Trong một bài hồi tưởng về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đồng chí Việt Phương kể lại một câu chuyện sau đây:
Vào
một buổi sáng của năm 196… nào đó, Bác Hồ đi từ ngôi nhà sàn của Người sang Phủ
Thủ tướng tìm đồng chí Phạm Văn Đồng để trao đổi về một vấn đề quan trọng. Lúc
đó, đồng chí Phạm Văn Đồng đang làm việc tại Văn phòng, tuy cũng nằm trong khu
Phủ Chủ tịch nhưng cách xa Phủ Thủ tướng tới vài trăm mét. Một đồng chí bảo vệ
vội vã đạp xe ra báo với Thủ tướng. Vội quá, Thủ tướng dùng ngay chiếc xe đạp
của đồng chí bảo vệ phóng về gặp Bác. Đồng chí bảo vệ không thể để Thủ tướng
rời xa mình, mà lại không có thời gian tìm chiếc xe đạp khác, nên anh đành lập
tức chạy bộ theo sau Thủ tướng. Bác Hồ đứng sẵn ở sân chờ đồng chí Phạm Văn
Đồng. Khi Thủ tướng vừa xuống xe, chưa kịp chào hỏi gì, Bác đã nói ngay:
– Sao
chú không đèo chú bảo vệ đằng sau xe để cùng về, lại để chú ấy chạy bộ?
Thủ
tướng Phạm Văn Đồng lúc đó như chợt nhận ra, vội đáp:
– Xin
lỗi Bác.
Đáp
vậy, nhưng sau đó đồng chí Phạm Văn Đồng đã suy nghĩ rất kỹ về lời nhắc nhở nhẹ
nhàng mà nghiêm khắc của Bác Hồ. Sáng hôm sau, trong lúc làm việc với một số
đồng chí cấp dưới, ông kể lại câu chuyện trên cho mọi người cùng nghe, rồi nói:
– Tôi
đã nghĩ về lời của Bác. Lòng nhân ái, thương yêu và kính trọng con người, phải
chân thực từ trong tâm của ta, rồi tự nhiên bật ra thành thái độ và hành động,
chẳng phải suy nghĩ gì, như là từ bản năng.
Câu
chuyện trên đây gợi cho chúng ta một số bài học lớn, có ý nghĩa sâu sắc.
Thứ
nhất, ngay cả những nhà lãnh đạo cao cấp nhất cũng luôn luôn cần trau dồi đạo
đức, bồi bổ nhân cách và rèn luyện phong cách ứng xử sao cho thực sự nhân ái,
xứng tầm. Ai cũng biết Thủ tướng Phạm Văn đồng là một trong những nhà lãnh đạo
lỗi lạc của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta. Ông không những được nhân dân ta rất
kính trọng, yêu mến mà còn được cộng đồng thế giới thừa nhận như một nhà lãnh
đạo thông tuệ, hào hoa, lịch thiệp, giỏi giang bậc nhất. Thế mà, tuy ông đã làm
tới chức Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không ngần ngại nhắc
nhở, phê bình để giúp đồng chí Phạm Văn Đồng ứng xử cho đúng, tu tâm, dưỡng
tính cho thuần hậu, nhân ái, sao cho trở thành “bản năng” của nhà lãnh đạo.
Ở đây
ta thấy nét rất đẹp của Bác Hồ trong vai trò của người Thầy, và Thủ tướng Phạm
Văn Đồng với tư cách người học trò. Thầy không ngần ngại chỉnh sửa, chỉ bảo học
trò theo một cách vừa nhân hậu, nhẹ nhàng, nhưng cũng đủ nghiêm khắc để trò
nhận thức được điều Thầy cần chỉ bảo. Về phía mình, học trò là người thực sự
cầu thị, thành thực, nghiêm túc tiếp thu sự chỉ bảo của Thầy, suy ngẫm kỹ càng,
không hời hợt qua loa mà ghi tâm, khắc cốt, qua đó mà hoàn thiện nhân cách của
mình.
Ngày
xửa, ngày xưa, Đức Phật Tổ và Đức Khổng Tử cũng dùng phương pháp này để rèn
dạy, trao truyền tâm ấn cho học trò. Ngày nay thiết tưởng vẫn cần, rất cần
những sự chỉ dẫn – học hỏi như vậy, nhất là đối với các bậc, các cấp lãnh đạo,
nếu như họ không muốn trở thành những người “vác mặt quan cách mạng” – như Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng cảnh báo.
Thứ
hai, là bài học về lòng nhân ái. Bài học này Thủ tướng Phạm Văn Đồng suy ngẫm
và rút ra từ câu chuyện nói trên. Theo Thủ tướng thì lòng nhân ái, thương yêu
và kính trọng con người không phải là cái gì có thể nguỵ tạo theo kiểu “giả
nhân giả nghĩa” để mị dân, mà phải chân thực từ trong tâm của ta, rồi tự nhiên
bật ra thành thái độ và hành động, chẳng phải suy nghĩ gì, như là từ bản năng.
Đây là một nhận thức rất sâu sắc về đạo đức cách mạng. Lòng nhân ái phải thực
sự trở thành cái cốt lõi, thành điểm tựa cho nhân cách của một nhà lãnh đạo
chân chính. Chỉ khi đó tình thương yêu và kính trọng con người mới phát từ
trong tâm mà ra, hoà quyện vào trong ứng xử hàng ngày của nhà lãnh đạo một cách
hết sức tự nhiên, như một bản năng vậy. Như vậy thì lòng nhân ái không thể là
cái gì có thể “chế tác”, ngụy tạo một cách giản đơn và chỉ có lòng nhân ái chân
thực mới tạo nên uy tín, tạo nên sức thu hút quần chúng và nâng cao tầm của nhà
lãnh đạo. Ngược lại, nhà lãnh đạo phải đạt tới tầm nào đó rồi mới hiểu thấu đáo
được cội rễ của lòng nhân ái, mới biết yêu thương và kính trọng con người như
một bản năng.
Thứ
ba, là bài học về mối quan hệ giữa lãnh tụ với nhân dân. Đây chính là điều mà
Bác Hồ đã quán triệt cho các học trò của Người ngay từ những ngày đầu của sự
nghiệp Dựng Đảng – Cứu Quốc, rằng “công nông là gốc kách mệnh”. Đặc biệt là từ
sau khi Đảng ta trở thành một “đảng cầm quyền” thì Người càng đặc biệt chú
trọng đến việc giáo dục cho cán bộ, đảng viên, trí thức ý thức gần dân, thực sự
thương yêu và kính trọng nhân dân. Ngay trong tháng đầu tiên của chính quyền
cách mạng Hồ Chí Minh đã nhận thấy cán bộ các cấp phạm vào một loạt các sai
phạm như: trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo. Vì vậy, ngày
17 tháng 10 năm 1945 Người đã viết Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, huyện và
làng yêu cầu cán bộ ta khẩn trương, nghiêm túc rút kinh nghiệm, gột rửa những
sai phạm nói trên. Hai năm sau, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Pháp đang trải
qua giai đoạn rất khốc liệt, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian biên soạn
cuốn sách “Sửa đổi lối làm việc” để nghiêm khắc vạch ra những sai phạm trong
đạo đức và phong cách lãnh đạo, làm việc của cán bộ các cấp, đồng thời chỉ ra
những phương hướng và biện pháp cụ thể để khắc phục. Người cho rằng đạo đức của
một người cán bộ, đảng viên phải gồm đủ cả Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm; rằng
“sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong quần
chúng ra, trở lại nơi quần chúng”, nhưng “tuyệt đối không theo đuôi quần chúng”.
Có
thể nói tác phẩm trên đây là những chỉ dẫn sâu sắc và mẫu mực của Hồ Chí Minh
về đạo đức và phong cách lãnh đạo, ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét