm 1945.
            Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng dân chủ nhân dân, vì nó còn làm nhiệm vụ xoá bỏ chế độ phong kiến đã được thiết lập hàng nghìn năm ở Việt Nam, nhằm đem lại ruộng đất cho dân cày, dân chủ cho nhân dân. Nhà vua cuối cùng của chế độ phong kiến là Bảo Đại đã tuyên bố từ chức, trao ấn kiếm cho chính quyền cách mạng ngay trong những ngày sục sôi của Cách mạng Tháng Tám. Chính những mục tiêu dân tộc và dân chủ đã lôi cuốn các tầng lớp nhân dân Việt Nam, trước hết là công, nông và mọi người lao động chân tay và trí óc tham gia cách mạng, tạo nên lực lượng vô cùng to lớn để đưa cách mạng đến thắng lợi. Nhưng nhiệm vụ phản đế đã được đặt lên hàng đầu để tập trung lực lượng của cả dân tộc vào việc đánh đổ chế độ thực dân phát xít, còn nhiệm vụ phản phong kiến với nội dung là đem lại ruộng đất cho dân cày, dân chủ cho nhân dân lại được rải ra để làm, sau khi chính quyền cách mạng đã được thành lập.
           Cách mạng Tháng Tám là một bài học lịch sử, đã mở ra một thời đại mới ở Việt Nam, thời đại nhân dân Việt Nam làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của chính mình. Ngày 2-9-1945 nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời. Đại biểu cho cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định những tư tưởng về quyền con người đã được ghi trong bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1789 là “những tư tưởng bất hủ”, những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Nhưng dân tộc có được độc lập thì con người mới có thể có tự do, hạnh phúc. Không thể có được quyền con người, quyền công dân khi quyền độc lập của dân tộc bị chà đạp. Đó cũng là tư tưởng bất hủ mà Hồ Chí Minh đã đặt ra với cả thế giới ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời và đứng vào hàng ngũ tiên phong của các dân tộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.
           Nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chủ tịch và Đảng Cộng sản Việt Nam đã chiến đấu chống thù trong giặc ngoài suốt 30 năm liền, vượt qua muôn vàn hiểm nguy, có khi như “ngàn cân treo sợi tóc” để bảo vệ nền độc lập dân tộc mới giành được, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ, vừa xây dựng, vừa chiến đấu, để giành thắng lợi từng bước và đi đến thắng lợi cuối cùng. Cuộc chiến đấu lâu dài của nhân dân Việt Nam, theo tư tưởng của Hồ Chí Minh, đã góp phần quan trọng vào việc làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ và mở đầu cho sự thất bại của chủ nghĩa thực dân mới trong thế kỷ XX.

KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO


KIÊN QUYẾT, KIÊN TRÌ BẢO VỆ CHỦ  QUYỀN BIỂN ĐẢO

Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông (gần bãi Tư Chính của Việt Nam), đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên. Khu vực nhà giàn DK1, trong đó có Bãi Tư Chính, nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý tính từ đường cơ sở của Việt Nam và là thềm lục địa phía nam của Việt Nam. Đây là vùng biển được hoạch định theo Công ước Luật Biển 1982 của Liên Hợp Quốc. Vùng biển này không tranh chấp với nước nào và lại càng không tranh chấp với Trung Quốc.
Hoạt động trái phép của các tàu Trung Quốc ở khu vực Bãi Tư Chính của Việt Nam trước hết là nhằm ngăn cản các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí của Việt Nam tại khu vực giàu tiềm năng dầu khí; ngăn cản Việt Nam và các đối tác nước ngoài thăm dò và khai thác dầu khí ở khu vực; hành động này nằm trong chiến lược của Trung Quốc áp đặt đường lưỡi bò bất hợp pháp tại Biển Đông; nằm trong chiến lược lâu dài của Trung Quốc nhằm độc chiếm Biển Đông, kiểm soát hoàn toàn tài nguyên trong Đường lưỡi bò.
Bộ Ngoại giao Việt Nam đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau, bằng nhiều biện pháp (trao công hàm phản đối, bày tỏ quan điểm tại Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN-Trung Quốc…) kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực. Các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam và tất cả chúng ta - mỗi người con đất Việt, dù trong nước hay đang ở nước ngoài, các tổ chức, đoàn thể tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán một cách hòa bình, đúng pháp luật nhằm bảo vệ vùng biển Việt Nam, cùng nhau lên tiếng yêu cầu Trung Quốc rút toàn bộ tàu khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam./.  
Như nguyệt

Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2019

CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945: MỐC SON CHÓI LỌI CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM


Thời gian đã lùi xa nhưng tầm vóc, ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng. Đó là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước, giữ nước của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.
Tháng Tám năm 1945, chớp thời cơ chiến lược “ngàn năm có một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Từ ngày 14 đến ngày 18/8, nhiều địa phương tuy chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa, nhưng do nắm vững tinh thần các nghị quyết, chỉ thị trước đó của Đảng Cộng sản Đông Dương, căn cứ vào tình hình thực tiễn đã kịp thời, chủ động, sáng tạo, linh hoạt nổi dậy khởi nghĩa. Bốn tỉnh giành chính quyền sớm nhất là Hải Dương, Bắc Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam (ngày 18/8/1945). Tại Hà Nội, vào trung tuần tháng 8/1945, phong trào cách mạng ngày càng dâng cao, thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Ngày 19/8, theo lời kêu gọi nổi dậy khởi nghĩa của Mặt trận Việt Minh, đồng bào rầm rập kéo đến quảng trường Nhà hát lớn dự mít tinh trong tiếng hát “Tiến quân ca” và cờ đỏ sao vàng, sau đó chia ra thành nhiều đoàn biểu tình đi chiếm các cơ quan chính quyền địch (phủ khâm sai, tòa thị chính, trại lính bảo an, sở cảnh sát...). Trước khí thế trào dâng như “bão táp” của quần chúng, quân đội Nhật và chính quyền bù nhìn không dám chống lại.
Cuộc khởi nghĩa thắng lợi hoàn toàn ở Hà Nội có tác dụng cổ vũ to lớn phong trào cả nước. Ngày 23/8, dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy Trung Kỳ và Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, nhân dân ta nổi dậy làm chủ thành phố Huế - kinh đô hàng trăm năm của chế độ phong kiến triều Nguyễn và là thủ phủ của chính quyền bù nhìn trung ương. Vua Bảo Đại buộc phải thoái vị. Ngày 25/8, Xứ ủy Nam Kỳ đã lãnh đạo nhân dân Sài Gòn giành quyền làm chủ, đánh đổ thành lũy cuối cùng của chế độ thực dân. Thắng lợi của các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám trong phạm vi cả nước. Trong vòng nửa tháng (từ 14 - 28/8/1945), cuộc Tổng khởi nghĩa thành công hoàn toàn. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, chính quyền cả nước thuộc về tay nhân dân.
Ngày 2/9/1945, tại vườn hoa Ba Đình lịch sử, trước hàng chục vạn đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ cách mạng lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đồng thời trịnh trọng tuyên bố với thế giới: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do độc lập và sự thật đã trở thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do độc lập ấy.
Hơn 70 năm đã trôi qua, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn về tầm vóc, ý nghĩa lịch sử trọng đại của Cách mạng tháng Tám 1945.
Cách mạng tháng Tám đã mở ra một kỉ nguyên mới: Kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động, kỉ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây thực sự là bước nhảy vọt trong lịch sử tiến hóa của dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là kết quả hợp thành từ rất nhiều nhân tố: Đó là sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh; tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo của các cấp đảng bộ địa phương trong thời khắc “xoay bản lề” của lịch sử. Đó còn là sức mạnh từ truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam được hun đúc từ ngàn đời, sẵn sàng kết thành một làn sóng mạnh mẽ, to lớn nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Mặt khác, cách mạng diễn ra thắng lợi nhanh chóng và ít đổ máu cũng nhờ có hoàn cảnh quốc tế thuận lợi khi quân Đồng minh đánh tan phát xít Đức - Nhật, mở ra thời cơ cho nhân dân Việt Nam khởi nghĩa. Nhưng nhân tố bao trùm quyết định nhất chính là sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối chiến lược, sách lược cách mạng độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo, khi thời cơ đến kiên quyết, kịp thời phát lệnh tổng khởi nghĩa thành công.
Cách mạng tháng Tám 1945 để lại cho cách mạng Việt Nam nhiều bài học kinh nghiệm quý báu: Đó là bài học về khơi dậy và phát huy sức mạnh chủ nghĩa yêu nước, trên cơ sở đó xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân để thực hiện yêu cầu cấp bách của cách mạng là giải phóng dân tộc giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Bài học về củng cố căn cứ địa, xây dựng lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang) đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng qua từng thời kỳ, tích cực chuẩn bị mọi mặt sẵn sàng cho tổng khởi nghĩa. Bài học về nắm chắc mọi diễn biến tình hình, trên cơ sở đó nhạy bén phát hiện thời cơ, kịp thời chớp thời cơ phát động tổng khởi nghĩa giành thắng lợi. Bài học về không ngừng chăm lo bồi dưỡng, giáo dục phát huy cao độ tính sáng tạo, tính chủ động, tự lực, tự cường của quảng đại quần chúng và của cán bộ, đảng viên. Những bài học đó đã được Đảng ta chắt lọc, vận dụng sáng tạo trong giai đoạn cách mạng về sau.

Phát huy tinh thần và những giá trị của cách mạng tháng Tám trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay, chúng ta cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nhiệm vụ quan trọngđó là: Kiên định với mục tiêu, lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhanh nhạy trong việc lựa chọn đối tượng, đối tác, đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, đưa đất nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Nhìn Bangkok nghĩ về Việt Nam

Thủ đô Bangkok Thái Lan vừa rung chuyển bởi 7 vụ nổ tại 3 địa điểm liên tiếp vào sáng nay 2/8. Dù chưa có kết quả điều tra chính thức nhưng rất có thể đây là một vụ khủng bố và đích nhắm là Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN mở rộng đang diễn ra tại đây. 

Thế mới thấy Việt Nam quả là đất nước yên bình, ổn định. Từ các Hội nghị WEF ASEAN 2018; APPF-26; GMS-6; CLV-10;... cho đến Thượng đỉnh Mỹ – Triều lần 2 diễn ra ở Việt Nam mà không hề để bị động, bất ngờ hay xảy ra sự cố đáng tiếc nào.

Chỉ riêng chuyện tên Việt Nam được Tổng thống Trump xướng lên một cách đầy trân trọng trước Hạ Viện Mỹ trong Thông điệp liên bang hay việc Hội nghị Thượng đỉnh Mỹ – Triều được tổ chức ở Việt Nam mà không phải Thái Lan hay nơi nào khác cũng đã nói lên nhiều điều.

Đừng nói không có âm mưu khủng bố, có đấy vì các phần tử chống phá Nhà nước này vẫn rất nhiều. Rất nhiều lần tổ chức khủng bố Việt Tân chi tiền về Việt Nam “thuê” các đối tượng chống phá trong nước chế tạo bom xăng, thuốc nổ đặt tại sân bay Tân Sơn Nhất, tấn công vào trụ sở công quyền và nhà dân. Nhưng tất cả âm mưu đó đều bị lực lượng an ninh của ta vô hiệu hóa kịp thời.

Không phải tự nhiên mà khi đặt chân đến Việt Nam, Thủ tướng Canada có thể thoải mái chạy bộ trên đường phố nhộn nhịp người qua lại hay ngồi quán vỉa hè nhâm nhi ly cafe đậm chất truyền thống Việt; Thủ tướng Nhật Bản cùng phu nhân dạo chơi thăm thú, chuyện trò thoải mái trên phố đi bộ Hội An; Thủ tướng Úc thoải mái ăn bánh mỳ vỉa hè… mà vẫn an toàn, không gặp phải bất kỳ sự phiền toái nào! Chẳng thế mà, Hãng Reuters mới viết: “Thật hiếm có một nơi nào như Việt Nam mà những nhân vật quan trọng, những nhà lãnh đạo hàng đầu của thế gới lại có thể thoải mái trên đường phố đông đúc như vậy”.

Thế mới thấy, một sự ổn định về chính trị nó đáng quý biết bao...

Thứ Năm, 1 tháng 8, 2019

Một kiểu phúc trình suy diễn, sai thực tế


Vừa qua, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công bố phúc trình thường niên về tệ nạn buôn người trên thế giới năm 2018. Bản phúc trình xếp Việt Nam ở nhóm Tier 2 kèm thêm “watch”, tức cần bị theo dõi trở lại. 

Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

Bản chất của nhận xét, đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ



Trong thời gian Việt Nam báo cáo kết quả thực thi Công ước các quyền dân sự và chính trị tại phiên họp lần thứ 3 Ủy ban Công ước về các quyền dân sự và chính trị Liên Hợp quốc vào ngày 11 và 12/3/2019, Bộ Ngoại giao Mỹ đã có những nhận xét, đánh giá “vô lý” về tình hình nhân quyền năm 2018 của Việt Nam, đi ngược lại xu thế phát triển tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước. Điều này được thể hiện trên  những điểm cơ bản sau:
1. Sự quy chụp, thiếu khách quan trong nhận xét, đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Muốn nhận xét, đánh giá về một lĩnh vực nào đó của bất cứ quốc gia nào cần dựa trên cơ sở khoa học, phải đảm bảo tính: Khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Căn cứ thực tiễn, đánh giá trung thực, xuyên tạc, bóp méo; nhìn nhận toàn diện vấn đề được đánh giá trong mối liên hệ với những vấn đề khác, nhất là trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật của nước đó; sự đánh giá phải trên cơ sở so sánh theo chiều dài lịch sử  vấn đề của quốc gia đó và đi vào cụ thể những biểu hiện của vấn đề, thấy được ưu điểm, hạn chế, nhìn nhận theo chiều hướng tích cực của sự phát triển đi lên. Song Bộ Ngoại giao Mỹ lại không như vậy! Những nhận xét, đánh giá về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam lại chủ yếu dựa vào những bản án tù của những đối tượng đã bị tuyên án vì hành vi “tuyên truyền chống phá nhà nước Việt Nam; lật đổ chính quyền nhân dân…”. Những đối tượng đó đã vi phạm pháp luật, đã và đang phải chấp hành án treo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Những đối tượng đó đều có được chế độ “tù nhân” như nhau theo từng bản án nhất định, được xét xử công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và sẽ được ân xã nếu tiến bộ rõ rệt, có xu hướng phấn đấu hoàn lương trong thời gian chấp hành án. Đay là sự ưu việt của chế độ ta. Vậy mà Bộ Ngoại giao Mỹ lại cố tình đưa ra “nhận xét, đánh giá” thiếu khách quan, quy chụp Việt Nam tăng cường đàn áp, thực hiện những bản án nặng nề và phân biệt, đối xử, tra tấn về thể xác, tinh thần đối với những “tù nhân lương tâm, tù nhân chính trị”. Điều này thật vô lý, không có cơ sở khoa học, hoàn toàn là quy chụp, xuyên tạc nhân quyền ở Việt Nam. Thử hỏi, bất kỳ cá nhân nào có hành vi gây nguy hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn của nước Mỹ sẽ bị trừng trị hay được tha để sống nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật?
Thực tiễn chứng minh, Việt Nam luôn đảm bảo các quyền cơ bản của con người, của công dân; những quyền tự do, dân chủ, nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí luôn được thừa nhận, bảo đảm. Quyền đi đôi với nghĩa vụ, trách nhiệm; sự tự do nằm trong khuôn khổ quy định của Hiến pháp và pháp luật thì mới đảm bảo công bằng, an toàn cho xã hội; tự do không theo khuôn khổ quy định của pháp luật thì xã hội sẽ loạn, môi trường sống của con người không có sự an toàn.
Việt Nam xây dựng đất nước từ xuất phát điểm rất thấp do hậu quả nặng nề của chiến tranh gây ra, sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã và đang chứng minh cho thế giới thấy sự tiến bộ mọi mặt, trong đó có vấn đề nhân quyền. Ngày 25/01/2019, Nhóm làm việc về rà soát định kỳ phổ quát chu kỳ III của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp quốc đã đồng thuận thông qua báo cáo về kết quả rà soát của Việt Nam và khẳng định: Việt Nam luôn đảm bảo những quyền tự do cơ bản của công dân phù hợp với các Công ước quốc tế  về quyền con người. Sự đảm bảo đó được thể hiện trong Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm trên thực tế ở Việt Nam.
Trong thời gian tham dự phiên họp Việt Nam luôn nghiêm túc thực hiện nghĩa vụ báo cáo về tình hình thực thi các cam kết quốc tế, cung cấp cho quốc tế bức tranh tổng thể các vấn đề nhân quyền ở Việt Nam. Ủy ban Công ước cũng đã đánh giá cao vào đối thoại của đoàn Việt Nam, ghi nhận những kết quả đáng khích lệ của Việt Nam trong việc thực thi công ước và tin tưởng Việt Nam tiếp tục bảo vệ và phát huy ngày càng tốt hơn quyền con người và quyền công dân.
2. Bản chất của nhận xét, đánh giá về nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Loài người đã chứng kiến sự thay đổi của những thể chế chính trị xã hội: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ ngĩa và chủ nghĩa xã hội hiện thực. Trong xu thế toàn cầu hiện nay sự đối lập giữa mô hình thể chế chính trị của những nước tư bản chủ nghĩa với những nước đang xây dựng thể chế chính trị theo mô hình chủ nghĩa xã hội, tồn tại thực trong giai đoạn hiện thời được gọi là thể chế chính trị chủ nghĩa xã hội hiện thực. Ở đó, tồn tại những mâu thuẫn cơ bản không thể điều hòa, tất yếu dẫn đến đấu tranh. Sự đối lập về hệ tư tưởng tất yếu dẫn đến cuộc chiến khi mâu thuẫn đến đỉnh điểm. Thế giới đã chứng kiến những cuộc cấm vận của Mỹ với các nước theo định hướng XHCN, nhất là với Triều Tiên, Cu Ba, ngày nay là cuộc chiến giữa Mỹ và Trung Quốc. Kết thúc chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ luôn tìm mọi cách để chống phá cách mạng nước ta, bằng thủ đoạn “diễn biến hòa bình” để thay đổi màu sắc thể chế chính trị xã hội ở Việt Nam; thông qua ngoại giao, phát triển kinh tế, đầu tư, lợi nhuận để cài cắm mầm mống chủ nghĩa tư bản, lấy lợi ích để mua chuộc, phát triển “lợi ích nhóm” – biến tướng bằng tên gọi “chủ nghĩa tư bản thân hữu” để giằng co, kéo chệch mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Đặc biệt, sử dụng các tổ chức mang tên gọi “dân chủ, nhân quyền” để câu móc, đào tạo các thành phần bất hảo, chống đối, tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng Việt Nam. Những đối tượng đó thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, bị trừng trị theo theo quy định của pháp luật Việt Nam thì các tổ chức được mang danh “vì tự do, dân chủ, nhân quyền” đó lại chống phá nước ta bằng luận điệu “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, đi theo sau đó là nhận xét, đánh giá của Bộ Ngoại giao Mỹ. Không những thế, sự can thiệp vô lý của những tổ chức đó bằng vận động gây áp lực với Việt Nam thông qua các mối quan hệ trên lĩnh vực kinh tế, ngoại giao theo phương châm “nhân quyền cao hơn chủ quyền” buộc Việt Nam thay đổi thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa.
Giá trị lớn nhất về nhân quyền là sự tự do, môi trường sống trong hòa bình, ổn định, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực con người. Hãy tự trả lời cho những lần “xả súng kinh hoàng” tại nước Mỹ, những thảm khốc sau khói súng mà nước Mỹ mang đến cho các nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa sẽ được thấy “nhân quyền của nước Mỹ ra sao”?
Bản chất của “nhận xét, đánh giá” về vấn đề nhân quyền ở Việt Nam của Bộ Ngoại giao Mỹ chỉ là sự xuyên tạc, bóp méo sự thật, thiếu tính khách quan, vu cáo, bịa đặt thực tiễn nhân quyền ở Việt Nam. Điều “vô lý” cũng được Mỹ áp đặt với những quốc gia khác và đương nhiên cũng sẽ chẳng thể phủ nhận được sự tiến bộ toàn diện của nước ta, không thể xóa đi sự đảm bảo về những quyền cơ bản của con người, công dân ở Việt Nam. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn được đảm bảo trong Hiếp pháp, pháp luật và trong thực tiễn đời sống chính trị xã hội ở Việt Nam. Bên cạnh đó nó còn đi ngược lại sự phát triển tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1995, khi mà quan hệ giữa hai nước đã ngày càng trở lên sâu sắc, đa dạng hơn với việc thường xuyên mở rộng, trao đổi chính trị, đối thoại về nhân quyền và an ninh khu vực.

Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019

Cả nước chung tay tri ân các Anh hùng, liệt sỹ.


       Trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược giành độc lập tự do, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, biết bao người con ưu tú của dân tộc đã ngã xuống, hoặc hy sinh một phần xương máu.
       Một đất nước trải qua mấy chục năm chiến tranh ác liệt, chịu nhiều đau thương mất mát, có số lượng lớn liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người có công (NCC) với cách mạng… thì tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, “đền ơn đáp nghĩa” đã trở thành đạo lý, truyền thống của dân tộc và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
        Tri ân, chăm lo các gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, NCC được Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hết sức quan tâm. 72 năm trước, ngày 17-7-1947, trong thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức Ngày thương binh toàn quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Ngày 27 tháng 7 là một dịp cho đồng bào ta tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái, là tỏ ý yêu mến thương binh” và Người gương mẫu: “Tôi xin xung phong gửi 1 chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, 1 tháng lương của tôi, 1 bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng...”.
        72 năm đã trôi qua, những lời căn dặn, tình cảm, ý nguyện và tấm lòng của Bác đối với thương binh, bệnh binh, NCC vẫn còn nguyên giá trị, có sức truyền cảm lớn lao. Những năm tháng trong và sau chiến tranh, dù đất nước còn muôn vàn khó khăn, thiếu thốn, nhưng Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vẫn rất quan tâm chăm lo thực hiện “đền ơn đáp nghĩa”; xây dựng, ban hành các chế độ chính sách tri ân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, NCC... Tuy nhiên, những gì chúng ta đã làm được chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công việc tình nghĩa, tri ân cao cả đó.
        Để thực hiện hiệu quả, lâu dài, bền vững phong trào “đền ơn đáp nghĩa”, cùng với thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách ưu đãi của Đảng, Nhà nước đối với NCC, một yêu cầu hết sức quan trọng là phải xã hội hóa rộng rãi phần việc này. Trước hết, cần tuyên truyền sâu rộng để mọi người thấy rằng, việc tri ân, chăm lo NCC là tình cảm, đạo lý, trách nhiệm của mỗi người, mỗi tổ chức. Không kể tuổi tác, nghề nghiệp, địa vị xã hội, ai cũng có thể tham gia và góp phần mình vào công việc nhân văn này. Đó là việc tham gia chăm lo hương khói cho các liệt sĩ; coi sóc, làm sạch đẹp nghĩa trang liệt sĩ; đóng góp xây dựng Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, Quỹ “Nghĩa tình đồng đội”. Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh… ưu tiên tạo công ăn việc làm cho con em liệt sĩ, thương binh, NCC; xây nhà tình nghĩa tặng NCC; chăm sóc, động viên thân nhân các liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, NCC già yếu, bệnh tật... Từ thôn bản ở làng quê, tổ dân phố ở thành thị; từ chính quyền đến các tổ chức xã hội; từ cơ quan, doanh nghiệp, tập thể… đến gia đình, cá nhân; từ các cháu thiếu nhi đến các bậc cao niên... đều có thể tham gia phong trào “đền ơn đáp nghĩa”. Việc lớn, việc nhỏ đều mang ý nghĩa cao cả “uống nước nhớ nguồn”.
      Khi phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được nhân rộng, có chiều sâu, hiệu quả thiết thực, huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội, thì không những đời sống vật chất, tinh thần của NCC được cải thiện, nâng cao, mà niềm tin của nhân dân, của các đối tượng chính sách, NCC với Đảng, Nhà nước thêm được củng cố, bồi đắp; tạo đồng thuận trong nhân dân và làm cho xã hội tốt đẹp hơn. Cái được lớn nhất là đạo lý, truyền thống tốt đẹp “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc luôn được giữ gìn và phát huy khi trở thành công việc thường ngày của mỗi người, mỗi tổ chức, của toàn xã hội; tri ân NCC trở thành phong trào sâu rộng. Đó cũng là tâm nguyện, mong muốn của mỗi chúng ta.

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2019

Đời đời ghi nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, thương binh

Những ngày tháng Bảy, cả nước lại lặng mình tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh cho ngày hòa bình, độc lập và tri ân cho người trở về sau đạn bom khói lửa, gửi lại một phần máu xương nơi chiến trường để bảo vệ bình yên cho Tổ Quốc, cho nhân dân.

Một cái nhìn chủ quan, phiến diện và xuyên tạc sự thật
QĐND - Trong bản “Phúc trình thường niên về tệ buôn bán người trên thế giới” ra ngày 20-6-2019, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cho rằng “vấn đề buôn bán người tại Việt Nam vẫn rất nghiêm trọng do không xử lý triệt để tội phạm buôn người theo pháp luật”, từ đó họ đưa Việt Nam vào “nhóm quốc gia có vấn đề buôn bán người bậc 2 và sẽ bị theo dõi do không đạt được những tiêu chuẩn cần thiết nhằm loại bỏ và giảm thiểu nạn buôn bán người”. Cần phải thấy ngay rằng cách nhìn nhận ấy của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ là chủ quan, phiến diện một chiều và xuyên tạc sự thật.

NGÀY TRI ÂN

Một năm lẻ ba trăm ngày
Dành riêng một ngày cốt để tri ân.
Vậy mà đại biểu của dân
Nâng lên, đặt xuống băn khoăn nỗi lòng.
Máu xương đổ xuống chất chồng.
Hiến thanh xuân bởi nặng lòng tự do.
Chiến tranh rồi cũng đã qua.
Độc lập, dân chủ, ấm no, hòa bình.
Tri ân người đã hy sinh.
Cũng là đạo lý nặng tình nước non.
Nhiều người thân xác chẳng còn.
Nhiều người thương tật héo mòn tuổi xuân.
Cũng là đạo lý tri ân.
Hai bảy tháng bảy nhân dân nguyện cầu.
Cũng chẳng có lễ gì đâu.
Đèn, hoa, hương khói cúi đầu thành tâm.
Cõi tiên Liệt sĩ lặng thầm.
Độ cho quốc thái muôn phần bình an.
Thương, bệnh binh, Mẹ Việt Nam.
Đồng quà, tấm bánh hỏi han thân tình.
Tất cả họ đã hy sinh.
Cho nền độc lập thái bình tự do.
Lẽ nào ta lại đắn đo.
Dành một ngày nghỉ dùng cho việc này.
Thôi thì một chút giải bày.
Lệ rưng kính cẩn trong NGÀY TRI ÂN.
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"
Résultat de recherche d'images pour "ngày 27/7"

VỮNG VÀNG, TỰ TIN BẢO VỆ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRÊN CƠ SỞ GIỮ VỮNG NGUYÊN TẮC


Trong thời gian tới, dự báo tiếp tục có những vấn đề phức tạp trên Biển Đông, Đảng ta tiếp tục kiên trì với chủ trương giải quyết bằng biện pháp hòa bình. Quan điểm chỉ đạo là phải kiên quyết giữ vững được độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời cũng phải giữ vững sự ổn định chính trị trong nước và môi trường hòa bình, ổn định với các nước trong khu vực, trên thế giới để xây dựng và phát triển đất nước.
Trước đây trong đấu tranh giành độc lập, ta đã “đem sức ta mà giải phóng cho ta” thì nay phải “đem sức ta mà bảo vệ cho ta”. Cần phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường và sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Sự giúp đỡ từ bên ngoài là quý báu, nhưng không thể chỉ trông chờ vào đó. Chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt phương châm, tư tưởng chỉ đạo: “4 Tránh”, “3 Không” và “9 K”.
 Đây là vấn đề tiên quyết, không bao giờ cũ, không bao giờ được lệch lạc, phải ăn sâu, bám rễ vào trong nhận thức, hành động của mỗi người dân, mỗi cán bộ, chiến sĩ, chắc chắn chúng ta sẽ luôn vững vàng, luôn tự tin để bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Theo đó, “4 Tránh” là tránh xung đột về quân sự, tránh đối đầu về kinh tế; tránh cô lập về ngoại giao; tránh lệ thuộc về chính trị.
 “3 Không” là: không liên minh quân sự với nước ngoài; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự để chống lại các nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực đối với nước khác.
“9 K” là: kiên quyết đấu tranh, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không nổ súng trước, không để nước ngoài lấn chiếm biển đảo, không để xảy ra xung đột.


Thứ Tư, 24 tháng 7, 2019

HIỂU ĐỂ BẢO VỆ BIỂN ĐẢO TỔ QUỐC

Quyền tài phán của quốc gia ven biển.

Theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Luật Biển Việt Nam năm 2012, vùng biển nước ta được quy định thành 5 vùng: Nội thủy, Lãnh hải, Vùng tiếp giáp lãnh hải, Vùng đặc quyền kinh tế, Thềm lục địa. Ngoài khái niệm về 5 vùng trên, trong bài dưới đây sẽ đề cập thêm về khái niệm “Đường cơ sở” và “Quyền tài phán của quốc gia ven biển”.
1. Nội thủy
Nội thủy của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng nước tiếp giáp với bờ biển, ở phía trong đường cơ sở và là bộ phận của lãnh thổ Việt Nam. Nhà nước thực hiện chủ quyền hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thủy như trên lãnh thổ đất liền.
2. Đường cơ sở
Theo quy định của Luật Biển Việt Nam, đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là đường cơ sở thẳng đã được Chính phủ công bố. Chính phủ xác định và công bố đường cơ sở ở những khu vực chưa có đường cơ sở sau khi được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn.
3. Lãnh hải
Lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ra phía biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển của Việt Nam.
Nhà nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982.
Tàu thuyền của tất cả các quốc gia được hướng quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam trên cơ sở tôn trọng hòa bình, độc lập, chủ quyền, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, tàu quân sự nước ngoài thông báo trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam.
Nhà nước có chủ quyền đối với mọi loại hiện vật khảo cổ, lịch sử trong lãnh hải Việt Nam.
4. Vùng tiếp giáp lãnh hải
Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt nam, có chiều rộng 12 hải lý tính từ ranh giới ngoài của lãnh hải. Nhà nước thực hiện kiểm soát trong vùng tiếp giáp lãnh hải nhằm ngăn ngừa và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hải quan, thuế, y tế, xuất nhập cảnh xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
5. Vùng đặc quyền kinh tế
Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng biển tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam hợp với lãnh hải thành vùng biển có chiều rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Nhà nước thực hiện chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thuộc vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển; thực hiện quyền chủ quyền về các hoạt động khai thác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế; thực hiện quyền tài phán quốc gia về lắp đặt và sử dụng đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, nghiên cứu khoa học biển, bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
Nhà nước tôn trọng quyền tự do hàng hải, hàng không; quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam mà không làm phương hại đến quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam trên cơ sở các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hợp đồng được ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
6. Thềm lục địa
Thềm lục địa của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, tiếp liền và nằm ngoài lãnh hải Việt Nam, trên toàn bộ phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền, các đảo và quần đảo của Việt Nam cho đến mép ngoài của rìa lục địa. Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này cách đường cơ sở chưa đủ 200 hải lý thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài đến 200 hải lý tính từ đường cơ sở.
Trong trường hợp mép ngoài của rìa lục địa này vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thì thềm lục địa nơi đó được kéo dài không quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc không quá 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu 2.500 mét.
Nhà nước thực hiện quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về thằm dò, khai thác tài nguyên. Quyền này có tính chất đặc quyền, không ai có quyền tiến hành hoạt động thăm dò hoặc khai thác tài nguyên của thềm lục địa Việt Nam nếu không có sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam. Nhà nước có quyền khai thác lòng đất dưới đáy biển, cho phép và quy định việc khoan nhằm bất kỳ mục đích nào ở thềm lục địa.
Nhà nước tôn trọng quyền đặt dây cáp, ống dẫn ngầm và hoạt động sử dụng biển hợp pháp khác của các quốc gia khác ở thềm lục địa Việt Nam mà không làm phương hại đến chủ quyền, quyền tài phán quốc gia và lợi ích quốc gia trên biển của Việt Nam. Việc lắp đặt dây cáp và ống dẫn ngầm phải có sự chấp thuận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam.
Tổ chức, cá nhân nước ngoài được tham gia thăm dò, sử dụng, khai thác tài nguyên, nghiên cứu khoa học, lắp đặt thiết bị và công trình ở thềm lục địa Việt Nam trên cơ sở điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, hợp đồng ký kết theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc được phép của Chính phủ Việt Nam.
7. Quyền tài phán
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển được quy định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc gia đó.

ĐIỀU ĐỊCH MÀ ĐÁNH


Chiến dịch Sa Thầy là trận đánh thể hiện tài điều địch, dụ địch tài tình của tướng lĩnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Từ khi tiến hành chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, quân đội Mỹ đã rất ưa thích sử dụng chiến thuật “Trực thăng vận”. Mỗi khi phát hiện nơi tập trung lực lượng quân sự của ta, lính Mỹ cùng với cả vũ khí hạng nặng liền được trực thăng chở thẳng từ căn cứ tới ngay khu vực đó. Quân Mỹ thường đổ quân xuống sau lưng đội hình quân ta để đánh bọc hậu. Chiến thuật này được Mỹ gọi là trực thăng vận còn phía ta quen gọi là kiểu “nhảy cóc”.

Bất tuân dân sự - một thủ đoạn nguy hiểm


Thời gian qua, một số tổ chức phản động nước ngoài như Việt Tân, Voice đã triệt để lợi dụng các vấn đề nhạy cảm về dân tộc, tôn giáo và những thiếu sót, khuyết điểm, các vấn đề bức xúc xã hội ở các địa phương với chiêu bài "tự do", "dân chủ", "nhân quyền" để kích động nhân dân tụ tập, tuần hành, biểu tình chống đối chính quyền. Biểu hiện như: "Bất tuân cưỡng chế" của một số đối tượng khi giải phóng mặt bằng; "bất tuân" quy định về thành lập hội (nhóm), đòi lập các tổ chức xã hội dân sự (thực chất là phản động trá hình); “bất tuân” để phản đối Luật An ninh mạng (năm 2018) hay phản đối trả phí BOT giao thông, từ chối đóng các loại quỹ phúc lợi xã hội...

Thứ Ba, 23 tháng 7, 2019

TRI ÂN MUÔN ĐỜI


Vào những ngày này, cả nước lại hướng về Người có công với cách mạng, để tưởng nhớ, để tri ân, để đền đáp, bù đắp lại một phần những mất mát, hy sinh của những người đã chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Tri ân bao nhiêu cho đủ? Chắc hẳn chẳng bao giờ đủ, chẳng có món quà nào ý nghĩa để sánh được công lao to lớn của các anh hùng, liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình có công với cách mạng....Cần phải tri ân muôn đời, tri ân mãi mãi, bởi vì công lao của thế hệ cha anh đi trước đã ghi tạc vào lịch sử đất Việt, trường tồn cùng non sông gấm vóc, sử sách ghi công, đời đời ghi nhớ.
Hãy hành động trước khi quá muộn, hơn bao giờ hết, làm yên lòng những người đã khuất, làm cho những người có công còn sống được hạnh phúc chính là điều phải làm bằng cái tâm, bằng việc làm dù nhỏ bé nhưng thiết thực nhất, tùy vào điều kiện hoàn cảnh mỗi người, mỗi nhà, mỗi tổ chức, không phải chỉ hô hào rồi để đấy, hoặc phô trương “ủng hộ” rầm rộ, nhưng tiền của, “tấm lòng” không đến được biết bao, biết bao Người có công đang chịu cảnh đau đớn về thể xác, thiếu thốn trăm bề về vật chất ở khắp mọi miền Tổ quốc.
Đến đây, tôi chợt nghĩ đến mình, đang có một người cha là thương binh ¾ mà mấy năm nay chẳng có quà gì để động viên ông, ông có thể không cần vật chất, nhưng ông cần tinh thần, có thể ông vẫn cần lắm lắm chút quà yêu thương, mặc dù ông không bao giờ đòi hỏi; nhớ đến bà bác dâu, có chồng là bác ruột tôi đã hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bà cũng đang ở một mình, mang nặng tuổi già đau ốm, và nữa.....hàng triệu người có công mà tôi chỉ có tấm lòng thành kính. Tôi nghĩ, đợt này, ngày thương binh liệt sĩ vào đúng thứ bảy, được nghỉ làm, nhất định dịp 27/7 năm nay, mình phải thay đổi, phải có một chút quà gì đó nho nhỏ để động viên các cụ, chung tay cùng cả nước vì Người có công bằng cách làm cho chính những người có công trong gia đình mình được động viên, được hạnh phúc và cần phải đưa thằng con nhỏ đi thắp hương cho các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang để giáo dục nó về “lòng biết ơn”, về trách nhiệm phải tưởng nhớ và tri ân những người có công với cách mạng, với đất nước yên bình, xinh đẹp mà chúng ta đang sống.