Trọn cuộc đời Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu, hy sinh vì những mục tiêu, giá trị cao cả của
dân tộc và nhân loại, trong đó đặc biệt là khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa kiệt xuất; Người đã hiến dâng
trọn đời mình để tranh đấu giành lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc Việt
Nam.
Trọn cuộc đời Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nỗ lực phấn đấu, hy sinh vì những mục tiêu, giá trị cao cả của
dân tộc và nhân loại, trong đó đặc biệt là khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc.
Tại Hội thảo khoa học:
“Chủ tịch Hồ Chí Minh với khát vọng độc lập - tự do - hạnh phúc” do Viện Hồ Chí
Minh và các lãnh tụ của Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) phối hợp
Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch tổ chức nhân kỷ niệm 76 năm
Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, cuộc đời cách mạng phong phú, cao đẹp và
những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với công cuộc giải phóng,
chấn hưng và phát triển dân tộc Việt Nam, một lần nữa được sáng tỏ, lan tỏa tới
từng người dân Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh cả nước chung sức đồng lòng chống
dịch COVID-19.
Lựa chọn con đường
cách mạng đúng đắn
Theo Phó Giáo sư, Tiến
sỹ Trần Minh Trưởng (Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng), trên hành trình
tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Người đã tìm thấy
con đường cách mạng có thể giành thắng lợi, đem đến độc lập dân tộc, tự do, hạnh
phúc của nhân dân, đó là con đường cách mạng vô sản. Sự lựa chọn con đường cách
mạng Việt Nam độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Chủ tịch Hồ Chí Minh có
cơ sở xuất phát từ điều kiện lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ sự thay
đổi tiến trình phát triển của lịch sử thế giới và thời đại, vào năm 1917, thắng
lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã làm rung chuyển thế giới, đồng thời mở ra
thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nhận thức được sự thay
đổi mang tính bước ngoặt này, Hồ Chí Minh đã khẳng định tất cả các loại hình
cách mạng, kể cả loại hình dân chủ tư sản do giai cấp tư sản lãnh đạo đều không
phù hợp với thực tiễn của thời đại.
Hồ Chí Minh dành nhiều
công sức nghiên cứu về các cuộc cách mạng của tư sản Anh, Pháp, Mỹ, đặc biệt là
cuộc cách mạng tháng Mười Nga do Lênin lãnh đạo. Người rút ra kết luận, chỉ có
cách mạng tháng Mười Nga là thành công đến nơi, bài học từ cuộc cách mạng này
là muốn cách mạng thành công phải lấy dân chúng làm gốc.
Hồ Chí Minh khẳng định,
muốn cứu nước, cứu dân tộc, không có con đường nào khác là con đường cách mạng
vô sản, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Đồng thời, Hồ Chí
Minh đã khái quát những vấn đề có tính quy luật về cách mạng giải phóng dân tộc.
Người nêu rõ, trong thời đại ngày nay, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ
phận khăng khít của cách mạng vô sản trong phạm vi toàn thế giới.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Trần Minh Trưởng đánh giá, trên cơ sở lý luận, thực tiễn thế giới và Việt Nam,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản cho cách mạng
Việt Nam.
Sự lựa chọn con đường
cách mạng đó của Người đã đáp ứng hai yêu cầu cơ bản của cách mạng Việt Nam là
giải phóng dân tộc khỏi tay các nước thực dân phong kiến, giành lại quyền độc lập
dân tộc, tự do cho nhân dân và sự lựa chọn con đường bảo vệ, xây dựng và phát
triển đất nước phù hợp với xu thế đi lên của thời đại mới, thời đại quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Trần Minh Trưởng cho rằng, đối với nước ta, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là lựa chọn đúng đắn, khoa học, hợp với quy luật phát triển của
dân tộc và thời đại, là lý tưởng, mục tiêu, ngọn cờ hành động của cách mạng Việt
Nam.
Thực tiễn vận động
và phát triển của cách mạng Việt Nam sau năm 1930 cho thấy sự lựa chọn con đường
cách mạng vô sản theo cách mạng Tháng Mười Nga, gắn liền độc lập dân tộc với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn sáng suốt, duy nhất, đúng đắn, gắn liền với vai trò
to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người tìm đường, mở đường, người dẫn đường cho
dân tộc Việt Nam kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là sợi
chỉ đỏ xuyên suốt, là đường lối chiến lược nhất quán của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Mục tiêu và con đường
đó đã được khẳng định trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam năm
1930 và tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bổ sung và phát triển năm 2011.
Đây là bài học lớn,
xuyên suốt quá trình cách mạng Việt Nam trong hơn 90 năm qua, được ghi vào văn
kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII. Con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh, do Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta lựa chọn vừa
là nguồn cội dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc và cũng là nguồn cội thắng lợi trong công cuộc đổi mới
hiện nay.
Khát vọng tự do, hạnh
phúc cho nhân dân
Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh khẳng định, với
Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền độc lập dân tộc phải gắn với tự do, hạnh phúc cho mọi
người dân. Đây chính là tiêu chí căn cốt, thước đo giá trị của độc lập dân tộc,
tác động trở lại việc củng cố, bảo vệ độc lập dân tộc.
Chính vì vậy, ngay
sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo kiến
tạo chính thể dân chủ cộng hòa, xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân ở
Việt Nam, để mưu cầu tự do và hạnh phúc cho nhân dân.
Người nêu rõ: “Chúng ta tranh được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân
chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.”
Khát vọng độc lập, tự
do, hạnh phúc không chỉ được thể hiện trong ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành,” mà còn từng bước
được thể hiện trong đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân: “Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển
và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu
thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Chính sách kinh tế của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hoà là không ngừng phát triển sản xuất để nâng cao mãi đời sống vật chất và văn
hóa của nhân dân.”
Từ khát vọng đem lại
độc lập, tự do và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người dân, mà không phải chỉ
dành riêng cho một nhóm người nào trong xã hội, sau khi nước nhà giành lại nền
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bởi theo quan điểm của
Người, “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”; “Là mọi người được
ăn no mặc ấm, sung sướng, tự do”... Xây dựng chủ nghĩa xã hội “là một sự nghiệp
vĩ đại nhất trong lịch sử loài người,” nhưng đây cũng là “cuộc chiến đấu khổng
lồ,” cho nên Người chỉ dẫn Đảng phải huy động sức mạnh của toàn dân, trong bất
cứ hoàn cảnh nào cũng phải luôn quan tâm và có kế hoạch phát triển kinh tế, văn
hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
“Để thực hiện khát vọng
cao đẹp đó, theo Người, mỗi cán bộ, đảng viên và toàn dân phải có quyết tâm, đồng
tâm và tín tâm. Trong đó, trước hết, Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị các cấp
cần phát huy tốt vai trò lãnh đạo hoạch định, chỉ đạo và tổ chức thực thi đường
lối, chính sách; phải thực hiện nghiêm túc và đầy đủ phương châm: việc gì có lợi
cho dân dù nhỏ cũng phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng phải hết
sức tránh.
Đồng thời, phải huy
động sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp xây dựng đất nước với phương châm đem
tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân.
Đảng phải dựa vào lực
lượng toàn dân để tổ chức, động viên, phát huy được sức mạnh vĩ đại của toàn
dân. Sự gặp gỡ giữa ý Đảng, lòng dân là cội nguồn của sức mạnh đoàn kết, là
nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng,” Phó Giáo sư, Tiến sỹ
Lê Văn Lợi nêu rõ.
Theo Phó Giáo sư, Tiến
sỹ Lê Văn Lợi, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập - tự do - hạnh
phúc đã trở thành nguồn động lực, sức mạnh vô cùng to lớn thúc đẩy nhân dân Việt
Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Thực hiện di nguyện
của Người: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết
phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”, nhân dân Việt
Nam đã đoàn kết, đồng lòng làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, thống nhất đất nước (1975). Từ đây, nhân dân trên mọi miền Tổ quốc bắt
tay xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện ước vọng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh xây dựng đất nước phú cường.
Sau 35 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn
diện và có ý nghĩa lịch sử.
Đời sống nhân dân cả
về vật chất và tinh thần không ngừng được cải thiện và nâng cao, tình hình
chính trị và xã hội ổn định, quốc phòng - an ninh được đảm bảo, quan hệ đối ngoại
được mở rộng và vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Chưa bao giờ đất nước
có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đây chính là niềm
tự hào, là động lực quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân vượt qua mọi
khó khăn, thách thức, vững bước đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững trong
bối cảnh tình hình thế giới có những biến đổi nhanh chóng, rất phức tạp và khó
lường.
Kế thừa và phát triển
thành tựu của 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và nhấn mạnh
"khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc."
Đại hội nêu lên nhiệm
vụ: “Khơi dậy tinh thần và ý chí, quyết tâm phát triển đất nước phồn vinh, hạnh
phúc; dân tộc cường thịnh, trường tồn; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con
người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.”
Đồng thời, Đảng ta đề
ra mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2025 đưa nước ta trở thành một nước
đang phát triển, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, có công nghiệp theo hướng
hiện đại, đến năm 2030 trở thành một nước đang phát triển có mức thu nhập trung
bình cao, có công nghiệp hiện đại, đến năm 2045, trở thành một nước phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, “hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước
Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào năm 2045.”
Hiện nay, toàn Đảng,
toàn dân ta đang ra sức triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII của Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động học tập, làm theo tư tưởng,
đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, thực hiện các biện pháp quyết liệt để ngăn
chặn, đẩy lùi đại dịch COVID-19, bảo vệ sức khỏe của nhân dân.
Để hiện thực hóa
khát vọng của Người, toàn Đảng, toàn dân và quân ta cần tiếp tục phát huy cao độ
truyền thống yêu nước, đoàn kết, ý chí tự lực tự cường, tinh thần tương thân
tương ái của dân tộc, vượt qua những khó khăn, trở ngại, vững bước trên con đường
đổi mới và phát triển, vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét