Chủ nghĩa cơ hội là các quan điểm phi mácxít, mang tính chất phản động trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Hiện nay trước những diễn biến phức tạp của tình hình trong nước, khu vực và quốc tế, xuất hiện nhiều quan điểm, tư tưởng cơ hội chủ nghĩa dưới nhiều màu sắc rất phức tạp, rất khó nhận diện đã và đang phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, đe dọa trực tiếp đến vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Do đó, nhận diện và đấu tranh loại bỏ những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội trong nội bộ đảng và trong xã hội là một tất yếu, khách quan trong sự nghiệp cách mạng của đảng ta để bảo vệ Cương lĩnh, mục tiêu, đường lối, những thành quả của cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa cơ hội là hệ thống quan điểm chính trị không theo
một định hướng, một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, ngả nghiêng
nhằm mưu lợi trước mắt. Với tính cách là một lực lượng chính trị, một
trào lưu tư tưởng nằm ngay trong phong trào công nhân và các đảng cộng sản. Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của một Đảng mác xít
chân chính, giai cấp vô sản và chính Đảng kiểu mới không chỉ phải đấu tranh chống
những tư tưởng tư sản phản động mà còn phải đấu tranh chống mọi biểu hiện của
chủ nghĩa cơ hội. Đảng ta luôn
khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động,…”.
Tuy nhiên, các phần tử cơ hội luôn tìm cách phủ nhận, tấn công vào nền tảng tư
tưởng của Đảng để chống phá Đảng, chống chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Vì vậy, việc
chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các đối tượng chống đối,
phần tử cơ hội là giải pháp quan trọng nhằm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng
của Đảng trong tình hình mới.
Chủ nghĩa cơ hội ra đời và phát triển
cùng với phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế. Vào những năm 70 của thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa Mác giành được địa vị thống
trị về mặt lý luận trong phong trào công nhân đến nay, các nhà lý luận tư sản
và tiểu tư sản luôn tìm cách đưa các loại tư tưởng của họ xâm nhập vào nội bộ
phong trào công nhân dưới đủ màu sắc, những trào lưu cơ hội thường
“khoác áo chủ nghĩa Mác nhưng lại chống lại chủ nghĩa Mác”. Theo mô tả của C. Mác,
những kẻ cơ hội chủ nghĩa “dốt nát về mặt lý luận nhưng lại giàu có về các thủ
đoạn”. Sau này, để bảo vệ và phát triển Chủ
nghĩa Mác, Ph.Ăng-ghen cũng đã phân tích sâu sắc nguồn gốc sinh ra chủ nghĩa cơ
hội từ các mặt kinh tế, chính trị, tư tưởng và lịch sử. Từ đó, Ph.Ăng-ghen cho
rằng về cơ bản, tư tưởng và quan điểm của chủ nghĩa cơ hội là quan điểm tư
tưởng tư sản, các phần tử cơ hội chủ nghĩa là cái đuôi của giai cấp tư sản. Ông
cũng chỉ rõ có chủ nghĩa cơ hội tả khuynh và chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh. Dù
tồn tại dưới biểu hiện nào nó cũng đã biến Chủ nghĩa Mác thành một thứ “Chủ
nghĩa Mác” bị xuyên tạc méo mó”, làm tê
liệt tư tưởng và ý chí đấu tranh của công nhân, nó làm cho phong trào công nhân
đi vào con đường sai lầm, chia rẽ, mất đoàn kết, đưa phong trào đến chỗ thất bại
bằng một thứ chủ nghĩa mơ hồ.
Đến những năm 90 của thế
kỷ XIX, nhất là từ sau khi C.Mác và Ph.Ăngghen qua đời, chủ nghĩa cơ hội lại
càng phát triển ở trong nội bộ phong trào công nhân và các đảng của giai
cấp công nhân. V.I.Lênin cho rằng, mặc dù chủ nghĩa cơ hội được biểu hiện dưới nhiều
hình thức khác nhau với những tên gọi khác nhau trong mỗi thời kỳ lịch sử,
nhưng bản chất của chúng chỉ là một. Đó là phản bội chủ nghĩa Mác, phản bội
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, là sự từ bỏ, hy sinh những lợi ích
căn bản của
giai cấp công nhân vì những lợi ích cục bộ bảo thủ mà thực chất là phục vụ lợi
ích của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản. Người khẳng định: “Bọn cơ hội chủ nghĩa đòi xét lại chủ
nghĩa Mác, xóa bỏ bản chất cách mạng của nó. Chúng là những kẻ thỏa hiệp, thực
hiện vai trò là kẻ giúp đỡ và làm tay sai cho giai cấp tư sản”.
Vì vậy, trong từng giai đoạn, nhiệm vụ cách mạng cụ thể V.I.Lênin đã
phê phán, đấu tranh, vạch trần bản chất phản khoa học, phản động của các quan
điểm, tư tưởng và hành động của những kẻ cơ hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cơ hội ở Việt Nam không hình thành với tư cách
là một trào lưu xã hội, một học thuyết lý luận
có tính hệ thống. Tuy nhiên, trong một số bộ phận, nhóm cá nhân có biểu hiện những
quan điểm, tư tưởng, hành vi mang tính cơ hội. Trong từng giai đoạn lịch sử của
cách mạng, từ khi thành lập Đảng đến nay, chúng ta cũng chịu những tác động, ảnh
hưởng của chủ nghĩa cơ hội đến từ bên ngoài với những màu sắc, mức độ khác
nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi những phần
tử cơ hội chủ nghĩa là bọn đầu cơ. Đây thực chất chỉ là bọn cơ hội chủ nghĩa thực
dụng, chúng không có lý luận, với bản chất là mưu lợi cá nhân, là thói ích kỷ,
vụ lợi chúng chỉ tìm cách “thích nghi”, luồn lách và sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với
mọi trào lưu khi có lợi. Người
cho rằng bọn đầu cơ cũng giống như là bọn phản động, nó “là địch nhân lọt vào
trong Đảng để phá hoại”.
Hiện
nay, các thế lực
thù địch đẩy mạnh chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng bằng chiến lược “diễn biến
hòa bình” rất thâm độc đã tác động sâu sắc đến nhận thức, quan điểm, tư tưởng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta, không tránh khỏi xuất hiện một số người dao động, những phần tử cơ hội “hữu” khuynh, “tả” khuynh đã xuất hiện với những biểu hiện mới không thể xem thường.
Nó không
còn biểu hiện đơn thuần là mâu thuẫn giữa hai luồng tư tưởng, không còn là sự
phủ nhận tuyệt đối chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nữa mà đã hóa
thân thành “muôn hình vạn trạng”. Đó là những đối
tượng có lập
trường tư tưởng chính trị không vững vàng, không kiên quyết; vô nguyên tắc, dễ dao động, thiếu niềm
tin, luôn hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào công cuộc đổi mới đất nước; hoài nghi bản thân,
lý tưởng mà mình tự nguyện suốt đời phấn đấu để thực hiện. Khi cách mạng thuận lợi thì tỏ ra rất cấp tiến, khi cách mạng
gặp khó khăn thì thoái lui, thoả hiệp. Với giọng điệu về hình thức bề ngoài “giả
bộ” làm ra vẻ ca tụng, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng để phủ nhận giá trị của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin; cắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác -
Lê-nin; tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận gián tiếp tư tưởng của
Người. Đây là thủ đoạn thâm độc nhằm tấn
công trực diện vào nền tảng tư tưởng của Đảng ta.
Đồng thời, các phần tử cơ hội chủ nghĩa
còn ra sức phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, rằng độc đảng lãnh
đạo là không có dân chủ; đòi đa nguyên, đa đảng, phủ nhận nguyên tắc tập trung
dân chủ, nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Đặc biệt, một số người có cả một số
ít cán bộ, đảng viên lâu năm, đã từng giữ cương vị là cán bộ lãnh đạo, nghiên cứu
của Đảng, Nhà nước, Quân đội đã viết tài liệu, hồi ký, sáng tác... dưới danh
nghĩa “thư kiến nghị”, “góp ý kiến”, “thư ngỏ”,... nhưng thực chất là phản bác
những quan điểm, đường lối, Cương lĩnh, đả kích sự lãnh đạo của Đảng, sự quản
lý, điều hành của Nhà nước, phủ định những thành tựu cách mạng, phủ định con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Mặt khác chúng
khai thác, lợi dụng những thiếu sót, khuyết điểm trong chỉ đạo và thực hiện đường
lối, chính sách của đảng, những cán bộ, đảng viên tham ô, tham nhũng, tha hóa, suy thoái, tung
tin bịa đặt trong đảng có phe này, phe kia; bịa đặt, nói xấu lãnh đạo cấp cao, vu cáo cán bộ của Đảng
và Nhà nước, nhằm từng bước hạ thấp vị thế, uy tín tiến tới xoá bỏ vai trò lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội.
Ngoài ra, họ dùng mọi thủ đoạn để “chui sâu leo cao” để sử
dụng quyền lực phục vụ cho lợi ích của cá nhân, nhóm nhỏ, chứ không bao giờ vì
lợi ích tốt đẹp của tập thể, số đông, nói gì đến lợi ích của quốc gia - dân tộc.
Các
phần tử cơ hội chủ nghĩa rất giỏi che giấu mặt thật, ít bày tỏ
quan điểm, chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị trung dung, thỏa hiệp, thấy
đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, “chỉ làm việc có lợi cho bản thân;
lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê
phán người khác với động cơ không trong sáng.
Tóm lại, đó chỉ là những kẻ khoác áo Mác-xít, “trung thành” với
Đảng trên lời nói, còn về thực chất, từ lâu họ đã phản bội lại chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Các biểu hiện đó đã được Đảng ta đánh giá nghiêm túc và
chỉ rõ trong các văn kiện của Đảng, nhất là các nghị quyết chuyên đề về công
tác tư tưởng, lý luận; về công tác xây dựng Đảng. Văn kiện Văn kiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo
đức lối sống của một số cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, nề nếp, vẫn còn
tình trạng nói không đi đôi với làm, không tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quan
liêu tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng”
Chủ nghĩa cơ hội dù biểu
hiệu dưới hình thức nào cũng rất nguy hiểm. Các hoạt động chống phá của các phần
tư cơ hội đã làm xuất hiện hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ đảng ta, tập trung tập trung vào tự diễn biến về quan điểm, đường lối, tư tưởng,
văn hóa xã hội…. Đồng thời, đang ảnh hưởng đến nhiều cán bộ, đảng viên nếu
không được ngăn chặn sẽ làm cho họ bị suy giảm dần về bản chất cách mạng, xa rời
mục tiêu, lý tưởng của Đảng, sa sút về phần chất chính trị, đạo đức lối sống,
năng lực, phương pháp tác phong công tác phong công tác. Điều này, tác động
tiêu cực đến sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, về sự trong sạch, uy tín và sức
chiến đấu của Đảng.
Vì lẽ
đó, việc thẳng thắn, cương quyết đấu tranh với phần tử cơ hội chủ nghĩa những kẻ
thường được gọi là “giặc nội xâm” để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng càng trở nên cấp
thiết. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII đã khẳng định rõ cần: “Tăng cường bảo
vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác
các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”. Theo
Ph.Ăngghen, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, dưới bất kỳ biểu hiện nào của
nó đều là cuộc “đấu tranh sống mái” và có tính lâu dài. Do đó, trong cuộc đấu
tranh này, cần sự tham gia của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong xã hội và phải
sử dụng nhiều giải pháp đồng bộ:
Một là, thường xuyên nâng cao
nhận thức cho toàn đảng, toàn dân, mọi cán bộ, đảng viên về bản chất khoa học,
cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đây là vấn đề nền tảng tư tưởng, hệ
tư tưởng, có vị trí quan trọng hàng đầu, quyết định đến sự thành bại trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Bởi vì, nếu không kiên định những vấn đề đó,
sẽ là cơ hội cho sự gia tăng hệ tư tưởng tư sản, chủ nghĩa cơ hội trong đảng,
trong xã hội. Để bảo đảm sự kiên
định đó, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ nhiều nội dung, biện pháp phù hợp, khoa
học, trong đó tập trung vào nâng cao chất lượng học tập, nghiên cứu, giáo dục
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn đảng, toàn dân; làm cho
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo về chính trị,
tư tưởng trong đảng và toàn xã hội. Đẩy mạnh
và nâng cao hiệu quả cuộc vận động học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh., vận dụng sáng tạo,
thành công chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn Việt Nam;
tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt
Nam.
Hai là, tiếp tục nâng
cao chất lượng, hiệu quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XIII
Đây là giải pháp toàn diện, bao trùm
và then chốt trong đấu tranh chống các tư tưởng, biểu hiện cơ hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay. Thực hiện tốt giải pháp này góp phần trực tiếp thanh lọc, loại
bỏ những phần tử cơ hội chủ nghĩa ra khỏi tổ chức Đảng, đồng thời tạo nên sức mạnh
làm miễn dịch trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các quan điểm, tư tưởng cơ hội
chủ nghĩa. đồng thời tạo nên sức mạnh làm miễn dịch trước âm mưu, thủ đoạn chống
phá của các quan điểm, tư tưởng cơ hội chủ nghĩa. Để công tác xây dựng, chỉnh đốn đảng theo tinh thần kết
luận số 21 của Đảng đạt hiệu quả cao nhất trước hết cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nâng cao trình độ,
trí tuệ cho cán bộ, đảng viên. Đồng thời, cần quan tâm chăm lo xây dựng tổ chức
của đảng từ Trung ương đến cơ sở trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, đúng thẩm quyền,
trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Bên cạnh đó, nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cán bộ, đảng viên, mà trước
hết là người đứng đầu cấp ủy trong việc quán triệt và thực hiện Kết luận số
21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
Ba là, tập trung đẩy
mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trong
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
Đây
là điều kiện bảo đảm tính chân thực, khoa học của
hệ thống lý luận của đảng, làm cơ sở phản bác lại tính chất phản khoa học, phản
động của các quan điểm cơ hội chủ nghĩa.
Trong quá trình đổi mới ở nước ta, việc tăng cường tổng kết thực tiễn gắn với
nghiên cứu lý luận đã góp phần cung cấp nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng,
bổ sung và phát triển đường lối đổi mới của Đảng; góp phần tăng cường sự thống
nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội . Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục
nghiên cứu làm sáng tỏ trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa -
xã hội, quốc phòng - an ninh, đối ngoại, cũng như những vấn đề mới nảy sinh từ
tình hình thế giới, khu vực, trong nước. Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng đã đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận,
hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gắn kết tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận với định hướng chính sách”. Để thực hiện tốt kết hợp giữa nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cần: nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu lý luận, kịp thời
phát hiện, nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa cơ hội dưới mọi
hình thức ở Việt Nam và thế giới; làm sâu sắc và cụ thể
hơn nữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nhằm đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu của kẻ thù và chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Đẩy mạnh việc tổng kết thực
tiễn, nghiên cứu lý luận, sớm kết luận những vấn đề mới và bức xúc từ thực tiễn
đặt ra; tạo sự đồng thuận trong xã hội.
Bốn là, huy
động sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tăng cường sự phối hợp và tổ chức chặt
chẽ giữa các lực lượng để tạo thành thế trận vững chắc trong cuộc đâu tranh chống
chủ nghĩa cơ hội .
Cụ thê, nâng cao tính
chủ động, thiết thực, hiệu quả của các ban chỉ đạo từ Trung ương đên địa phương
trong công tác tham mưu, hướng dẫn, tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh trên trận
địa tư tưởng; tính chuyên sâu của các cơ quan nghiên cứu, của đội ngũ cán bộ nghiên
cứu lý luận, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành; tính kịp thời, đa dạng,
phong phú của các cơ quan thông tấn, báo chí, truyền thanh, truyền hình, coi đó
là nhiệm vụ, trách nhiệm chính trị của mọi tồ chức, mọi lực lượng dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Theo đó, cần sử dụng linh hoạt, đa dạng các hình thức, phương
pháp tranh trực tiếp và gián tiêp; khơi dậy và phát huy cao độ khả năng, thế mạnh
của mỗi tổ chức, mỗi lực lượng tham gia; đồng thời, khắc phục sự đấu tranh kiểu
một chiều, khuôn sáo theo công thức định sẵn, thoát ly các vấn đề mới nảy sinh
từ thực tiễn. Đồng thời, chú trọng xây dựng và tổ chức các lực lượng, nhất là lực
lượng nòng cốt có trình độ chuyên sâu, có phương pháp khoa học, đáp ứng yêu cầu
của tình hình và nhiệm vụ trong cuộc đấu trann gay go, phức tạp này gắn với việc
nâng cao hiệu quả việc giám sát hoạt động, ngăn chặn liện lạc, vô hiệu hóa hoạt
động tuyên truyền phá hoại tư tưởng của các đối tượng cơ hội trện mạng xã hội bằng
các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ hữu hiệu.
Như vậy, nhận diện và và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh cả
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đây là chìa khóa góp phần trực tiếp
để bảo vệ nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm, của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước; tăng cường sự đoàn kết thống nhất của đảng, làm thất bại âm
mưu chia rẽ, phá hoại của các phần tử cơ hội và các thế lực thù địch. Trong cuộc
đấu tranh này đòi hỏi mỗi tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân phải luộn
đề cao cảnh giác, phân biệt nhận rõ những kẻ cơ hội để đấu tranh loại trừ chúng ra khỏi các tổ chức đảng, đảm bảo cho tổ
chức đảng luôn được vững mạn, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét