Vào lúc nhiều nơi
trên thế giới vẫn bị bao phủ bởi chính trị cường quyền của chế độ phong kiến
chuyên chế, thực dân bạo ngược hay cộng hòa tư sản thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
giương cao ngọn cờ dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa. Nhà nước cách mạng Việt Nam
do Người sáng lập thể hiện đầy đủ diên cách và cốt cách của một thể chế dân chủ
hiện đại, dựa trên nguyên tắc pháp quyền, có sức hấp dẫn đối với nhân dân, huy
động, tập hợp và phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân bảo vệ thành quả cách mạng,
kiến thiết đất nước.
Chỉ một ngày sau khi
tuyên bố trước quốc dân về nền độc lập dân tộc, trong phiên họp đầu tiên của Hội
đồng Chính phủ lâm thời (ngày 3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu phải sớm
tổ chức cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu để hình thành một bộ
máy chính quyền được quyết định bằng ý
chí của nhân dân. Dù phải căng sức ứng phó với muôn vàn khó khăn, thách thức của
“giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta
đã tích cực, khẩn trương chuẩn bị và tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội (ngày 6-1-1946), thành lập Chính phủ chính thức, khẳng định tính chính
đáng, hợp pháp của chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Dưới sự chỉ đạo trực
tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ban soạn thảo Hiến pháp được thành lập, có nhiệm
vụ khẩn trương, tích cực xây dựng Hiến pháp, khẳng định chủ quyền của nhân dân
và thực hiện quản lý đất nước bằng Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp được Quốc
hội thông qua ngày 9-11-1946 đã thể chế hóa
các quan điểm, tư tưởng lập hiến, lập pháp của Đảng ta và Chủ tịch Hồ
Chí Minh. Lời nói đầu của Hiến pháp long trọng khẳng định: “Nhiệm vụ của dân tộc
ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và xây dựng
nước nhà trên nền tảng dân chủ”. Hiến pháp xác định các nguyên tắc cốt lõi là:
Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo; bảo
đảm các quyền tự do dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân.
Nguồn sáng của thể
chế dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa bắt nguồn từ tinh thần “Bảy xin hiến pháp
ban hành/ Trăm đều phải có thần linh pháp quyền” (“Việt Nam yêu cầu ca”) và tư
tưởng xây dựng một chính quyền của “dân chúng số nhiều” (“Đường Kách mệnh”) mà
Bác Hồ đã khởi xướng từ những tháng năm tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập
Đảng. Thể chế dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa trong buổi đầu khởi dựng Nhà nước
cách mạng Việt Nam chính là sự tiếp nối tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho
ta” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đặt trong bối cảnh
nhân dân ta còn khoảng 90% dân số mù chữ, cả dân tộc phải dồn sức chống thù
trong, giặc ngoài, mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi tạo xây dựng thể
chế dân chủ hiện đại, dựa trên nguyên tắc pháp quyền, thì đó quả là một tư tưởng
vượt lên hoàn cảnh, vượt trước thời đại. Thể chế dân chủ ấy được xây dựng dựa
trên niềm tin tuyệt đối của nhân dân đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh và vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, được nuôi dưỡng bởi giá trị văn hóa, sức mạnh
của con người Việt Nam vốn bị dồn nén trong thời kỳ thống trị của chủ nghĩa thực
dân và bùng lên mạnh mẽ khi có tự do, độc lập. Đó là một thể chế mà cách thức tổ
chức và vận hành là vì nhân dân; mỗi người dân đều ý thức được quyền của chính
mình nằm chung trong quyền của dân tộc, tham dự vào công việc quản lý nhà nước,
xây dựng chế độ mới bằng trách nhiệm cao cả, nghĩa vụ tự giác, tình cảm thiêng
liêng, thể hiện trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Chính quyền cách mạng
non trẻ được nuôi dưỡng bởi nguồn lực, sức mạnh của nhân dân, được cộng hưởng,
nhân lên gấp bội khi mỗi người tự ý thức bổn phận, trách nhiệm vì quốc gia độc
lập, vì dân tộc trường tồn. Tài chính khánh kiệt, ngân khố trống rỗng đã được
bù đắp nhanh chóng bằng nguồn lực đóng góp tự nguyện của nhân dân thông qua “Tuần
lễ vàng”. Thể chế dân chủ khiến các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực trong nhân
dân được khơi thông, phát huy cao độ để phục vụ cho công cuộc kháng chiến và kiến
quốc, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
tha thiết kêu gọi đồng bào ai có tài năng và sáng kiến, lại sẵn lòng hăng hái
giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ và Chính phủ sẽ
nghiên cứu kỹ càng, nếu thực hiện được thì cho triển khai ngay. Trong một bài
viết đăng trên báo Cứu quốc số ra ngày 14-11-1945, Người khẳng định: “Kiến thiết
cần có nhân tài”. Một năm sau, Người gửi thông điệp tìm người hiền tài đến khắp
mọi vùng miền, địa phương: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải
có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E
vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bực tài đức không
thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận”. Người yêu cầu các địa phương
phải điều tra, báo cáo ngay cho Chính phủ biết những nhân tài chưa được trọng dụng
(tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở), hạn một tháng phải báo
cáo đầy đủ. Với tinh thần dân chủ và trọng dụng hiền tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã quy tụ được đông đảo nhân sĩ, trí thức, người hiền tài phục vụ công cuộc
kháng chiến và kiến quốc, xây dựng một Chính phủ đoàn kết, hạn chế âm mưu chia
rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực ngoại bang và phản quốc.
Chính phủ lâm thời
sau khi thành lập trải qua nhiều lần cải tổ thành chính phủ liên hiệp, tập hợp
đông đảo nhân sĩ, trí thức không đảng phái, lực lượng trung gian để xây dựng
chính phủ đoàn kết dân tộc. Dân chủ trong hoạt động của Quốc hội, của Chính phủ
đầu tiên giúp cho đội ngũ cán bộ được dịp khẳng định bản lĩnh chính trị, bộc lộ
trí tuệ, tài năng, đạo đức trước nhân dân. Dân chủ trong tranh luận những vấn đề
quốc gia đại sự, liên quan đến tồn vong của quốc gia - dân tộc, với bản lĩnh,
trí tuệ và thực tiễn dày dạn, những người cộng sản đã xác lập và khẳng định vai
trò lãnh đạo bằng khả năng dẫn dắt, sức thuyết phục, đặc biệt là vai trò, uy
tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Không ít người không đảng phái, lực lượng trung
gian từ chỗ còn hoài nghi, nhưng qua tranh luận, qua khả năng giải quyết thuyết
phục những bài toán hóc búa mà thực tiễn đặt ra lúc bấy giờ, đã từng bước tin
tưởng, nể phục, thừa nhận vai trò lãnh đạo của những người cộng sản. Với phong
cách dân chủ, những người cộng sản thực hiện vai trò lãnh đạo, trách nhiệm cầm
quyền một cách đầy thuyết phục, không chỉ cảm hóa, tập hợp, cuốn hút những người
yêu nước chân chính tin và đi theo, mà còn hạn chế sự chống phá của các lực lượng
chính trị thân Tưởng (Việt Quốc, Việt Cách).
Trong những ngày đầu
cách mạng, dù vẫn phải điều hành đất nước bằng sắc lệnh, chưa có điều kiện xây
dựng các đạo luật, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao nguyên tắc pháp quyền
nhân nghĩa trong quản trị nhà nước, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
nghiêm trị mọi hành vi đi ngược lại bản chất của Nhà nước cách mạng, xâm phạm đến
lợi ích Tổ quốc, lợi ích nhân dân. Ngày 23-11-1945, Người đã ký Sắc lệnh thành
lập Ban Thanh tra đặc biệt và giao trọng trách cho những người có uy tín, đạo đức,
công tâm để nghiên cứu, xem xét, giải quyết đơn thư của nhân dân, giám sát cơ
quan chính quyền các cấp, xử lý nghiêm các sai phạm. Quốc lệnh do Người ký ngày
26-1-1946 xác định: “Trong một nước thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới
yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công”, quy định rõ 10
trường hợp thưởng và 10 trường hợp phạt. Nguyên tắc pháp quyền nhân nghĩa đã
góp phần bảo vệ kỷ cương, phép nước, phát huy quyền dân chủ của nhân dân, trấn
áp mọi hành động đi ngược lại lợi ích dân tộc, lợi ích nhân dân, bảo vệ vững chắc
thành quả cách mạng.
Nguyên tắc pháp quyền
nhân nghĩa thể hiện rõ ở từng điều khoản của Hiến pháp năm 1946 với chế định tất
cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Cùng với bảo đảm
quyền dân chủ đại diện thông qua nghị viện nhân dân, Hiến pháp còn quy định cụ
thể những quyền dân chủ trực tiếp, như “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến
pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” (Điều 21); “Nghị viện nhân
dân do công dân Việt Nam bầu ra” (Điều 24); “Nghị viện họp công khai, công
chúng được vào nghe” (Điều 30)… Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam,
các quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp. Mô hình tổ
chức và cơ chế vận hành của Nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 bảo đảm kiểm soát
quyền lực nhà nước, thực hiện chủ quyền của nhân dân, phát huy dân chủ rộng
rãi, bảo vệ các nguyên tắc pháp quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã sáng tạo nên tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa làm nền tảng cho xây dựng và thực
thi pháp luật dựa trên đạo lý, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân. Khác với
hiến pháp và pháp luật các nước tư bản phục vụ cho sự cai trị của giai cấp tư sản,
Hiến pháp và pháp luật trong chế độ ta là vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, trấn áp mọi hành vi xâm phạm lợi ích Tổ quốc,
lợi ích chính đáng của toàn thể nhân dân. Thời gian đầu vận hành của Nhà nước
cách mạng vẫn còn những ý kiến khác nhau về xử lý mối quan hệ giữa chính trị và
chuyên môn, hành chính và tư pháp, nhất là giữa những người được đào tạo dưới
chế độ cũ với cán bộ trưởng thành từ thực tiễn cách mạng… Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã giải tỏa khúc mắc về những mối quan hệ trên bằng những lý giải thấu tình, đạt
lý với việc phân tách “ba tư cách” của người cán bộ tư pháp: Là bậc trí thức,
phải hy sinh đấu tranh, dũng cảm hơn nữa, để làm gương cho dân; là viên chức của
Nhà nước, phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ; là người phụ
trách thi hành pháp luật, phải nêu cao tấm gương “phụng công thủ pháp, chí công
vô tư” cho nhân dân noi theo. Nói cách khác, theo Người, phải ứng xử với các vấn
đề pháp lý bằng đạo lý vì nước, vì dân; người làm công tác bảo vệ công lý phải
tự mình làm gương cho dân, phải đề cao liêm chính tư pháp. Người căn dặn cán bộ
tư pháp xử án phải công tâm, liêm khiết, trong sạch; nhưng như thế chưa đủ, mà
phải biết gần dân, giúp dân, hiểu dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết,
thêm công bằng. Đó chính là pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh.
Với những giá trị vượt
thời đại, thể chế dân chủ và pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh đã được Đảng ta
kế thừa, vận dụng, phát triển, tiếp tục soi sáng công cuộc hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét