Chủ Nhật, 31 tháng 10, 2021

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

 


Ngày 01 tháng 11 năm 1967

“…Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công” .

Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho báo Pravđa (Liên Xô); Báo Nhân dân, đăng số 4952, ngày 01 tháng 11 năm 1967.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng, đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao. St

 

 

 

DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT TRẦN HƯNG ĐẠO VỚI KẾ SÁCH “VƯỜN KHÔNG NHÀ TRỐNG” CHIẾN THẮNG GIẶC NGUYÊN MÔNG LÀ ĐỈNH CAO VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM

 


Đế chế Nguyên Mông nổi tiếng hưng thịnh và hùng mạnh nhất thế giới, vó ngựa của chúng tung hoành khắp nơi, chinh phạt trời Á sang Âu. Không có nước nào địch nổi đội quân hùng mạnh, thiện chiến của Hốt Tất Liệt. Nhưng cả ba lần (1258, 1285 và 1287), chúng sang xâm lược nước ta là cả ba lần phải nhận đại bại nhục nhã dưới tài chỉ huy của các danh tướng nhà Trần, mà tiêu biểu là Trần Hưng Đạo lừng danh, Trần Hưng Đạo quê ở Nam Định, là danh tướng vĩ đại của nhà Trần.

Chiến thắng giặc Nguyên Mông là đỉnh cao về nghệ thuật quân sự ở nước ta mà chiến lược gia không ai khác đó chính là thiên tài quân sự Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn. Ông dùng kế sách “vườn không nhà trống”, không để cho giặc lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, kéo dài chiến tranh không có lợi cho ta; xóa bỏ mọi hiềm khích, đặt lợi ích quốc gia lên trên hết, khích lệ tướng sĩ bằng hùng văn bất hủ “Hịch tướng sĩ”. Đây là bản Tuyên ngôn thứ hai thể hiện hào khí chống ngoại xâm của dân tộc ta. Tướng sĩ nghe lời hịch nấc lòng, thích vào tay hai chữ “THÁT SÁT” (giết giặc Mông Nguyên). Ông xây dựng khối đại đoàn kết trên dưới một lòng, giết giặc giữ nước, trọng dụng nhân tài như Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật, Yết Kiêu, Trần Bình Trọng, Trần Quốc Toản… để làm nên chiến thắng.

Lần đầu tiên trong chế độ phong kiến đã diễn ra “Hội nghị Diên Hồng” nổi tiếng. Ông đã khéo dựa vào sức dân để phát động nghệ thuật chiến tranh nhân dân hợp lực lại để đánh bại chế độ hùng mạnh nhất bấy giờ. Tố chất xuất chúng của ông là biết chọn lựa thời cơ để đánh giặc. Minh chứng hùng hồn là trận thủy chiến trên sông Bạch Đằng năm 1287, ông đã dựa vào quy luật thiên nhiên để đánh thắng giặc, bằng cọc gỗ vát nhọn cắm xuống sông che lấp bằng thủy triều và nhử chúng vào sâu, vào thế trận của ta giăng sẵn rồi nhấn chìm tất cả kẻ thù xuống sông khi thủy triều xuống.

Bằng nghệ thuật quân sự độc đáo này ông đã ba lần đánh bại quân Nguyên Mông xâm lược, làm sụp đổ một triều đại Hốt Tất Liệt hùng mạnh, mở ra nền độc lập cường thịnh cho dân tộc Việt Nam. Tấm gương của ông là tài sản vô giá, là nguồn cổ vũ động viên to lớn cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam đời này sang đời khác. Nhân dân ta lập đền thờ ông ở nhiều nơi để tưởng nhớ công lao to lớn của Hưng Đạo Vương – Trần Quốc Tuấn và suy tôn ông là Đức Thánh Trần. Ngày nay ông trở thành vị Thánh thiêng liêng được thờ phụng trên mọi miền đất nước. St

 

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, bảo đảm an toàn thông tin trong truyền thông xã hội

Nền tảng pháp lý được coi là một trong những chìa khóa của sự phát triển kinh tế số, trong đó có truyền thông xã hội. Trước sự tác động hai mặt của truyền thông xã hội, nhiều nước trên thế giới đã chủ động có những biện pháp nhằm phát huy những mặt tích cực, hạn chế những tác động tiêu cực từ truyền thông xã hội, xây dựng các quy định cụ thể để tăng cường quản lý, đồng thời xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong lợi dụng loại hình truyền thông mới này.

Việt Nam đã ban hành nhiều quy định về trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức trong bảo đảm an toàn thông tin trên in-tơ-nét nói chung và truyền thông xã hội nói riêng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để ngăn chặn, xử lý nghiêm mọi hành vi vi phạm pháp luật trong việc sử dụng in-tơ-nét nói chung, truyền thông xã hội nói riêng; chủ động ngăn chặn, vô hiệu hóa việc lợi dụng truyền thông xã hội gây nguy hại đến an ninh, trật tự xã hội. Trong năm 2019, thực hiện yêu cầu của các cơ quan quản lý nhà nước Việt Nam, Facebook đã gỡ bỏ 207 tài khoản, trong đó có 46 tài khoản giả danh lãnh đạo Đảng, Nhà nước; còn lại là các tài khoản đưa thông tin giả mạo, nói xấu, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam; gỡ bỏ 2.444 link rao bán sản phẩm bất hợp pháp; 271 link phát ngôn gây thù hận, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các thương hiệu, cá nhân và tổ chức; gỡ bỏ 330 fanpages quảng cáo game cờ bạc, đổi thưởng. Youtube gỡ bỏ 9.501 video vi phạm, ngăn chặn truy cập từ Việt Nam vào 19/62 kênh Youtube phản động thường xuyên đăng tải nội dung chống phá Nhà nước Việt Nam, chứa khoảng 5.000 video clip; tiếp tục xem xét, ngăn chặn các kênh còn lại. Trên Google Play, Google đã gỡ 108/111 game trong đó có 104 game bài và một game có tên “Lấy lại quê hương” có nội dung phản động, chống phá Nhà nước Việt Nam và các game không phép(7)...

Tuy nhiên, công tác giám sát, ngăn chặn, vô hiệu hóa các thông tin độc hại trên truyền thông xã hội còn gặp nhiều khó khăn, bất cập:

Một là, trong bối cảnh khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ, tội phạm mạng sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, ứng dụng các thành tựu khoa học hiện đại để tiến hành các chiến dịch tấn công mạng, dẫn dắt dư luận trên truyền thông xã hội, khiến công tác phòng ngừa, ngăn chặn của cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn.

Hai là, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan công tác bảo đảm an ninh mạng đã được xây dựng nhưng chưa hoàn thiện; vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước trên lĩnh vực an ninh mạng nói chung, truyền thông xã hội nói riêng còn bất cập.

Ba là, ý thức của một số cơ quan, đơn vị và người dùng về công tác bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ bí mật riêng tư trên môi trường in-tơ-nét, truyền thông xã hội chưa cao, chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo đảm an toàn, an ninh mạng; kiến thức, kỹ năng bảo đảm an ninh mạng còn hạn chế. Không ít cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chưa chú trọng áp dụng các biện pháp bảo đảm an toàn, an ninh thông tin.

Bốn là, các hệ thống mạng thông tin ở nước ta chưa theo một tiêu chuẩn thống nhất, nhiều nơi chưa có thẩm định về an ninh mạng; nhiều cơ quan, bộ, ngành sử dụng các thiết bị mạng lõi của một số tập đoàn công nghệ vẫn tồn tại lỗ hổng bảo mật, có nguy cơ bị theo dõi, giám sát, thu thập thông tin từ xa; hầu hết linh kiện điện tử giá rẻ tại Việt Nam đều có nguồn gốc từ nước ngoài, chứa nhiều lỗ hổng bảo mật hoặc bị cài sẵn các tài khoản truy cập “cửa hậu” (backdoor), khiến Việt Nam luôn nằm trong danh sách các quốc gia bị ảnh hưởng bởi các “mạng máy tính ma” lớn nhất thế giới(8)

Năm là, công tác bảo vệ an toàn thông tin, an ninh mạng chưa được đầu tư tương xứng và thỏa đáng. Sự phát triển như vũ bão về khoa học và công nghệ đã khiến cho vòng đời của sản phẩm an ninh mạng ngắn lại; yêu cầu đầu tư để theo kịp sự phát triển, không bị lạc hậu trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn là một trong những thách thức đang đặt ra. Nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ vào bảo đảm an ninh mạng ở nước ta chưa theo kịp tốc độ phát triển khoa học - công nghệ của thế giới; chưa tự chủ, sản xuất được các thiết bị công nghệ thông tin, dẫn đến lệ thuộc nhiều vào các sản phẩm nước ngoài.

Sáu là, công tác đào tạo nguồn nhân lực, chuyên gia an ninh mạng chưa theo kịp yêu cầu về số lượng và chất lượng, thiếu lực lượng chuyên gia chuyên trách bảo vệ an ninh mạng; chính sách đãi ngộ còn nhiều bất cập nên chưa phát huy hết năng lực chuyên môn của đội ngũ này.

TT

Một số lệch lạc khi nhận thức không đầy đủ về mối quan hệ giữa văn hóa và con người

(1) Chưa nhận thức sâu sắc quan điểm văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Vì vậy, cấp ủy, chính quyền ở không ít nơi chỉ “khoán trắng” cho cán bộ làm văn hóa.

(2) Chưa nhận thức tác động sâu sắc của văn hóa tới đạo đức, nhân cách, lối sống của từng con người, đặc biệt ở thời cơ chế thị thường khi các chuẩn mực đạo đức, lối sống bị đảo lộn giá trị; những hành vi ác độc lấn át cái thiện, dẫn tới nhiều thảm kịch đau lòng trong xã hội (cha giết con, vợ giết chồng, anh giết em chỉ vì lợi nhuận trong hợp tác đầu tư không được thỏa mãn; các tệ nạn ma túy, mại dâm có đà phát triển; đặc biệt sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống có biểu hiện đáng báo động, tạo cơ sở phát triển tệ tham nhũng, quan liêu nghiêm trọng…) Như vậy, một trong những mục đích cao đẹp của văn hóa là góp phần bồi đắp CHÂN - THIỆN - MỸ đã không được đáp ứng.

(3) Mặc dù Nghị quyết đề cập nhiều giải pháp căn cơ, nhưng trong quá trình thực hiện, không ít cơ quan, địa phương chưa coi trọng đúng mức nhiệm vụ xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đặc biệt là trong các trường học, cơ quan, doanh nghiệp… Chúng ta đau lòng khi mươi năm trở lại đây, nạn ma túy xâm nhập một số trường học; nhất là hiện tượng chửi tục, đánh đập nhau, xé quần áo… trong các phe nhóm nữ sinh ở độ tuổi 14-15 diễn ra ngay tại sân trường, lớp học, đường phố…, nhưng hình như không ai can thiệp, thậm chí có nhóm người đứng xem cổ suý vô tư!

Ở bình diện lý luận, một số nhà nghiên cứu chưa làm rõ nội hàm CON NGƯỜI. Đây là một thực thể bao gồm 2 thành tố CON và NGƯỜI. Chừng nào thành tố “con vật” lấn át thành tố “con người” thì sẽ gây hiểm họa khôn lường (mà những hành động nêu trên chỉ là ví dụ tiêu biểu).

Ở bình diện thực tiễn, sự quan tâm chỉ đạo đi liền với giải pháp thì các cơ quan hữu quan chưa thật sự chú ý chọn trọng tâm, trọng điểm trong từng giải pháp mà Nghị quyết đã ghi. Chúng ta chỉ có thể xây dựng được môi trường văn hóa lành mạnh khi cả xã hội chung tay góp sức, nhưng vai trò của gia đình còn bị xem nhẹ; hoặc đã thấy, nhưng không làm quyết liệt. Chúng ta cảm thông trong cuộc sống mưu sinh hiện nay, nhiều cặp vợ chồng đi làm sớm, về nhà lại rất muộn nên việc học gần như phó thác cho con cái. Trong bối cảnh internet, điện thoại thông minh phát triển mạnh mẽ, nhiều cháu về đến nhà chỉ vùi đầu vào máy để chơi game, quên cả làm bài tập; trong khi sự tác động xấu của những trò chơi mang tính bạo lực cùng các hình ảnh kích dục, lại có sức hút mạnh mẽ với các em chưa đến tuổi thành niên. “Thế giới nhà trường” và “thế giới gia đình” hình như còn tách biệt; vai trò của Ban phụ huynh học sinh trong các trường dường như chỉ là hình thức, chưa phối hợp chặt chẽ với giáo viên chủ nhiệm và ban giám hiệu trong việc đánh giá sâu sắc và toàn diện công tác giáo dục, quản lý với từng học sinh…

Về mặt xã hội, chúng ta vui mừng “Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được phát động từ trước năm 1998 và tiếp tục được duy trì, mở rộng đến hôm nay. Tình làng, nghĩa xóm được khơi dậy; truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái được đề cao; ý thức chia sẻ, động viên nhau trong khó khăn, hoạn nạn càng ngời sáng - mà qua 4 đợt bùng phát đại dịch COVID-19 trong hai năm qua, cả nước đã chứng kiến nhiều tấm lòng, nhiều việc làm tình nghĩa, rất đáng trân trọng, có tác động giáo dục tích cực, nhất là đối với lớp trẻ. Nhưng nếu nghiêm túc xem xét, có một câu hỏi đặt ra: vậy lúc bình thường thì thế nào? Tôi nhớ mãi lời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc sinh thời đã nói rất thật với một số nhà hoạt động văn hóa: “Các đồng chí nên sâu sát hướng về cơ sở hơn nữa. Tôi đã có dịp ghé thăm hàng chục phường, xã, khóm, ấp từng được công nhận là “đơn vị văn hóa”, nhưng khi hỏi chuyện cả cán bộ và nhân dân những việc họ đã làm, thì tất cả tỏ ra lúng túng…” Như vậy, có nghĩa là, trên thực chất, trong nhận thức của ngay cả cán bộ làm văn hóa cũng chưa hiểu rõ vai trò quan trọng của văn hóa nên dẫn đến các việc làm mang tính hình thức; đáng chú ý là ở một số nơi đạt “danh hiệu văn hóa”, nhưng tệ cờ bạc, mê tín dị đoan, kể cả ma túy có chiều hướng gia tăng…

 

Mai Năm Mới

"TỊNH THẤT BỒNG LAI" MẠO DANH TU HÀNH, LỢI DỤNG "TRẺ MỒ CÔI" ĐỂ TRỤC LỢI NHƯ THẾ NÀO?


          Nơi tự xưng là "Tịnh thất Bồng Lai" đã lợi dụng Phật giáo và danh nghĩa nuôi "trẻ mồ côi" (mà thật ra là con cháu ruột của ông Lê Tùng Vân) để trục lợi tiền từ thiện

          Những ngày qua, câu chuyện xoay quanh "Tịnh thất Bồng Lai" lại nóng lên trên mạng xã hội sau khi Lê Thanh Minh Tùng, tự nhận là con ruột của Lê Tùng Vân (người xưng là Hòa thượng Thích Tâm Đức ở "Tịnh thất Bồng Lai") xuất hiện trên livestream của bà Nguyễn Phương Hằng. Tại đây, Lê Thanh Minh Tùng đã tố cáo những câu chuyện động trời ở "Tịnh thất Bồng Lai".

          Trước đó, vào tháng 10/2020, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng phóng sự về sự thật của nơi gọi là "Tịnh thất Bồng Lai" cùng những thủ đoạn kêu gọi từ thiện dành cho những đứa trẻ mà họ tự nói là mồ côi từ nhiều năm qua.

          "Tịnh thất Bồng Lai" (sau tự đổi tên là "Thiền am bên bờ vũ trụ"), tọa lạc xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Một địa điểm tâm linh tự xưng làm xôn xao dư luận trong vùng thời gian qua. Cơ sở này gây ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín của tổ chức Phật giáo và an ninh trật tự tại địa phương.

          Đến nay, Công an tỉnh Long An và các cơ quan chức năng khác của tỉnh đã điều tra, xác minh và có đủ cơ sở để xác định, đây là cơ sở lợi dụng Phật giáo và danh nghĩa nuôi trẻ mồ côi để kêu gọi lòng tốt của mọi người trong và ngoài nước giúp đỡ, nhằm trục lợi cá nhân.

          Theo Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An, nơi tự xưng là "Tịnh thất Bồng Lai" ở xã Hòa Khánh Tây, H.Đức Hòa, tỉnh Long An không phải là tự viện hợp pháp và không do Ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Long An quản lý.

          Những người đang sống và sinh hoạt tại đây không phải là tu sĩ Phật giáo và có dấu hiệu lợi dụng hình thức tu sĩ Phật giáo để kêu gọi lòng tốt của của tín đồ Phật giáo.

          Hòa Thượng Thích Minh Thiện, Trưởng Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An khẳng định: "Đây là không phải là một cơ sở của Phật giáo mà chỉ mượn danh xưng là cơ sở Phật giáo. Lợi dụng hình thức tu sĩ phật giáo, lợi dụng hình thức cơ sở của giáo hội, lợi dụng hình thức nuôi những người cơ nhỡ làm từ thiện để trục lợi cho mình. Đó là vi phạm về pháp luật, ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức phật giáo thế giới và gần nhất là tổ chức phật giáo của nước nhà".

          Lãnh đạo xã Hòa Khánh Tây, huyện Đức Hòa cho biết, hiện trong tư thất Bồng Lai có gần 30 người đăng ký thường trú, tạm trú. Chủ hộ là bà Cao Thị Cúc, 60 tuổi. Chủ trì tại nơi tự xưng là "Tịnh thất Bồng Lai" này là ông Lê Tùng Vân, người tự xưng là Hòa Thượng, nhưng theo các cơ quan chức năng tỉnh Long An, đây chỉ là hình thức giả sư.

          Đại diện Sở Nội vụ tỉnh Long An cho biết: "Trường hợp hộ bà Cao Thị Cúc chỉ là hộ gia đình, nhà ở, không phải là cơ sở thờ tự tôn giáo. Việc ông Lê Tùng Vân nói mình là hòa thượng là tự phong, không được GHPGVN và cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận".

          Những video clip được tung lên các trang mạng xã hội cho thấy, mặc dù chưa bao giờ xuất gia, nhưng ông Lê Tùng Vân, luôn mạo xưng mình là "Thầy ông Nội" hay Thầy Thích Tâm Đức. Tự cạo đầu trọc, mặc lễ phục, pháp phục, làm lễ phục xuất gia cho người khác, nhận Phật tử làm tín đồ và tự xưng "Tịnh thất Bồng Lai" là chùa.

          Tuy nhiên, khi Đoàn kiểm tra liên ngành của huyện Đức Hòa đến kiểm tra việc chấp hành các quy định về tín ngưỡng, tôn giáo, ông Lê Tùng Vân lại giải thích trái ngược hẳn với những tuyên bố thường ngày: "Ai muốn đến đây, kể cả chính quyền đều phải bấm chuông và gõ cửa, chứ không phải đi vô nói đây là chùa. Xin lỗi chuyện đó không có. Ở đây không phải là chùa".

          Do bị cộng đồng Phật giáo, báo chí, truyền thông, mạng xã hội, phản ứng gay gắt nên Lê Tùng Vân đổi tên "Tịnh Thất Bồng Lai" thành "Thiền am bên bờ vũ trụ".

          Lấy danh nghĩa "trẻ mồ côi" kêu gọi từ thiện nhưng hóa ra là... con cháu ruột.

          Nhiều năm qua, "Tịnh Thất Bồng Lai" lợi dụng Phật giáo và danh nghĩa nuôi trẻ mồ côi đã có những thủ đoạn để tạo dựng niềm tin trong nhân dân, trục lợi tiền từ thiện.

          Theo cơ quan công an, từ năm 1990 đến năm 2007, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh, ông Lê Tùng Vân đã tạo lập cơ sở tự lấy tên là Trại dưỡng lão - Cô nhi Thánh Đức, lợi dụng danh nghĩa nuôi trẻ mồ côi để kêu gọi và tiếp nhận tiền từ thiện. Đến năm 2007 thì bị xử lý và chấm dứt hoạt động.

          Thủ đoạn này, ông Lê Tùng Vân lại tiếp tục tại "Tịnh thất Bồng Lai", tỉnh Long An từ năm 2015 đến nay, nhưng với mức độ tinh vi hơn do tận dụng mạng xã hội để quảng cáo, kêu gọi tài trợ.

          Cơ quan chức năng địa phương cho biết, những đứa trẻ đang được nuôi dưỡng tại đây không phải là trẻ mồ côi và phần lớn đều có quan hệ huyết thống với ông Lê Tùng Vân.

          "Tịnh thất Bồng Lai" liên tục cho những em nhỏ được nuôi dưỡng tại đây đi tham gia các cuộc thi thi hát Bolero, "Thách thức danh hài"… Tất cả đều giới thiệu là trẻ mồ côi đến từ "Tịnh thất Bồng Lai". Mục đích không gì khác là để gây chú ý, quảng bá hình ảnh. Bằng cách này "Tịnh thất Bồng Lai" trở thành điểm lui tới của nhiều cá nhân, tổ chức từ thiện và những tấm lòng vàng trong, ngoài nước gửi quà tặng, tiền hỗ trợ.

          Hòa Thượng Thích Minh Thiện nhấn mạnh: "Tự thân những nhà tu học đã không được tổ chức ca hát. Không có lý do nào mà một người tu hành đàng hoàng cho những đứa nhỏ thi danh hài hoàn toàn không đúng Phật giáo và Phật giáo cấm điều đó".

          Sau khi xuất hiện nhiều thông tin về hoạt động lợi dụng Phật giáo và danh nghĩa nuôi trẻ mồ côi để trục lợi của Tịnh Thất Bồng Lai, ông Lê Hồng Dũng, có chị ruột là vợ của ông Lê Tùng Vân cũng đã đăng đàn tố cáo, vạch trần sự thật.

          Ông Dũng nói: "Tôi quyết đưa ra chính quyền để mọi người biết "Tịnh thất Bồng Lai" này là lừa đảo từ xưa đến nay, chứ không phải mới đây. Tịnh thất này lừa gạt về mọi mặt về tinh thần, vật chất, tiền bạc... Thậm chí lấy mẹ tôi ra làm con mồi. Kêu mẹ tôi đem tiền lên cho chị Hai tôi là vợ ổng".

          Bà Lê Thị Tuyết là người được ông Lê Tùng Vân mời về dạy những đứa trẻ sống tại Thánh Đức, huyện Bình Chánh, TP Hồ Chí Minh năm 2006. Trong thời gian sống ở đây, bà từng chứng kiến nhiều việc làm sai trái của Lê Tùng Vân và nay, bà cũng đã quyết định tố cáo.

          Bà Tuyết cho biết: "Tôi đưa đơn tố cáo ông Lê Tùng Vân với nội dung "hiếp dâm trẻ" và "hành hung trẻ cô nhi". Tập đoàn ông Lê Tùng Vân là một bầy sư sãi giả mạo, lưu manh, dâm dục, lừa đảo. Đây là câu chuyện có thật. Tôi là người thật việc thật và tôi có trách nhiệm nói ra sự thật

          Để ổn định tình hình xã hội, Chủ tịch UBND tỉnh Long An đã chỉ đạo các ngành, các cấp vận động di dời số tượng Phật về cơ sở tôn giáo hợp pháp tại huyện Đức Hòa và yêu cầu cơ sở tự xưng "Tịnh Thất Bồng Lai" không được tụ tập đông người, tổ chức hoạt động tôn giáo trái pháp luật. Các cơ quan chức năng phải điều tra làm rõ mục đích, động cơ tổ chức hoạt động tôn giáo, nuôi dưỡng trẻ em của tổ chức này để xử lý theo quy định của pháp luật.

          "Tịnh Thất Bồng Lai" là cơ sở mạo danh, lợi dụng lòng tốt của các nhà từ thiện, làm xấu đi hình ảnh của các tổ chức tôn giáo.

          Pháp luật nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng. Tuy nhiên, hoạt động tôn giáo có tổ chức thành nơi tu hành tập trung dưới hình thức tự viện phật giáo phải tuân thủ quy định pháp luật. Phải được cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo tập trung theo Luật tín ngưỡng, tôn giáo. Đồng thời, phải được sự đồng ý, tuân theo sự quản lý của Ban trị sự giáo hội phật giáo địa phương.

          Việc tổ chức cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo không tuân thủ các quy định pháp luật, lợi dụng quyên tiền từ thiện sinh hoạt tôn giáo, nuôi dưỡng trẻ em nhưng thực chất sử dụng số tiền trên không đúng mục đích sẽ bị coi là hành vi có dấu hiệu chiếm đoạt tài sản và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật./.

 

Lê Văn Thương - từ kẻ vô kỷ luật đến chống phá đất nước


          Thời gian gần đây, một số đối tượng vì bất mãn, hám lợi đã bị các phần tử xấu, các tổ chức phản động dụ dỗ, lôi kéo thực hiện những hành vi sai trái, chống phá đất nước.

          Mặc dù đã chạy trốn ra nước ngoài, trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật, nhưng các đối tượng này vẫn ngoan cố lợi dụng không gian mạng tán phát thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bôi nhọ chính quyền khiến dư luận hết sức bất bình.

Một trong số đó là Lê Văn Thương, kẻ vô kỷ luật, thoái hóa biến chất, hiện đang bị cơ quan công an truy nã với tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”.

 Đối tượng Lê Văn Thương.

          Lê Văn Thương (sinh năm 1988 tại Quảng Ngãi) từng có thời gian phục vụ trong quân ngũ, được quan tâm tạo điều kiện để phấn đấu trưởng thành, nhưng do không chịu rèn luyện, tu dưỡng, nhiều lần vi phạm kỷ luật. Mặc dù đã được động viên, giáo dục, Thương vẫn tính nào tật ấy, do đó đã bị kỷ luật và được giải quyết cho xuất ngũ.

          Thương được cho phục viên về quê mở xưởng mộc. Lẽ ra, nếu giữ gìn bản lĩnh và nhân cách, Thương có thể làm lại cuộc đời, sửa chữa sai lầm bởi xưởng mộc của Thương cũng khá đông khách. Nhưng Thương lại bị kích động, lôi kéo, bỏ trốn ra nước ngoài và lên mạng xuyên tạc, nói xấu Đảng, Nhà nước, quân đội.
          Với giọng điệu ngông cuồng của kẻ thoái hóa biết chất, Lê Văn Thương còn tuyên bố thành lập lực lượng hòng thay đổi chế độ ở Việt Nam. Mặc dù chỉ được ở trong quân ngũ thời gian ngắn, nhưng Lê Văn Thương đã ảo tưởng tuyên bố có thể chỉ huy những đội quân lớn, có thể làm thay đổi tình hình đất nước.

          Trước những hoạt động chống phá đất nước, Lê Văn Thương đã bị khởi tố về hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân, đồng thời đã bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra-Công an tỉnh Quảng Ngãi phát lệnh truy nã sau khi bỏ trốn khỏi địa phương vào năm 2018. Các cơ quan chức năng đã nhiều lần có văn bản gửi gia đình, vận động, kêu gọi Thương ra đầu thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

          Sau khi bỏ trốn ra nước ngoài, Lê Văn Thương tiếp tục lún sâu vào con đường tội lỗi khi núp bóng các thế lực phản động chống phá Đảng, Nhà nước ta. Để được các thế lực ngoại bang sử dụng và có tiền sinh sống, Lê Văn Thương đã tạo lập các tài khoản trên không gian mạng để xuyên tạc, nói xấu tình hình đất nước. Trên tài khoản facebook cá nhân và tài khoản youtube “Tiếng nói Dân chủ Việt”, Lê Văn Thương đã công khai bộc lộ là một kẻ phản bội khi liên tục phát tán những thông tin sai trái, bịa đặt.

          Chính Lê Văn Thương đã tự bôi xấu bản thân, làm ảnh hưởng đến những người thân và tự chọn con đường quay lưng lại với trở về quê hương mà một số kẻ đã sai lầm mắc phải trước đây. Nhiều đồng đội đau xót cho Thương chỉ vì thiếu bản lĩnh mà sa ngã. Đó là bài học đắt giá về việc rèn luyện, giữ gìn phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ. Nếu không tu dưỡng, rèn luyện có thể sa ngã, thậm chí từ tự diễn biến tự chuyển hóa chuyển rất nhanh sang tiếp tay cho thế lực thù địch.

 

Làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”: Tỉnh táo trước các luận điệu “mê hoặc" dư luận về biên giới, lãnh thổ


          Cần kiên trì vạch trần, phản bác và bác bỏ các luận điệu sai trái biên giới, lãnh thổ.

          Trong cuộc trả lời phỏng vấn Báo Quân đội nhân dân mới đây, TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, cho rằng chủ quyền lãnh thổ, biên giới quốc gia là vấn đề nhạy cảm nên thường bị các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng nhằm phá hoại sự ổn định về chính trị-xã hội ở Việt Nam. Bởi vậy, cần kiên trì vạch trần, phản bác và bác bỏ các luận điệu sai trái về vấn đề này. 

          Phóng viên (PV): Từng nhiều năm làm việc liên quan đến vấn đề biên giới, lãnh thổ và đã tham gia các cuộc đàm phán hoạch định biên giới trên đất liền, đề nghị ông cho biết những thành quả mà Việt Nam đã đạt được trên lĩnh vực này?

          TS Trần Công Trục: Đến nay, việc giải quyết vấn đề biên giới đất liền giữa Việt Nam với 3 nước láng giềng có chung đường biên giới là Lào, Trung Quốc và Campuchia thu được những thành quả rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa về chính trị trong quan hệ quốc tế hiện nay mà còn có giá trị pháp lý, kinh tế, quốc phòng, an ninh của quốc gia.

          Quá trình này được triển khai theo nguyên tắc pháp lý mà các bên đã thỏa thuận dùng làm căn cứ duy nhất để xử lý tất cả nội dung cần thực hiện trong các giai đoạn: Hoạch định biên giới, phân giới cắm mốc và quản lý biên giới, mốc quốc giới mới.

          Về giải quyết vấn đề biên giới đất liền với Trung Quốc: Tháng 12-1999, Việt Nam và Trung Quốc chính thức ký Hiệp ước hoạch định biên giới, được Quốc hội hai nước phê chuẩn trong năm 2000.

          Dựa vào hiệp ước này, từ tháng 12-2001, hai bên tiến hành phân giới, cắm mốc và đến cuối năm 2008, công tác phân giới, cắm mốc cơ bản hoàn thành.

          Kết quả, chiều dài biên giới chính xác là 1.449,566km, trong đó có 383,914km đường biên giới đi theo sông, suối, cắm được 1.970 cột mốc, trong đó có 1.548 cột mốc chính, 422 cột mốc phụ.

          Sau khi hoàn thành việc phân giới, cắm mốc biên giới đất liền, để hợp tác bảo vệ, quản lý biên giới và mốc quốc giới, năm 2009, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định quản lý biên giới đất liền Việt Nam-Trung Quốc và Hiệp định về cửa khẩu và quy chế quản lý cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc; năm 2015, hai bên chính thức ký kết Hiệp định tàu thuyền đi lại tự do ở cửa sông Bắc Luân và Hiệp định hợp tác, khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch thác Bản Giốc.

          Về giải quyết vấn đề biên giới đất liền với Campuchia: Ngày 27-12-1985, hai bên ký chính thức Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa Việt Nam và   Campuchia. Ngày 10-10-2005, hai bên ký chính thức Hiệp ước giữa Việt Nam và Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985.

Ngày 5-10-2019, tại Hà Nội, hai bên ký chính thức hai văn kiện nhằm ghi nhận khoảng 84% thành quả phân giới, cắm mốc biên giới trên đất liền.

          Như vậy, sau hơn 36 năm đàm phán, hai nước đã có khoảng 84% chiều dài đường biên giới được phân giới, cắm mốc và được ghi nhận rõ ràng trên hồ sơ pháp lý cũng như trên thực địa với một hệ thống mốc biên giới khang trang, chính quy, hiện đại và bền vững.

Lãnh thổ, biên giới quốc gia đã trở thành vấn đề thiêng liêng, rất nhạy cảm và luôn được quan tâm đặc biệt bởi mọi tầng lớp nhân dân. Ảnh minh họa:Tạp chí Cộng sản

          Về giải quyết vấn đề biên giới đất liền Việt Nam-Lào: Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Việt Nam và Lào đã được ký kết ngày 18-7-1977.

          Đến tháng 6-1981, hai bên đã phân giới trên thực địa và cắm mốc xong 95% đường biên giới Việt Nam-Lào. Ngày 16-10-1987, hai bên đã ký Nghị định thư bổ sung ghi nhận toàn bộ kết quả công tác phân giới, cắm mốc theo Hiệp ước bổ sung, kèm theo toàn bộ các văn bản pháp lý của quá trình này, kết thúc quá trình phân giới, cắm mốc toàn bộ đường biên giới Việt Nam-Lào.

          Từ tháng 5-2008, hai nước chính thức triển khai Kế hoạch tổng thể thực hiện công tác tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới Việt Nam-Lào nhằm mục đích hoàn thiện hệ thống mốc quốc giới giữa hai nước theo hướng chính xác, hiện đại, bền vững và thống nhất trên toàn tuyến biên giới, trong đó ưu tiên cắm mốc ở khu vực có cửa khẩu và khu vực có đường giao thông thuận lợi đi qua nhằm tăng cường hợp tác, giao lưu phát triển kinh tế và ổn định trật tự an toàn xã hội vùng biên giới....

          Có được thành quả nói trên, yếu tố tiên quyết là Việt Nam đã cùng với các quốc gia láng giềng giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ hoàn toàn dựa theo các nguyên tắc hiện hành và phổ biến của luật pháp và thực tiễn quốc tế, theo phương thức đàm phán hòa bình đã được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc.

          PV: Vậy tại sao vẫn có những người thường xuyên đưa ra những “phán xét” nhằm phủ nhận hoặc cố tình làm sai lệch những thành quả ấy?

          TS Trần Công Trục: Giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh thổ giữa các quốc gia là vấn đề cực kỳ phức tạp, phụ thuộc vào quá trình hình thành các quốc gia theo sự biến động không ngừng của luật pháp và tập quán quốc tế, qua các giai đoạn phát triển của lịch sử nhân loại.

          Lãnh thổ, biên giới quốc gia đã trở thành vấn đề thiêng liêng, rất nhạy cảm và luôn được quan tâm đặc biệt bởi mọi tầng lớp nhân dân. Vì vậy, đây là một trong những nội dung thường được các thế lực thù địch khai thác, lợi dụng nhằm rắp tâm phá hoại sự ổn định về chính trị-xã hội ở Việt Nam.

          Các đối tượng này đã và đang sử dụng nhiều hình thức và thủ thuật rất tinh vi, xảo hoạt, cố tình tung ra những thông tin và những tư liệu lịch sử, kỹ thuật không có tính pháp lý để "mê hoặc" và đánh lừa dư luận.

          Cũng cần nói thêm rằng, muốn giải quyết được vấn đề biên giới, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đòi hỏi phải kiên trì, bền bỉ và dựa trên tinh thần hết sức cầu thị, cái gì đúng thì chúng ta kiên quyết bảo vệ; cái gì sai chúng ta phải điều chỉnh.

          Có như vậy đàm phán mới có kết quả, nguyên tắc pháp lý mới được tôn trọng. Thực tế cho thấy, đại đa số người dân cũng như công luận quốc tế, khu vực và ngay cả các quốc gia láng giềng tham gia đàm phán với chúng ta đều hoan nghênh thái độ cầu thị này.

          Cá nhân tôi mong muốn thông qua quá trình trao đổi, đối thoại để thu hẹp khoảng cách trong nhận thức xã hội về vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia, tạo nên sự đồng thuận, củng cố sức mạnh đại đoàn kết dân tộc và sự đồng lòng, giúp sức của người dân, bạn bè quốc tế trong công cuộc bảo vệ chủ quyền và các quyền hợp pháp của quốc gia, dân tộc.

          PV: Nhắc đến bảo vệ chủ quyền, biên giới quốc gia không thể không nhắc tới vai trò của người dân, đặc biệt là người dân ở khu vực giáp biên. Theo ông, vai trò đó cần được phát huy bằng cách nào?

          TS Trần Công Trục: Muốn bảo vệ, quản lý biên giới hiệu quả và vững bền thì phải dựa vào dân, lấy nhân dân làm trung tâm trong phát triển kinh tế, ổn định chính trị-xã hội ở biên cương. Vì vậy, phải ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, văn hóa, xã hội nơi vùng cao, biên giới. Đó cũng là một trong những chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam.

          Bên cạnh đó, để phát huy vai trò của người dân trong bảo vệ, quản lý biên giới không thể chỉ dừng lại ở những chỉ thị, nghị quyết mà điều cốt lõi là phải bằng những việc làm cụ thể, thiết thực, thông qua các kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội thực tế và khả thi. Trước hết, cần phải đổi mới nhận thức và thay đổi tư duy về công tác quản lý biên giới sao cho phù hợp với những biến đổi về kinh tế-xã hội và quan hệ chính trị quốc tế hiện nay.

          Cùng với sự phát triển của quan hệ quốc tế trong kỷ nguyên hội nhập, hợp tác, phát triển vì lợi ích chung của nhân loại, việc bảo vệ, quản lý biên giới cũng đã có chuyển biến mới về tư duy và phương thức hành xử trên thực tế.

          Một mặt phải có chính sách khuyến khích người dân ra sinh sống, phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh, củng cố chính hệ thống chính trị ở khu vực biên giới một cách ổn định, bền vững, lâu dài; mặt khác cũng cần tỉnh táo, cảnh giác với chiến lược “sức mạnh mềm”, “biên giới mềm” đã và đang triển khai dưới nhiều hình thức khác nhau.

          PV: Hiện nay, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều thông tin, ý kiến mang tính quy chụp, sai lệch và đi ngược với quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Ông nghĩ sao về vấn đề này?

          TS Trần Công Trục: Đúng là hiện nay, trên mạng xã hội vẫn còn những ý kiến băn khoăn, thậm chí phủ nhận hoặc cố tình xuyên tạc những thành quả của quá trình giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ giữa Việt Nam với các nước láng giềng.

          Đối tượng đưa ra những ý kiến kiểu này có thể được chia thành 3 nhóm: Các thế lực phản động, chống phá, âm mưu lật đổ Đảng và Nhà nước Việt Nam; các phần tử cơ hội chính trị thường dùng thủ đoạn bôi nhọ hòng hạ thấp vai trò, uy tín của một số lãnh đạo Đảng và Nhà nước; cán bộ, nhân dân xuất phát từ động cơ luôn quan tâm và đau đáu với vấn đề lãnh thổ, biên giới quốc gia, song lại thiếu thông tin và bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các thông tin sai lệch đang lan tràn trên các trang mạng xã hội.

          Đáng chú ý, nhóm đối tượng thứ nhất và thứ hai đang lợi dụng tính phức tạp, nhạy cảm của vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia để phục vụ cho mục đích chính trị đen tối.

          Thường thì các đối tượng này sử dụng vấn đề biên giới, lãnh thổ, cùng với vấn đề tôn giáo, sắc tộc, nhân quyền để kích động, lôi kéo công chúng nhằm mục đích chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ lãnh đạo Đảng, Nhà nước với nhân dân, chia rẽ mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng, từ đó tạo nên môi trường xã hội, chính trị bất ổn để dễ bề thực hiện mưu đồ chính trị của mình.

          Với nhóm đối tượng này, chúng ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác, có biện pháp ngăn chặn và vạch trần những sai trái trong các luận điệu của họ, nhất là những luận điệu núp dưới hình thức là những thông tin, công trình nghiên cứu khoa học, kỹ thuật...

          Các cơ quan truyền thông và các cơ quan chức năng cũng cần phải đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền, cung cấp một cách công khai, minh bạch những thông tin có liên quan đến quá trình giải quyết vấn đề biên giới, lãnh thổ quốc gia; kịp thời phản biện, ngăn chặn những thông tin giả...

          Đồng thời, mỗi người dân phải luôn tỉnh táo, không để dễ dàng bị "mê hoặc" bởi những luận điệu xuyên tạc như đã nói ở trên.

          PV: Trân trọng cảm ơn ông!