Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2020

Loạt công chức bị đuổi việc: "chuyện lạ" mà rất cần thiết lúc này

 

Tuần qua ghi nhận có một loạt cán bộ, nhân viên nhiều cơ quan nhà nước, doanh nghiệp ở một số tỉnh, thành phố phải nhận hình thức kỷ luật đuổi việc. Đây là điều khá lạ.

Điều phải nói ngay đầu tiên là, các "án" kỷ luật đuổi việc ngay và luôn của các cơ quan, doanh nghiệp với người vi phạm của họ đều là đích đáng cả.

Thứ nhất là vụ ông thanh tra xe buýt Phạm Bá T., người đã ngay lập tức bị Công ty xe buýt Mạnh Hào, tỉnh Bắc Ninh đuổi việc trong ngày sau khi báo chí, mạng xã hội đăng tải các thông tin, hình ảnh, có cả video clip về việc anh này đã có hành vi đe dọa, chửi bới, thậm chí dọa "cắt cổ hành khách" ngay trong ngày 27/8.

Vụ thứ hai là một nhóm công nhân làm việc tại công trường thi công dự án đại tu cầu Thăng Long do có hành vi ném các vật liệu xây dựng như các thanh sắt cỡ lớn từ trên cầu xuống bãi đất bên dưới, có thể gây nguy hiểm các các phương tiện giao thông bên dưới. Qua các video clip do người dân bức xúc ghi lại chiều ngày 28/8, không chỉ là vấn đề có thể gây nguy hiểm chết người mà hành vi trên có dấu hiệu của việc ăn trộm vật liệu xây dựng (sắt, thép) để đem bán.

Chính vì điều này, ngay trong ngày 29/8, tức là chỉ 1 ngày sau, Ban quảnl ý dự án 3 (thuộc Tổng cục Đường bộ)- chủ đầu tư dự án đã lập tức sa thải cả nhóm công nhân nói trên. Tuy nhiên, những người này không bị buộc tội là ăn cắp vật liệu xây dựng.

Còn một loạt các vụ cho nghỉ việc đáng chú ý khác như vụ một cô nhân viên Văn phòng đăng ký đất đai của Thành phố Đà Nẵng cho bạn "mượn" 22 bản Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất (sổ đỏ) của người dân.

22 cái "sổ đỏ này" mặc dù đã đủ điều kiện cấp nhưng cô nhân viên kia đã không cấp cho chủ sở hữu mà lại cho bạn mượn và hậu quả là không đòi lại được. Cô này không những bị cho nghỉ việc ngay mà đã bị Công an Thành phố Đà Nẵng khởi tố về tội "lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ".

Những người này bị đuổi việc thật chẳng oan tí nào. Nhiều người biết chuyện cũng đều hả lòng, hả dạ. Mặc dù chúng ta có thể nói, làm việc ai cũng có thể có sai lầm và thật là tốt nếu như có được cơ hội sửa chữa sai lầm. Nhưng quả thật, có những hành vi, có những lỗi lầm, như những sai phạm trên, là những lỗi nghiêm trọng, gây hại cho người dân, cho nhà nước thật khó có thể dung thứ. Hình thức kỷ luật "đuổi việc" có lẽ là nhẹ nhất có thể với họ để đảm bảo kỷ cương, kỷ luật, răn đe những người khác không dám có hành vi tương tự.

Nhưng trong cùng một tuần mà dồn dập xảy ra một loạt các việc như vậy và các cơ quan, đơn vị đều rất nhanh chóng kiểm tra, sau khi đã làm rõ thì áp dụng ngay một hình thức kỷ luật nghiêm khắc như vậy cũng là điều mới mẻ. Bởi vì trước đây, chúng ta cũng đều hay thấy, có rất nhiều vụ việc nghiêm trọng hơn, nhiều nơi người ta sẽ mất rất nhiều thời gian thanh tra, kiểm tra rồi cuối cùng lại áp dụng các hình thức kỷ luật không đâu vào đâu như: Rút kinh nghiệm hay rút kinh nghiệm sâu sắc. Thậm chí, kỷ luật xong thì rất nhanh chóng luân chuyển, để người vi phạm ở vị trí công tác cao hơn.

Dù với những vụ việc trên, cũng còn có nhiều ý kiến khác. Có người sẽ nói là đuổi việc là còn nhẹ, chưa ăn thua, phải khởi tố, phạt tù... Nhưng dù sao, cũng nên ghi nhận là các cơ quan, đơn vị nơi xảy ra các vụ việc "nóng" như vậy đã xử lý rất nhanh và công bằng mà nói, mức kỷ luật đuổi việc hay đình chỉ công tác cũng không phải là nhẹ. Với những vi phạm nặng thì nó cũng chỉ là bước đầu để cơ quan chức năng xem xét, xử lý ở mức nghiêm khắc hơn, không loại trừ chuyển cơ quan điều tra truy tố.

Cho nên bước đầu, việc cho nghỉ việc ngay và luôn với những cán bộ, nhân viên như thế là rất đáng ghi nhận. Đó thật sự là những chuyện vẫn còn "lạ" và chúng ta cũng nên mong hình thức xử lý kỷ luật ấy nên được áp dụng thường xuyên hơn.

CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỚI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP - NHỮNG GIÁ TRỊ LỊCH SỬ CÒN MÃI VỚI THỜI GIAN

 Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập” tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Vào những ngày này của hơn 74 năm trở về trước, cả dân tộc Việt Nam đang sục sôi giành chính quyền ở những tỉnh thành cuối cùng từ tay Nhật và Pháp. Kể từ sau khi Pháp xâm lược năm 1858, nhân dân ta chịu muôn vàn cơ cực dưới ách áp bức, bóc lột của thực dân và phong kiến tay sai, hai tiếng độc lập - tự do đã trở thành nỗi khát khao cháy bỏng của cả dân tộc, để 87 năm sau, sự thật Việt Nam đã trở thành một nước tự do - độc lập.

Thủ đô Hà Nội những ngày này rực rỡ sắc mầu của cờ hoa, băng-rôn, khẩu hiệu chào mừng 75 năm Cách mạng tháng Tám và ngày Quốc khánh. Ngày 2/9 là ngày Tết của cả dân tộc, ngày đất nước ta được khai sinh và chính thức được công nhận trên thế giới. Ý nghĩa, giá trị của ngày lịch sử đó, sẽ không bao giờ đổi thay.

Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Trung ương đã cử đồng chí Lê Đức Thọ đón Bác Hồ từ chiến khu Việt Bắc về Hà Nội và nghỉ tại thôn Phú Gia, xã Phú Thượng, Từ Liêm (nay là Phú Thượng, Tây Hồ). Sau đó, Bác về ở tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội. Tại ngôi nhà này, trong những ngày cuối tháng 8 năm 1945, Người đã dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập.

Ngôi nhà số 48 Hàng Ngang nguyên là hiệu Phúc Lợi, một hãng buôn tơ lụa, vải vóc vào loại lớn nhất ở Hà Nội những năm 40 của thế kỷ trước. Ngôi nhà có hình ống, nằm gần cuối phố Hàng Ngang, nơi buôn bán sầm uất của khu vực phố cổ. Nhà hai mặt phố, gắn số 48 là mặt tiền phố Hàng Ngang, gắn số 35 là mặt tiền phố Hàng Cân.

Căn nhà này của gia đình ông Trịnh Văn Bô, một tư sản dân tộc được giác ngộ cách mạng sớm và trở thành đảng viên cộng sản. Ông là thành viên tích cực tham gia phong trào Việt Minh và là cơ sở bí mật của ông Nguyễn Lương Bằng. Bác Hồ và Trung ương Đảng tin rằng, người giàu cũng có lòng yêu nước, người nghèo cũng có lòng yêu nước. Ai cũng có lòng yêu nước. Đó chính là tinh thần đại đoàn kết dân tộc - nhân tố quan trọng giành thắng lợi trong bất kỳ cuộc cách mạng nào.

Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hơn 50 vạn người dân Hà Nội đã tụ họp tại quảng trường Ba Đình chào mừng thành lập chính phủ mới. Thay mặt cho toàn thể chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn một câu trong trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và nhắc đến bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nước Pháp năm 1791. Không chỉ dừng lại ở đó mà Người đã phát triển, nâng lên cái ý cốt lõi, nguyên tắc cơ bản của hai bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ.

Bản Tuyên ngôn 1776 của Mỹ nói: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Từ quyền cá nhân mỗi con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng, nêu quyền của dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Và Người đã nắm chắc mối quan hệ biện chứng giữa quyền con người và quyền dân tộc. Dân tộc không độc lập thì cũng không có quyền con người. Trong những nước thuộc địa thì điều này đã quá rõ ràng. Và nguyên tắc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên thì đã được xác nhận trong Hiến chương Liên Hợp Quốc và trong Tuyên ngôn về các quyền con người được Liên Hợp Quốc thông qua năm 1948. Sự đóng góp của bản Tuyên ngôn độc lập 2/9/1945 của Việt Nam vào lý luận quyền con người gắn với quyền dân tộc là rất quan trọng.

Tại sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập bằng cách trích dẫn hai bản Tuyên ngôn của Mỹ, Pháp?

Thời điểm năm 1945, các nước trên thế giới hầu như không biết có nước Việt Nam, cho nên nếu ta đưa ra một bản Tuyên ngôn với lập luận của ta thì tác dụng gửi thông điệp đến với cộng đồng quốc tế có thể sẽ bị hạn chế, vậy nên trong Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi trích dẫn hai bản Tuyên ngôn Pháp, Mỹ thì đã khẳng định lại bằng câu: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Phần tiếp theo của bản Tuyên ngôn là chứng minh nguyên lí đã nêu, tất cả đều được bản Tuyên ngôn nêu lên bằng một hệ thống lập luận hết sức chặt chẽ và đanh thép, với những sự thật rõ ràng "không ai chối cãi được". Chính thực dân Pháp đã "lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa". Những tội ác của thực dân Pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chính là sự nối tiếp đấu tranh kiên trì từ “yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Véc-xây năm 1919 để đòi tự do, độc lập cho dân tộc, tiếp là những bài viết trên báo “Người cùng Khổ”, “Nhân đạo” và nhiều báo khác của Người. Và đặc biệt là tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” đã chuẩn bị cho phần quan trọng thứ hai của bản Tuyên ngôn độc lập. Những tội ác của Pháp được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra với những dẫn chứng thực tế, có chọn lọc cùng lập luận chặt chẽ. Tuyên ngôn Độc lập là bản cáo trạng hùng hồn đanh thép hiếm thấy trong lịch sử đấu tranh dân tộc cũng như thế giới.

Tuyên ngôn độc lập chứng minh tính pháp lý quốc tế của việc nhân dân ta nắm quyền. Pháp đã đầu hàng Nhật 2 lần (mùa thu năm 1940 và ngày 9/3/1945) “trong năm năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”. Trong lúc đó nhân dân Việt Nam đã dũng cảm đứng về phía Đồng minh đấu tranh chống phát xít.

“Sự thực là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành nước thuộc địa của Nhật-khi Nhật đầu hàng đồng minh thì nhân dân cả nước ta nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Sự thực là dân ta đã lấy lại được nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.

Lập luận tuyên ngôn rất chặt chẽ, mạch văn khúc chiết. Và tiếp đó là lời tuyên bố độc lập: “Bởi thế cho nên chúng tôi- Lâm thời Chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”.

Và sau cùng là lời tuyên bố trịnh trọng với thế giới:

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Đã 75 năm từ ngày bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình trước toàn thế đồng bào. Tiếp sau Hịch tướng sĩ của Trần Hưng Đạo, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là một bản hùng văn của dân tộc, vừa hào khí tưng bừng, vừa lập luận chặt chẽ, vừa đanh thép về pháp lý quốc tế, vừa nung nấu tình cảm của dân tộc nồng nàn, vừa kế thừa khí phách của cha ông, vừa thâu tóm được tinh thần thời đại.

Bản Tuyên ngôn độc lập đã thể hiện được tinh thần: Không có gì quý hơn độc lập tự do - tư tưởng khái quát của cả phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX trên toàn thế giới. Thông qua lời tuyên bố đanh thép đó cũng đã khẳng định chủ quyền của đất nước, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam; là truyền thống hào hùng cho nhân dân ta dựng nước và giữ nước.

Những ngày này, trong không khí rộn ràng, khắp mọi nơi trong cả nước tưng bừng đón Tết Độc lập, từng con phố, dòng người tấp nập, hân hoan trước những đổi thay của đất nước, Bảo tàng Lịch sử quốc gia - nơi lưu giữ rất nhiều hiện vật, tài liệu, hình ảnh về sự kiện này đã đón tiếp đông đảo khách tham quan trong nước và quốc tế để tìm hiểu về ngày Lễ lớn của dân tộc Việt Nam.

Ngày Tết Độc lập, cùng nhìn nhận và suy ngẫm, mỗi chúng ta lại ý thức hơn về trách nhiệm của bản thân đối với đất nước với thế hệ tương lai. Càng thấy nhớ và biết ơn Bác:

“Bác ơi! Tim Bác mênh mông thế,

Ôm cả non sông mọi kiếp người”

Những âm mưu xuyên tạc, bóp méo hèn hạ lợi dụng đợt bùng phát Covid-19 lần hai tại Việt Nam

 Trong đợt bùng phát dịch Covid-19 lần hai với ổ dịch tại Đà Nẵng, nhất là khi có những ca bệnh tử vong đầu tiên do nhiễm chủng virus SARS-Covi2, các thế lực thù địch chống phá lợi dụng tình hình, bóp méo, xuyên tạc nhằm suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, với chính sách phòng chống dịch bệnh hiệu quả hiện nay của chính phủ.

Thực tế, nhiều tài khoản xã hội dưới sự hậu thuẫn của các tổ chức chống phá, những kẻ cơ hội, hèn nhất tung tin “Việt Nam giấu dịch, sẽ trở thành Vũ Hán thứ hai”, “Vì thành tích, Việt Nam nói giảm nói tránh…”, “Tỷ lệ tử vong trên số người bệnh bị nhiễm Covid-19 là cao nhất thế giới…”…v.v, đây là những thông tin xuyên tạc, bóp méo hết sức nguy hiểm của những kẻ mưu đồ chính trị hèn hạ.

Chúng ta đã biết, các ca bệnh tử vong tại ổ dịch Đà Nẵng và Quảng Nam đều là các ca bệnh có bệnh lý nền nguy hiểm, đang điều trị, phần lớn là cao tuổi. Do tác động mạnh mẽ của Covid-19 với những biến chứng, bệnh lý có sẵn…những bệnh nhân này mặc dù được các y, bác sỹ hết lòng, hết sức cứu chữa nhưng không qua khỏi. Với tỷ lệ bệnh nặng như vậy, rất nhiều người đã khỏi bệnh và ra viện, chỉ một số ca quá nặng, tiên lượng xấu trước khi nhiễm bệnh là những bệnh nhân tử vong. Với những kết quả từ chính sách dập dịch của chính phủ, đến nay ngày 31/8 chúng ta đã trải qua 2 ngày không có bệnh nhân mới, các ổ dịch ở Đà Nẵng, Quảng Nam, Hải Dương cơ bản đã được khống chế. Chúng ta ghi nhận và tin tưởng vào biện pháp đầy nhân văn của chính phủ cùng sự tận tình, hết lòng vì nhân dân của đội ngũ y bác sỹ, bộ đội, công an và các cơ quan ban ngành đang đồng lòng vì sự bình an của nhân dân, đang ngày đêm vất vả.

          Những hành động cố tình dè bỉu, xuyên tạc, quy chụp về chính sách phòng chống dịch bệnh của chính phủ cần được lên án, chúng ta cảnh giác trước những hành động vô cùng phản cảm, thiếu lương tâm vì những mục tiêu chính trị hèn hạ, chúng sẽ không bao giờ chiến thắng nổi niềm tin, lòng yêu nước của nhân dân ta, không thể cản trở đất nước hùng dũng vượt qua đại dịch, thúc đẩy đất nước phát triển./.

TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM LUÔN ĐƯỢC TÔN TRỌNG

 

Ngay tại Điều 24, Chương II, Hiến pháp 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:

1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật.

2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật.

Như vậy, ngay tại văn bản có tính pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật đã quy định rất rõ ràng về việc tôn trọng người dân Việt Nam theo hay không theo tôn giáo, cũng như trong vấn đề sinh hoạt tôn giáo của nhân dân. Điều này đã được thời gian chứng minh đó là suốt hàng chục năm qua các tín đồ tôn giáo được tạo điều kiện thuận lợi tối đa trong sinh hoạt tôn giáo cũng như được Đảng và Nhà nước quan tâm trong việc cấp đất, phục dựng, xây dựng mới các cơ sở thờ tự, tôn giáo trên cả nước, các ngày lễ tôn giáo đều được lãnh đạo các cấp quan tâm thăm hỏi động viên để “sống tốt đời đẹp đạo”, “sống phúc âm trong lòng dân tộc”,…đời sống sinh hoạt tôn giáo của các tín đồ phong phú, đa dạng hơn bao giờ hết.

Tuy nhiên, nhiều kẻ đã lợi dụng tự do tôn giáo để thực hiện những âm mưu, thủ đoạn chiến lược diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ, chúng lợi dụng vấn đề “tự do tín ngưỡng, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước, quân đội, công an với nhân dân, chia rẽ giữa đồng bào miền xuôi với miền ngược, giữa người Kinh với đồng bào tôn giáo và đồng bào các dân tộc thiểu số. Chúng đã tiến hành các hoạt động phạm tội, và tất nhiên khi đã là hoạt động phạm tội thì ở bất kỳ một xã hội nào cũng phải bị hệ thống pháp luật điều chỉnh dù đó là phương Đông hay phương Tây và đó là câu chuyện nội bộ của mỗi quốc gia vì mỗi quốc gia lại có những quy định pháp luật khác nhau về các hành vi phạm tội và điều đó cần được các quốc gia khác tôn trọng. Nhưng một số quốc gia lại cậy là nước Lớn, nước Mạnh để áp đặt quan điểm về hành vi phạm tội liên quan đến tôn giáo ở Việt Nam và yêu cầu liệt Việt Nam chúng ta vào danh sách “đen” các quốc gia “đàn áp tôn giáo”.

Nhưng khi ‘họ” đưa ra danh sách các cá nhân, tổ chức bị coi là đang phải chịu “đàn áp tôn giáo” thì lại toàn là các cá nhân tổ chức có hoạt động chống phá Đảng, chống phá chế độ, thường xuyên gây rối trật tự công cộng, chống đối người thi hành công vụ,…đều là những hành vi đã được Hiến Pháp và pháp luật Việt Nam quy định là vi phạm pháp luật. Nếu xét hành vi tương đương thì việc cảnh sát Mỹ đánh đập người biểu tình, dùng xe cảnh sát đâm vào người biểu tình,…và trong số những người biểu tình có rất người theo tôn giáo, vậy Mỹ cũng phải bị liệt vào danh sách “đen” đàn áp tôn giáo mới phải.

Thế nên cái câu chuyện danh sách “đen” về “đàn áp tôn giáo” chỉ là câu chuyện mang nặng tính áp đặt một chiều của nước lớn, cũng như mang đầy mưu toan chính trị hơn là khách quan của vấn đề. Ở Việt Nam, đại bộ phận tín đồ tôn giáo vẫn đang có môi trường sinh hoạt tôn giáo tốt, và luôn được sự quan tâm của cả hệ thống chính trị, chỉ có những kẻ lợi dụng tôn giáo để tiến hành phá hoại mới phải trả giá theo pháp luật.

XEM LÒ CỤ TỔNG RỰC HỒNG

 XEM LÒ CỤ TỔNG

Lò Cụ Tổng xây vẫn rực hồng

Liệu có quan tham dám nói không

Củi ướt củi khô đều bắt lửa

Phen này tham nhũng chắc khóc ròng

Bởi vững niềm tin nên nghiệp lớn

Do bền ý chí mới thành công

Cơ đồ vun đắp càng thêm đẹp

Đất nước ngàn năm bỗng hóa rồng.

KỊCH BẢN UCRAINA ĐANG DIỄN RA Ở BELARUS VÀ BÀI HỌC CHO CHÚNG TA

 

Núp dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, chống độc tài, Mỹ và phương tây đã thò bàn tay lông lá của mình vào can thiệp lật đổ các quốc gia có chủ quyền bằng cách mạng màu nhằm phục vụ cho lợi ích kinh tế, chính trị của mình.

Hậu quả là biến những đất nước vốn thanh bình thành bất ổn, các đảng phái, phe nhóm nổi loạn tranh giành quyền lực nội chiến triền miên, "nước loạn dân tàn, nồi da nấu thịt" dẫn đến làn sóng di cư tị nạn ngày càng tăng.

Điểm mặt các quốc gia có "hồng phúc" được Mỹ ban phát thứ "dân chủ lật đổ", "nhân quyền bom đạn" như Iraq, Libia, Syria, Ucraina... đều có tình cảnh bi đát như nhau, đất nước hoang tàn đổ nát, nội chiến triền miên, đói nghèo, bệnh tật tội phạm gia tăng...tất cả đều trút lên đầu người dân vô tội.

Kẻ được hưởng lợi duy nhất là các tập đoàn kinh tế Mỹ, bởi chính quyền do Mỹ dựng lên và hậu thuẫn nên đã tạo điều kiện cho các công ty Mỹ thò vòi bạch tuộc vào vơ vét tài nguyên, thâu tóm các huyết mạch nền kinh tế của đất nước, khiến các nước này về lâu dài dù có ổn định và phục hồi cũng bị lệ thuộc vào Mỹ cả kinh tế lẫn chính trị.

Trong chiến dịch này có công lớn của cỗ máy truyền thông lưu manh khổng lồ của phương tây như RFI, VOA, RFA, BBC... Chính những cách lươn lẹo chuyên nghề "xỏ gậy bánh xe" này đóng một vai trò không nhỏ trong việc tuyên truyền xuyên tạc lừa đảo, bóp méo sự thật, đánh tráo khái niệm, gieo rắc hoài nghi làm suy giảm lòng tin về chế độ hiện tại, tạo ra "cái bánh vẽ" về một xã hội thiên đường tương lai, từ đó kích động nhân dân biểu tình bạo loạn lật đổ chế độ...

Nếu ai chưa tường tận sự thật cứ nhìn vào các nước được Mỹ và phương tây yêu quý ban phát cho "dân chủ" ắt sẽ rõ.

Sau Ucraina đến Belarus, mưu đồ của Mỹ là lôi kéo các nước thuộc "hậu không gian Xô Viết" vào vòng cương tỏa của Nato, mở rộng Nato ngày càng áp sát biên giới Nga để bao vây cô lập kìm chế Nga. Với kịch bản này nếu người dân Belarus không tỉnh táo trước âm mưu thâm độc của Mỹ thì tất yếu phải nhận một kết cục tối tăm, thê thảm không lối thoát tựa như người anh em Ucraina.

Ở Việt Nam, trong những năm qua dù kinh tế phát triển, chính trị ổn định, tuy nhiên các thế lực thù địch vẫn đang nuôi mưu đồ dùng cách mạng màu lật đổ thể chế chính trị hiện tại.

Xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở Việt Nam, thực hiện đa nguyên về chính trị đa đảng đối lập, thiết lập chính quyền tay sai chư hầu Mỹ làm công cụ cho Mỹ kìm chế Trung quốc và bảo vệ lợi ích của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á là giấc mơ không bao giờ Mỹ từ bỏ.

Thực tiễn trong những năm qua cho thấy bạo loạn ở Bình Dương, Bình Thuận, Hà Tĩnh... dù mang các màu sắc khác nhau nhưng đều nằm trong âm mưu cách mạng màu và đều có bàn tay của các thế lực thù địch bên ngoài chỉ đạo, tài trợ.

Nếu kịch bản này xẩy ra ở Việt Nam thì kẻ có lợi nhất là Trung Quốc chứ không phải là Mỹ. Bởi khi các đảng phái đang lừa bịp, kích động nhân dân biểu tình đấu đá nhau nhằm tranh giành quyền lực, cũng là thời cơ vàng Trung Quốc sẽ ra tay cướp biển đông, Trường Sa mà không vấp phải một sức kháng cự đáng kể nào, dân tộc ta sẽ mất lãnh thổ vào tau Trung Quốc.

Thậm chí, khi đất nước đang bạo loạn đã có bàn tay của tình báo Trung Quốc mua chuộc lôi kéo, các thế lực, thúc đẩy nhanh sự sụp đổ của thể chế để dễ bề thôn tính biển đông và phục vụ âm mưu lâu dài của chúng. Nên nhớ rằng dù Trung quốc tuyên bố là nước XHCN nhưng bản chất là Trung quốc đang theo đuổi con đường chủ nghĩa dân tộc đại Hán cực đoan.

Một số kẻ mang tư tưởng tự nhục, cuồng Mỹ luôn ảo tưởng "Mỹ sẽ viện trợ kinh tế cho đất nước giàu mạnh" nhưng đó là những suy nghĩ hoang tưởng, phi thực tế, hãy nhớ rằng Mỹ làm giàu bằng chiến tranh cướp bóc tài nguyên và buôn bán vũ khí. Các công ty, tập đoàn tư bản Mỹ sẽ nhanh chóng nhảy vào giành những hợp đồng béo bở, vơ vét tài nguyên khoáng sản, lũng đoạn tài chính, thao túng về chính trị... giống như từng diễn ra ở Iraq, Syria, Libia, Ucraina.

Hơn ai hết, dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều đau thương mất mát chống chiến tranh xâm lược mới có ngày hôm nay. Giữ vững hòa bình, ổn định để phát triển đó là hạnh phúc của chúng ta và cũng chính là tương lai của con cháu chúng ta.

Hãy cảnh tỉnh với cỗ máy truyền thông lưu manh phương tây, thận trọng với không gian mạng, cảnh giác với các mưu đồ kích động bạo loạn của các thế lực thù địch núp dưới chiêu trò "yêu nước", "chống độc tài", "đòi dân chủ, nhân quyền", "bảo vệ môi trường", "chống tham nhũng"... Đừng bao giờ tin vào thứ đạo đức công lí mà bọn lái súng rêu rao./.

VÌ MỘT NƯỚC VIỆT NAM HÒA BÌNH, ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT


    Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới và khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Từ bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Người đã lựa chọn và đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để tiến hành giải phóng dân tộc bằng một cuộc cách mạng vô sản và bước phát triển tiếp theo là xây dựng chủ nghĩa xã hội khi nhấn mạnh:

    1) Cách mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc;

     2) Phải thực hiện Dân tộc cách mệnh để tập trung đánh đổ bọn đế quốc thực dân và bọn phong kiến tay sai giành lại độc lập cho xứ sở và Thế giới cách mệnh giống như giai cấp công nông Nga đánh đổ tư bản áp bức…

    Luận cứ để mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội có thể trở thành hiện thực sinh động ở Việt Nam chính là cách mạng giải phóng dân tộc được đặt trong quỹ đạo cách mạng vô sản, là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội theo tinh thần khẩu hiệu chiến lược của Quốc tế thứ III: “Vô sản giai cấp và dân tộc bị áp bức trong thế giới liên hợp lại”! Đồng thời, “muốn cách mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin” và “An Nam muốn cách mệnh thành công, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế”. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào mùa Xuân năm 1930, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được khẳng định trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội để đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa được chỉ rõ là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” - tức là tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng, từng bước đưa đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hai giai đoạn cách mạng này có quan hệ biện chứng; trong đó: 1) Để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải giành được độc lập dân tộc. 2) Đi lên chủ nghĩa xã hội chính là điều kiện tiên quyết để giữ vững được độc lập dân tộc và xây dựng được cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

    Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa) - mục tiêu định hướng tương lai của dân tộc Việt Nam là sự lựa chọn chính xác, đúng đắn của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ thập niên 1930, đã góp phần khơi nguồn sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ, phát triển đất nước. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển, phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.

    Đại hội lần thứ II của Đảng (1951) khẳng định, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam sẽ tiến triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa và nước Việt Nam sẽ thành một nước xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ II của Đảng, cuộc trường chinh chống thực dân Pháp kéo dài 9 năm (1946-1954) đã giành được thắng lợi. Song, với Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc Việt Nam được giải phóng đã từng bước khôi phục, cải tạo kinh tế, xã hội, văn hóa và đi lên chủ nghĩa xã hội, còn ở miền Nam, đồng bào ta tiếp tục thực hiện cuộc đấu tranh giải phóng, thực hiện khát vọng thống nhất nước nhà. 

    Đại hội Đảng lần thứ III (1960) - Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà đã xác định nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Hướng đến tương lai tươi sáng đó, cuộc đấu tranh đầy gian khổ sau 21 năm gian nan, thử thách, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh cách mạng ở miền Nam đã kết thúc bằng cuộc Tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân năm 1975. Miền Nam được giải phóng, hai miền Nam - Bắc đã sum họp một nhà và cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.

    Từ sau khi hoàn thành công cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, non sông thu về một mối, tiếp nối, kiên định đường lối cách mạng mà Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra. Chúng ta đã vững vàng trước những khó khăn, thử thách vô cùng to lớn, phá vỡ thế bao vây, cấm vận của đế quốc, đánh tan hai cuộc xâm lược ở hai đầu đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toần vẹn lãnh thổ. Từng bước vượt qua khủng hoảng kinh tế, xã hội và phát triển từng bước vững chắc. Đên nay, chúng ta đã có một vị thế, cơ đồ, uy tín lớn chưa từng có. Điều đó, thể hiện sự sáng suốt, kiên định và nỗ lực quyết tâm lớn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong suốt tiến trình cách mạng từ khi có Đảng. Đồng thời khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đối với dân tộc việt Nam là hoàn toàn chính xác và không thể đảo ngược.

                                                                                                                        Chủ lực

Thứ Bảy, 29 tháng 8, 2020

“NHỜ TINH THẦN ANH DŨNG VÀ LÒNG YÊU NƯỚC CỦA TOÀN THỂ NHÂN DÂN VIỆT NAM, CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐÃ THẮNG LỢI”

 

Là khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tròn 15 tuổi”, Người viết vào cuối tháng 8 năm 1960.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc, một cuộc đổi đời chưa từng có với mỗi người Việt Nam; đã lật nhào chế độ quân chủ phong kiến hơn một nghìn năm, ách thống trị thực dân hơn 80 năm, giải phóng đất nước khỏi sự chiếm đóng của phát-xít Nhật suốt 5 năm. Nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người chủ thực sự của đất nước, làm chủ vận mệnh, cuộc sống của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến trở thành một nước độc lập, xây dựng chế độ cộng hòa dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Trong những nguyên nhân làm nên thắng lợi vĩ đại đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao tinh thần anh dũng, lòng yêu nước của toàn thể nhân dân Việt Nam.

Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã chứng minh: Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao ngọn cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề đứng lên cứu nước, cứu nhà, không sợ hi sinh gian khổ, quyết tâm giành độc lập, tự do và sự thật Việt Nam đã trở thành một nước độc lập, tự do.

Phát huy tinh thần anh dũng và lòng yêu nước nồng nàn của toàn thể dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ đất nước, Đảng, Nhà nước ta tiếp tục lãnh đạo toàn dân, toàn quân đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.


Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, là lực lượng nòng cốt cùng với toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngày nay, Quân đội ta tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với xây dựng, củng cố nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và “thế trận lòng dân” vững chắc. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; ngăn chặn, phản bác kịp thời những thông tin, luận điệu sai trái; sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống; bảo đảm an ninh, an toàn thông tin, an ninh mạng. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ vững chắc biên giới và chủ quyền biển, đảo, vùng trời của Tổ quốc; đồng thời, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước./.

 

 

BẢN CHẤT NHÂN VĂN CỦA NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP ĐƯỢC THỂ HIỆN RÕ TRONG ĐẠI DỊCH COVID-19

 

Covid-19 là một trong những đại dịch lớn nhất, nguy hiểm nhất mà nhân loại từng trải qua (tính đến ngày 5-4-2020, gần 65.000 người trên thế giới đã tử vong).

Chính lúc này, đất nước Việt Nam, chế độ chính trị-xã hội tại Việt Nam đang được dư luận khắp năm châu cảm phục vì đây là một nhà nước thực sự vì con người, một xã hội đầy tính nhân văn.

Trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776, Thomas Jefferson đã viết một câu văn bất hủ: “Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa đã ban cho họ những quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Nước Mỹ đã ra đời từ bản tuyên ngôn mà trong đó trước hết đề cao “quyền sống”, thứ quyền tất yếu và bất khả xâm phạm của con người.

Khi viết bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn ý văn nói trên của Thomas Jefferson và khẳng định rằng: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như thế, Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam không chỉ đề cao “quyền sống” trên các quyền cơ bản của con người và mở rộng hơn khi nhấn mạnh rằng mọi dân tộc, mọi con người đều có quyền sống. Và như vậy, một nhà nước vì con người trước hết phải bảo đảm quyền sống của mọi công dân.

Đại dịch Covid-19 là cuộc sát hạch nghiêm khắc, làm lộ rõ những hạn chế của nhiều nhà nước trên thế giới... Ở Mỹ, đến ngày 5-4, 8.454 người đã tử vong vì Covid-19. Thậm chí, quan chức Nhà Trắng còn dự tính nước Mỹ có thể mất tới 240.000 người do dịch này trong những tháng tới. Nhiều nước phát triển khác cũng điêu đứng vì dịch bệnh này với hàng vạn người tử vong, như Italy đã có 15.362 người tử vong, Tây Ban Nha: 11.947 người tử vong, Pháp: 7.560 người tử vong, Anh: 4.313 người tử vong. Trong khi đó, Việt Nam chưa thể so sánh với các nước nói trên về tiềm lực kinh tế, y tế, khoa học công nghệ thì đến ngày 5-4, đã có hơn 90 người khỏi bệnh (trong tổng số 241 bệnh nhân, không có người tử vong).

Bí quyết để tạo ra sự khác biệt về kết quả chống dịch giữa Việt Nam và một số nước trên thế giới là gì? Đó chính là: Nhà nước Việt Nam đặc biệt coi trọng tính mạng, sức khỏe của công dân, của con người; hệ thống chính trị của Việt Nam có năng lực thực hiện những điều tốt đẹp đó.

Có một thực tế đau lòng đang xảy ra tại một số nước trong đại dịch Covid-19, đó là người yếu thế đang bị bỏ lại phía sau, không có cơ hội được chữa bệnh. Kể cả khi được điều trị thì tiền viện phí ở nhiều nước là quá cao, cho thấy những bất cập trong thiết kế chính sách an sinh xã hội. Câu chuyện của bệnh nhân Danni Askini (Mỹ) phải trả tới 34.927USD viện phí (tương đương hơn 800 triệu đồng khi điều trị Covid-19), cho thấy người nghèo không có bảo hiểm y tế, khi bị bệnh thì nguy cơ mất mạng là rất lớn. Theo ước tính, tại Mỹ có khoảng 27 triệu người không có bảo hiểm y tế. Những người không có bảo hiểm y tế e ngại khi phải đi xét nghiệm Covid-19 vì sợ nếu mắc bệnh phải trả viện phí cao, rồi lại cố đi làm vì sợ mất việc. Đây cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến dịch lây lan mạnh ở một số nước.

Khi quyền sống, khi tính mạng, sức khỏe không được bảo đảm thì mọi thứ trở nên vô nghĩa. Trong đại dịch Covid-19, người Việt Nam ở khắp nơi đã về nước và được Tổ quốc dang vòng tay bao bọc. Họ trở về vì ở Việt Nam, họ được an toàn hơn, được Nhà nước thực sự chăm lo, cho hưởng các chế độ trong thời gian cách ly phòng dịch và khám, điều trị Covid-19 miễn phí.

Tại Việt Nam, ngay từ đầu dịch, từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, tới Quốc hội, Chính phủ đều coi chống dịch Covid-19 là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc. Từ ngày 27-1 (mồng 3 Tết Canh Tý), Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã chủ trì cuộc họp phòng, chống dịch và chỉ đạo: Chống dịch như chống giặc! Thủ tướng cũng tuyên bố sẵn sàng hy sinh lợi ích kinh tế để bảo vệ tốt nhất sức khỏe và tính mạng của nhân dân. Đây là tuyên bố được truyền thông các nước ca ngợi về tính đúng đắn, sự quyết đoán, sự dũng cảm của lãnh đạo Việt Nam. Những hành động phòng, chống dịch đã ngay lập tức được thực hiện quyết liệt, đã sớm mang lại sự yên tâm cho người dân.

Qua dịch bệnh Covid-19 càng thấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị Việt Nam. Hệ thống chính trị của Việt Nam là một thể thống nhất từ Đảng, chính quyền, đoàn thể, mặt trận, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị-xã hội... Hệ thống chính trị đó không chỉ bám rễ vào từng thôn bản, khu phố, từng gia đình mà còn ở trong mỗi con người, tạo nên nhận thức đúng đắn, là cầu nối, là sợi dây gắn kết vững chắc toàn xã hội. Khi Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng ra lời kêu gọi đồng bào, đồng chí, chiến sĩ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài đoàn kết một lòng, thống nhất ý chí và hành động để chiến thắng đại dịch Covid-19, ngay lập tức, lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước đã được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và đồng bào ta ở nước ngoài đồng lòng thực hiện. Vì thế, khi Thủ tướng Chính phủ ra chỉ thị cách ly toàn xã hội trên phạm vi toàn quốc để phòng, chống dịch Covid-19 thì cả nước đã nghiêm túc thực hiện. Từ thành thị tới nông thôn, từ miền xuôi tới miền ngược, từ người già tới người trẻ, tất cả đều nhất tâm tôn trọng và thực hiện quy định của Nhà nước về chống dịch. Hàng quán, khu vui chơi đều đóng cửa. Toàn xã hội, trong đó có giới trẻ đồng lòng kêu gọi nhau ở trong nhà, không ra ngoài đường, một phong cách sống, phong cách làm việc mới-làm việc trực tuyến-hình thành trong thời dịch bệnh. Tất cả những biểu hiện vi phạm đều bị cả xã hội lên án gay gắt. Nhờ tinh thần đoàn kết một lòng đó, đà lây lan của dịch đã được kiềm chế.

Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo các chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm y tế, các chính sách khám, chữa bệnh, đặc biệt là cơ chế, chính sách trong phòng, chống dịch bệnh thể hiện rõ tính nhân văn. Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm quy định rõ các bệnh truyền nhiễm thuộc nhóm A (gồm các bệnh truyền nhiễm đặc biệt nguy hiểm có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao hoặc chưa rõ tác nhân gây bệnh) thì các bệnh nhân sẽ được điều trị miễn phí. Cuối tháng 1-2020, trước sự nguy hiểm của dịch Covid-19, Bộ Y tế đã xếp dịch này vào nhóm A. Tại thời điểm đó, tất cả bệnh nhân của dịch này tại Việt Nam đều được khám, chữa bệnh miễn phí, kể cả đó là người nước ngoài. Sang giai đoạn 2, kể từ khi xuất hiện bệnh nhân thứ 17, trước các yêu cầu phòng, chống dịch bệnh, các bệnh nhân người nước ngoài nếu đến Việt Nam chữa bệnh sẽ được miễn phí xét nghiệm, nhưng phải trả phí chữa bệnh. Còn tất cả các công dân Việt Nam vẫn được miễn phí khám, chữa bệnh đối với Covid-19, trong đó có cả các kỹ thuật cao, như: Lọc máu, thở máy, ECMO, thuốc kháng sinh hoạt lực cao-những kỹ thuật mà bệnh nhân nghèo ở một số nước không thể với tới.

Đại dịch Covid-19 trên toàn cầu đang đặt nhân loại trước thử thách ngặt nghèo nhất về sinh mạng con người. Nếu không nhìn nhận nghiêm túc về sự nguy hiểm của dịch, có những giải pháp quyết liệt, phù hợp thì mạng sống của người dân ở khắp nơi trên thế giới sẽ tiếp tục bị cướp đi. Trong lúc này, chúng ta càng nhận rõ tính ưu việt của Nhà nước Việt Nam vì dân, vì con người, tính ưu việt của một xã hội Việt Nam đầy nhân văn, đầy tình đoàn kết, đầy tình Tổ quốc, nghĩa đồng bào, đã tạo ra sức đề kháng tốt như thế nào đối với đại dịch nguy hiểm này. Chủ trương, chính sách và hiệu quả thực tế của cuộc chiến đấu chống dịch Covid-19 thời gian qua đã thêm một bằng chứng mạnh mẽ, bác bỏ những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch về cái gọi là "vi phạm nhân quyền tại Việt Nam".

Chúng ta không chủ quan với dịch Covid-19, vì vẫn còn nhiều yếu tố khó lường, cần phải tiếp tục nêu cao ý thức, mỗi người dân là một chiến sĩ để đẩy lùi dịch bệnh. Tuy nhiên, với những gì đã diễn ra trong thời gian qua, mỗi chúng ta càng thêm vững tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, vào sức mạnh đoàn kết của cả dân tộc, vào con đường phát triển của đất nước. Chúng ta tin rằng đất nước ta, dân tộc ta sẽ sớm vượt qua thời khắc đầy thử thách của dịch Covid-19, phát triển bền vững, trường tồn./.

HIỆN TƯỢNG PHA LOÃNG XÉT LẠI LỊCH SỬ

      (Báo Nhân Dân Đt) Nhận thức là quá trình tiệm cận chân lý. Về lịch sử, khi thế hệ sau có tư liệu toàn diện, chân xác hơn, thì nhận thức về lịch sử có bước phát triển mới.

Ðó là yêu cầu của xã hội, của khoa học, là việc bình thường đáng trân trọng của các nhà sử học chân chính. Nhưng lại có người lợi dụng điều này, lớn tiếng đòi "xét lại lịch sử", "viết lại lịch sử" với động cơ không minh bạch.

Gần đây, ý kiến "xét lại lịch sử", "viết lại lịch sử" được nêu lên dưới một số hình thức với một số biến tướng khác nhau, nhưng qua biểu hiện của chúng có thể sơ bộ quy loại trong ba nhóm: "a. Viết lại lịch sử vì cho rằng thiếu chân thực (về tư liệu) và thiếu hiểu biết (về phương pháp); b. Viết lại lịch sử để tô vẽ bản thân; c. Viết lại lịch sử với mưu đồ chính trị". Không rõ do động cơ và ý đồ không trong sáng, do thiếu hiểu biết và thiếu trách nhiệm, hay do "thói quen giật tít câu view" mà một số tờ báo, tạp chí đã góp phần làm sai lệch một số vấn đề lịch sử? Với mức độ, tốc độ lan truyền thông tin như hiện nay, với sự thiếu trách nhiệm trong kiểm chứng hoặc thẩm tra độ chính xác của thông tin, thì điều này gây tác hại rất lớn. Như có tờ báo phỏng vấn "nhà cách mạng lão thành", nhưng "nhà" này "nhớ nhầm", nói sai, quy công lao về phía mình. Có sách lại viết về "nhân vật lịch sử quá cố" với bao niềm thương tiếc, trong khi chính người này lại vẫn sống khỏe mạnh (!). Có báo, sách công bố sai lệch nhiều tư liệu, chữa lại cả sự kiện lịch sử đã được khẳng định - mà cái "sự mới" do họ viết ra lại không dựa trên cơ sở khoa học nào... Những ấn phẩm đó mang danh viết về lịch sử nhưng lại làm "nhiễu" kiến thức, gây mơ hồ và chính sự mơ hồ "chưa kết luận", dẫn đến sai lệch trong tư duy, dẫn đến nghi vấn về sự thật.

Một loại "xét lại lịch sử" khác nhằm phục vụ âm mưu "hạ bệ thần tượng, giật đổ tượng đài". Thực ra, những người muốn "xét lại lịch sử" với ý đồ đó khi lớn tiếng hô hào xét (viết) lại lịch sử chỉ mượn danh khoa học lịch sử. Không khó để nhận ra phương pháp họ sử dụng rất phi khoa học, tư liệu họ dùng để làm "bằng chứng" được ngụy tạo một cách sống sượng. Một thói quen hay gặp ở các tác giả muốn "viết lại lịch sử" là thường nhấn mạnh các chi tiết riêng lẻ mà không đặt chúng trong bối cảnh lịch sử cụ thể. Như một người từng có những năm đứng trong đội ngũ chiến đấu trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, sau khi "trở cờ" lại lớn tiếng lên án chế độ mình từng bảo vệ "trong suốt cả thời gian dài mấy chục năm (dưới chính thể Việt Nam DCCH) không có ai được cấp hộ chiếu để đi du lịch nước ngoài" (!). Hẳn ông ta quên là trong bối cảnh cả nước sống với câu khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến", thì một người Việt Nam chân chính ai lại nghĩ đến đi du lịch nước ngoài! Xa hơn nữa là cái "công trình" cho rằng "truyền thuyết trăm trứng liên quan tới Lạc Long Quân - Âu Cơ từng được ghi lại trong Lục độ tập kinh - một bộ kinh Phật; truyền thuyết về An Dương Vương chỉ là dị bản mô phỏng trận đánh giữa anh em Pandu và Duryodhana được kể lại trong Mahabharata - một sử thi Ấn Ðộ" được một tờ báo làm rùm beng, làm không ít người vì băn khoăn mà đã nghi ngờ các công trình nghiên cứu lịch sử.

Sinh thời, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp - người là một thầy giáo dạy môn lịch sử, đã nói đại ý: Người làm sử phải có trái tim nhiệt thành, đầu óc sáng suốt, ngòi bút ngay thẳng. Từ cái gọi là "công trình" họ đã công bố, có thể thấy một số người tham gia viết sử hôm nay có hai điều kiện kể trên nhưng ngòi bút của họ lại "không thẳng". Ðiều đáng nói là các cơ quan, cán bộ có trách nhiệm tổ chức, quản lý công việc viết sử lại bỏ qua, giữ thái độ im lặng, "án binh bất động", tuy họ thừa hiểu rằng làm như vậy là sai. Do đó, họ đã (vô tình hay hữu ý) im lặng trước một việc sai, có thể tiếp tay cho cái sai tiếp theo, đó là điều cần phê phán. Bên cạnh đó, việc một số cuốn sách, tờ báo thiếu cẩn trọng đưa thông tin sai sự thật tới công chúng, hoặc đưa thông tin không chính xác, thậm chí sai về lịch sử cũng ảnh hưởng nghiêm trọng nhận thức chung.

Lịch sử Việt Nam có những trang bi hùng. Nhiều lần đất nước bị kẻ thù xâm chiếm, tàn phá, rồi bằng nỗ lực của toàn dân mà đất nước lại hồi sinh. Bối cảnh đó làm cho nhiều giá trị văn hóa, nhiều tư liệu lịch sử bị hủy hoại, dẫn đến thực tế là không phải giai đoạn nào cũng có tư liệu lịch sử phong phú, và lịch sử giai đoạn đó được chép một cách đầy đủ, chính xác. Ðó cũng là lý do mà lịch sử cần phải nhận thức từng bước, các bộ sử cần được tu chỉnh, thậm chí viết lại. Việc làm này trước hết là phụ thuộc vào người viết sử - những người nhận trọng trách trước xã hội về sự chân thực, chính xác khi tái hiện quá khứ. Việc nghiên cứu và viết sử cần ở người viết một tầm nhìn rộng hơn ngoài chuyên môn sâu của mình để phân định điều gì của lịch sử đã được khẳng định, điều gì còn là tồn nghi, điều gì bị chi phối bởi "tâm lý xã hội".

Ở Việt Nam, huyền sử nhiều khi lẫn với lịch sử và ngược lại - những chi tiết lịch sử được "thiêng hóa" trở nên mờ ảo lung linh, khó có thể kiểm định, xác minh bằng chứng cứ. Có những nhân vật từ huyền sử bước vào những trang lịch sử. Chuyện này đã có nhiều trong quá khứ và vẫn có cả trong thời hiện đại. Trong một số tình huống, việc đòi hỏi "bạch hóa" hoặc "thiêng hóa" một chi tiết hoặc một nhân vật lịch sử đều là thái quá, trở nên siêu hình về phương pháp, khi không đặt các chi tiết hoặc nhân vật trong cả bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn - tại nơi được sinh ra. Câu chuyện truy nguyên "lý lịch" của Kinh Dương Vương gần đây trên một tạp chí và được một số trang mạng dẫn lại là một thí dụ. Theo tác giả, dường như hình tượng huyền thoại Kinh Dương Vương có nguồn gốc sai lạc so với sự tôn kính. Ðáng chú ý là luận điểm này đã được một vị Giáo sư, Tiến sĩ người nước ngoài nêu ra. Ông cho rằng, từ thời trung đại, Việt Nam đã có việc "kiến tạo truyền thống" mặc dù chính các sử gia và chính trị gia thời phong kiến cũng đã phê phán việc "kiến tạo" này. Nhưng kể cả khi hình tượng có thể có sai lệch theo quan điểm mà nhà nghiên cứu đòi thực chứng, thì thực tế nhân vật ấy vẫn "thiêng" trong cả đền đài và tâm thức nhân dân. Khi dân tộc cần đoàn kết, nhân tâm cần "quy về một mối" thì sẽ (và đã) xuất hiện một, và chỉ một "Quốc tổ". "Quốc tổ" bước từ huyền thoại vào lịch sử với diện mạo của một con người. Dù chứng cứ, hiện vật khảo cổ học đã chứng minh sự tồn tại của một nền văn minh khá rực rỡ trong thời đại đó, thì việc cố truy tìm đầy đủ, rõ ràng lý lịch cá nhân, chính xác như thời nay là điều không thể. Nhưng dù không thể có một "lý lịch" thật cụ thể, vị thủ lĩnh đó vẫn thiêng liêng tồn tại trong tâm thức dân gian, không ai đòi phải chứng minh bằng kỹ thuật xác minh ADN hiện đại! Chưa nói tới xu hướng "xét lại lịch sử" bằng giả định "nếu như thế này thì sẽ thế kia" như ngầm bác bỏ sự lựa chọn xu hướng phát triển dân tộc. Cho nên phẫn nộ với ý kiến cho rằng: "Không cần phải phát động chiến tranh làm tốn phí cả bốn hay năm triệu sinh linh, thì rồi đến lúc nào đó, Pháp cũng phải trả lại chủ quyền độc lập cho dân ta", nhà sử học là người Mỹ gốc Việt Nguyễn Mạnh Quang đã viết rất rành mạch: "Trừ phi không biết hoặc thuộc loại phản quốc, khi có một nước khác đến ngồi trên đầu làm chủ, không có một người dân tử tế nào bằng lòng chờ cho có ngày bọn thực dân tự động trả lại cơ đồ ông cha mình cả. Nếu theo luận điệu ươn hèn như trên, thì những công lao và sự hy sinh của hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ trong các lực lượng nghĩa quân kháng chiến của nhân dân ta trong đại cuộc đánh đuổi giặc Pháp ngoại xâm từ năm 1858 đến năm 1954 đều là vô ích hay sao! Và hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống trong cuộc chiến 1954 - 1975 để đòi lại miền Nam trong tay Mỹ, đem lại thống nhất cho đất nước cũng là vô ích hay sao! Ðưa ra luận điệu này là tỏ ra vô ơn với hàng triệu anh hùng nghĩa sĩ đã ngã xuống cho Tổ quốc Việt Nam được trường tồn".

Nhu cầu hiểu biết về quá khứ luôn là một đòi hỏi của con người. Nhà sử học Nga O Va-in-xten cho rằng: "Lịch sử là sự tập hợp những tấm gương để cho người ta bắt chước những hành vi tốt và tránh đi những hành vi xấu" (Sử học Tây Âu thời Trung đại, Matxcova, 1962). Các bài học, kinh nghiệm từ quá khứ lịch sử vẫn mang những giá trị to lớn đối với xã hội hiện tại, để động viên nhân dân trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Năm 1942, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Dân ta phải biết sử ta. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân tộc ta là con Rồng, cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi,... yêu dân trị nước tiếng để muôn đời"; "Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn..." (Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, NXB Chính trị Quốc gia, H. 2011, tr 255 - 256). Sự khách quan, tính trung thực chính là điều làm cho sử học hấp dẫn. Hứng thú khi đọc và học lịch sử cũng bắt nguồn từ đó. Nghiên cứu để thấu suốt, nhận biết lịch sử ngày càng đúng đắn, sâu sắc hơn là yếu tố đầu tiên quyết định giá trị của nghiên cứu, điều đó cần thiết cho hôm nay và cho cả con cháu mai sau. Nhưng lịch sử cũng không cần và không chấp nhận việc "xét lại lịch sử" với tầm nhìn hẹp, hoặc từ cái tâm thiếu trong sáng.
THIÊN PHƯƠNG
#QSD

 Yêu nước ST.

Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2020

NGUYỄN DUY TÂN LÀ GIẶC!

Giáo hoàng Francesco, Tòa thánh Vatican từng răn dạy, khuyến khích cộng đồng Công giáo ở Việt Nam “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”, “người Công giáo tốt cũng là người công dân tốt”. Ấy thế mà từ nhiều năm nay, một số linh mục đã đi trật đường ray, họ kích động giáo dân sống chày bửa ngay trong lòng dân tộc, sống để tiếng xấu cho đời, gây phẫn nộ trong quần chúng nhân dân. Điển hình như linh mục Nguyễn Duy Tân, dù đã bị chính bà con Công giáo và cả những chức sắc tẩy chay, từ một linh mục trở thành người trông coi tượng Đức mẹ ở núi cúi vì có những hành vi gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, vi phạm pháp luật Việt Nam.

Việt Nam là quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo. Đảng và nhà nước ta luôn tôn trọng các quyền tự do tôn giáo, tạo điều kiện để cho giáo dân thuận lợi sinh hoạt, để họ làm tốt hai vai là công dân tốt, giáo dân tốt. Vậy nhưng vì hám danh, hám lợi mà linh mục Nguyễn Duy Tân đã bất chấp tất cả, ngồi xổm trên pháp luật, ngang nhiên chà đạp lên truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Nghiêm trọng hơn, y đã liên kết với các tổ chức phản động ở nước ngoài, tàng trữ, phát tán các tài liệu chống Đảng, nhà nước, kêu gọi lật đổ chính quyền nhân dân. Việc làm bại lý, vong luân của linh mục Tân đã được chính quyền nhắc nhở, khuyên bảo; thế nhưng y ngày càng hung hăng hơn, táo tợn hơn. Hàng ngày tuyên truyền, xuyên tạc về tình hình đất nước, bôi nhọ chế độ. Nguyễn Duy Tân đã làm trái ý Chúa Giê Su, đi ngược lòng dân Việt Nam!

Chúng ta đã rất nhân nhượng khi nhiều lần vận động, giáo dục, thuyết phục, với mong muốn hắn quay đầu là bờ. Dùng lễ không thành thì phải dùng binh, đã đến lúc chúng ta phải đưa linh mục Nguyễn Duy Tân ra trước ánh sáng của công lý và pháp luật. Nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng và nhà nước trong việc xử lý hình sự đối với Nguyễn Duy Tân. Không thể để hình ảnh của người Công giáo bị tổn hại, chỉ vì một kẻ lòng lang dạ sói. Không thể để những kẻ như Tân chà đạp lên pháp luật Việt Nam! Nguyễn Duy Tân đã không còn xứng đáng là công dân của nước Việt Nam tự do, độc lập và đời đời văn hiến. Nguyễn Duy Tân là giặc, nhân nhượng với giặc là tàn bạo với chính mình. Cần phải cách ly hắn ta ra khỏi đời sống xã hội./.

TRUNG QUỐC ĐANG LÀM GÌ Ở BIỂN ĐÔNG

Trong những năm gần đây, Trung Quốc liên tục có những hành động gây căng thẳng, tiềm ẩn những nguy cơ xảy ra xung đột trên Biển Đông. Trung Quốc ngang ngược đưa ra yêu sách “đường lưỡi bò” đòi chủ quyền trên phần lớn diện tích Biển Đông, từ năm 2014 đã tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo, cải tạo mở rộng diện tích sử dụng các đảo do nước này chiếm hữu thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Thường xuyên có những hành động gây căng thẳng trên các vùng biển khu vực tranh chấp chủ quyền giữa Trung Quốc và các quốc gia khác trong khu vực như Nhật Bản, Việt NamPhilippinesMalaysiaĐài Loan và Brunei. Gần đây nhất, từ ngày 24 đến ngày 29.8.2020, Trung Quốc tổ chức tập trận quanh khu vực quần đảo Hoàng Sa với khu vực tập trận rộng khoảng gần 49.000 km2, trong đó, sáng 26.8.2020 Trung Quốc đã phóng 2 quả tên lửa đạn đạo chống hạm Đông Phong từ những vị trí bí mật ở hai tỉnh Chiết Giang, Thanh Hải ra Biển Đông.

Những hành động trên của Trung Quốc đã gặp sự phản đối, lên án của nhiều quốc gia trên thế giới. Các nước Mỹ, Úc, Malaysia, Indonesia, Philipin đã gửi công hàm lên Liên hợp quốc bác bỏ mọi yêu sách trên Biển Đông của Trung Quốc, trong đó có yêu sách đường lưỡi bò phi pháp của Trung Quốc. Những hành động và yêu sách về Biển Đông của Trung Quốc đang vi phạm nghiêm trọng Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Điều 60 của Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 phủ nhận quy chế cho các đảo nhân tạo (Artificial islands) nêu rõ: "Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế của đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hảivùng đặc quyền kinh tế hoặc thềm lục địa".

 Việt Nam đã rất nhiều lần lên tiếng khẳng định lập trường cứng rắn về chủ quyền biển đảo của mình, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch sử và cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa phù hợp luật pháp quốc tế. Chủ trương nhất quán của Việt Nam là mọi tranh chấp quốc tế, trong đó có tranh chấp về vấn đề chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa phải giải quyết bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Phản ứng việc Trung Quốc ngang nhiên tiến hành tập trận ở Hoàng Sa từ ngày 24 đến 29.8.2020, phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng ngày 26-8 nêu rõ “Việc Trung Quốc liên tiếp tiến hành tập trận ở khu vực quần đảo Hoàng Sa đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo này, đi ngược lại tinh thần Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), gây phức tạp tình hình, không có lợi cho quá trình đàm phán hiện nay giữa Trung Quốc và ASEAN về Bộ Quy tắc ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (COC) và việc duy trì môi trường hòa bình, ổn định và hợp tác ở Biển Đông. Việt Nam yêu cầu Trung Quốc tôn trọng chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, hủy bỏ và không tái diễn vi phạm tương tự.”

Trong bối cảnh hiện nay, khi toàn thế giới đang oằn mình phòng chống dịch Covid-19 khởi phát từ Trung Quốc, bản thân Trung Quốc đang đối phó với thiên tai mưa lũ lịch sử, nền kinh tế Trung Quốc đang bị đe dọa nghiêm trọng trong cuộc chiến tranh thương mại với Mỹ với nguy cơ thoái hóa cao do bị phía Mỹ liên tục áp đặt các lệnh trừng phạt trong quan hệ kinh tế, những hành động mang yếu tố quân sự, chính trị của Trung Quốc trên Biển Đông đang gây phản tác dụng trong việc xoa dịu căng thẳng và duy trì sự ổn định, có thể khiến cho Mỹ và các nước trong khu vực gia tăng sức mạnh quân sự hiện diện trong khu vực, điều đó càng gây thêm bất ổn cho tình hình ở Biển Đông, quan hệ ngoại giao giữa Trung Quốc và các nước có nguy cơ càng xấu đi. Liệu Trung Quốc có phải đang tự làm khó mình, tự đưa đất nước vào vòng xoáy bất ổn và thoái trào?

NGUYỄN ĐÌNH CỐNG LẠI TỰ VẢ VÀO MẶT MÌNH


Trên thế giới ảo-internet, mạng xã hội nếu người ta muốn tìm xem những ai, kẻ nào đang chống chế độ thì có thể vào những trang mạng ngoài luồng (mà Hà Nội không thèm chặn,…) Gần đây, người ta thấy Nguyễn Đình Cống xuất hiện nhiều trên những mạng đó. Sau đây là một bài viết- một “ý tưởng lớn” của Y…

Bản Tuyên ngôn độc lập, mãi mãi trường tồn với thời gian

 

75 năm đã trôi qua nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Đặc biệt, những giá trị về quyền con người do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng trong Tuyên ngôn độc lập là những giá trị bất hủ. Từ đó đến nay, nhân dân Việt Nam đã không ngừng phấn đấu cho quyền con người và đạt được nhiều kết quả tích cực, rất quan trọng.

Các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và luật. Với những thành tựu về việc bảo đảm quyền con người (cả trên lĩnh vực đối nội và đối ngoại), Việt Nam được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016).

Kể từ ngày bản Tuyên ngôn độc lập ra đời đến nay, vị thế đất nước đã có nhiều đổi thay, lời thề lịch sử “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy” luôn rọi sáng mọi trái tim, khối óc của người Việt Nam yêu nước trên mọi vùng, miền của Tổ quốc và định cư ở nước ngoài.

Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn độc lập đã trở thành sức mạnh tinh thần to lớn của toàn dân tộc, giúp toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong đấu tranh thống nhất đất nước, phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế.

Đặc biệt, sau gần 35 năm tiến hành đổi mới, nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm, quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực; Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam dần được cải thiện, hiện đang thuộc nhóm trung bình cao và đứng thứ 118/189 quốc gia (năm 2019); mức sống chung của người dân từng bước được nâng lên...

Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ...

Năm tháng sẽ qua đi, nhưng tinh thần bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn luôn sống mãi trong lòng các thế hệ người Việt Nam, không chỉ bởi giá trị lịch sử, pháp lý mà còn bởi giá trị nhân văn cao cả về quyền con người, quyền của dân tộc được sống trong độc lập, tự do như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ấp ủ và cống hiến cả cuộc đời mình để thực hiện./.

HA200840


Quyền con người gắn liền với quyền dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập

 

Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).

Bản tuyên ngôn đã thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ."

Trải qua 75 năm, Tuyên ngôn độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế.

Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm đỉnh cao, tiêu biểu, phản ánh đầy đủ nhất, sâu sắc nhất quan điểm triết học, quan điểm chính trị và cả quan điểm nhân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó chứa đựng cả những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791.

Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc.

"Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”

Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.

Nghiên cứu về Tuyên ngôn độc lập, giáo sư Shingo Shibata (Nhật Bản) cho rằng "cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”

Bởi vậy, có thể nói Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.

"Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập"

Quyền độc lập dân tộc, quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc là những giá trị cơ bản nhất của nhân quyền. Nhưng dưới chế độ thực dân, phong kiến ở Việt Nam, những quyền đó bị tước bỏ và chà đạp.

Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án đanh thép tội ác của thực dân Pháp “trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa."

"Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do, dân chủ nào... Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước, thương nòi. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân trong những bể máu... Về kinh tế, chúng bóc lột công nhân, nông dân đến tận xương tủy... Chúng cướp không ruộng đất, rừng mỏ, nguyên liệu... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho nhân dân ta, nhất là dân cày và dân buôn trở nên bần cùng...” 

Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đánh đuổi thực dân, phong kiến và đế quốc, giành lại độc lập, tự do và quyền con người. Như vậy, nhân quyền ở Việt Nam không phải là giá trị do ai ban phát mà là kết quả của cuộc đấu tranh trường kỳ của nhân dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh đó đã làm cho “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa” 

Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” (5); đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”

Kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

Với hệ thống lập luận chặt chẽ, sắc bén, lời lẽ đanh thép, đầy sức thuyết phục gói gọn trong hơn 1.000 chữ, Tuyên ngôn độc lập là một cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, đặt cơ sở cho việc thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam với mục tiêu độc lập-tự do-hạnh phúc; soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

Bg200802