Cách đây 55 năm,
trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn
quân ta bản Di chúc thiêng liêng, chứa đựng những tư tưởng lớn về Đảng và xây
dựng Đảng, trong đó có nội dung hết sức sâu sắc về thực hành dân chủ trong
Đảng. Quán triệt và thực hành dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh là cách thức hữu hiệu để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh toàn
diện, thật sự “là đạo đức, là văn minh” theo tâm nguyện của Người.
1- Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta bản Di chúc thiêng
liêng, kết tinh tư tưởng, đạo đức, phong cách và tình cảm, tâm nguyện của Người
đối với dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta. Di chúc chứa
đựng những tư tưởng lớn, là bản tổng kết lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc
về cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, Di chúc đề cập nội dung hết
sức sâu sắc về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng, để
Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm với đòi hỏi của tình hình và
nhiệm vụ mới, xứng danh là Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở nước ta.
Trong Di chúc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành nhiều tâm huyết, trí tuệ và suy tư, trăn trở cho công
tác xây dựng Đảng. Người căn dặn Đảng ta: việc cần làm trước tiên là “chỉnh đốn
lại Đảng”, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ “đều ra sức làm
tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân”; đồng
thời nhấn mạnh, “Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy,
chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Xác định rõ tầm quan
trọng của công tác xây dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm sâu sắc
tới việc làm thế nào để dân chủ trong Đảng được phát
huy mạnh mẽ trong mọi hoạt động của Đảng. Theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, dân chủ là “của quý báu nhất của nhân dân” và thực hành dân chủ là “chìa
khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” trong quá trình Đảng lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng.
Thực hiện dân chủ trong
Đảng là quá trình Đảng đưa các giá trị dân chủ vào hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo
tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, trong sinh hoạt đảng, làm cho dân chủ trở
thành hiện thực trong mọi hoạt động của Đảng. Dân chủ trong Đảng là dân chủ có
tính đảng, gắn với kỷ luật, kỷ cương, đối lập với tình trạng dân
chủ tùy tiện, vô chính phủ, dân chủ giả hiệu.
Thực hành dân chủ trong
Đảng thể hiện ở nhiều khía cạnh, trong đó có việc tổ chức đảng, đảng viên bàn
bạc, thảo luận các vấn đề để đi tới hình thành quyết sách chính trị của Đảng.
Dân chủ trong Đảng được phản chiếu trong văn hóa đấu tranh tự phê
bình và phê bình, hoạt động chất vấn của tổ chức đảng và đảng viên; phản ánh,
kiến nghị với cơ quan có trách nhiệm và yêu cầu được trả lời theo quy định của
Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, về bản chất,
dân chủ không đối lập với tập trung, kỷ luật, mà chỉ đối lập với sự quan liêu,
thói gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, lộng quyền và lạm quyền. Tập trung
cũng không đối lập với dân chủ, mà chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, thói tự do
vô chính phủ.
Thực hành dân chủ trong
Đảng được thể hiện trong tuân thủ nguyên tắc tập trung dân chủ. V.I. Lê-nin
từng chỉ rõ: Không thể có một đảng cách mạng chân chính mà lại phủ nhận
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nếu không có tập trung thì
đảng trở thành một tổ chức biệt phái, hỗn độn, một “câu lạc bộ tranh luận”; nếu
xa rời dân chủ, đảng sẽ bị biến thành một tổ chức chuyên quyền, độc
đoán, quan liêu. Vận dụng đúng đắn quan điểm của V.I. Lê-nin về nguyên tắc
tập trung dân chủ vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, có lúc Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề cập “tập trung dân chủ”, nhưng nhiều hơn cả là Người đề cập “dân chủ tập
trung”. Tập trung dân chủ bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, là nguyên
tắc tổ chức cao nhất và là chế độ lãnh đạo của Đảng, phải được tuân thủ nghiêm
ngặt, triệt để, làm cho Đảng ngày càng thống nhất về ý chí và hành động. Người
lý giải: Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là:
có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá
nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục
tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương; tất cả đảng viên phải chấp
hành vô điều kiện nghị quyết của Đảng. Người còn chỉ rõ: “Tập trung trên
nền tảng dân chủ. Cơ quan lãnh đạo của Đảng có uy tín và quyền lực chân
chính. Những phương châm, chính sách, nghị quyết của Đảng, mọi đảng viên nhất
định phải chấp hành. Kỷ luật của Đảng, mọi đảng viên phải tuân theo. Thế
là tập trung. Nhưng tập trung ấy không phải là cá nhân chuyên
chính; nó là xây dựng trên nền tảng dân chủ”. Dân chủ dưới sự chỉ
đạo tập trung, được thể hiện ở chỗ “trong Đảng, mọi đảng viên có quyền nêu
ý kiến, đặt đề nghị, tham gia giải quyết vấn đề. Nhưng quyết không được trái sự
lãnh đạo tập trung của Đảng, trái nghị quyết và trái kỷ luật của Đảng”.
Để thực hành dân chủ rộng
rãi trong Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Phải thật sự mở rộng dân chủ để
cho tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình; phải tập hợp ý kiến của đảng
viên để giúp Trung ương chuẩn bị Đại hội Đảng cho thật tốt; làm như thế là khơi
dậy tinh thần trách nhiệm và tính tích cực chủ động của tất cả đảng viên. Khi
đã thảo luận, bày tỏ ý kiến rồi thì đi đến tập trung, làm cho “Đảng ta tuy
nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”, tức là đề cập ý chí
thống nhất, hành động thống nhất. Việc thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ trong
Đảng cũng như đi tìm chân lý trong lĩnh vực tư tưởng. Người chỉ rõ: “Chế độ ta
là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn
đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một
quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý
kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra quyền tự
do phục tùng chân lý. Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc,
cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không
phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân - tức là phục tùng chân
lý”. Trong quá trình thực hành dân chủ phải kiên quyết chống mọi biểu hiện lệch
lạc, không để “sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong
Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và
những thói xấu khác”.
Là tổ chức lãnh đạo xây
dựng, phát triển nền dân chủ ở nước ta, Đảng phải là hạt nhân và là tấm gương
thực hành, phát huy dân chủ. Vì thế, Người đòi hỏi “đảng viên ở địa vị càng
cao... càng phải làm gương dân chủ”. Dân chủ trong Đảng, do đó có ý nghĩa rất
lớn đối với việc phát huy dân chủ trong xã hội.
Một điều mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh rất quan tâm khi phát huy dân chủ trong Đảng, đó là: Với vai trò, sứ
mệnh là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội, thì Đảng phải phát huy
cao độ vai trò của Mặt trận dân tộc thống nhất và các tổ chức chính trị - xã
hội để thông qua các tổ chức này, nhân dân thực hiện và phát huy vai trò là
chủ, làm chủ của mình. Quyền lực thuộc về nhân dân - đó chính là dấu hiệu đặc
trưng của chế độ dân chủ mới. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc
lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn tình trạng người
bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa
cộng sản. Đảng tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân
dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Vì thế, thực hành dân chủ trong Đảng đòi hỏi
phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, “Phải thật sự thi hành dân
chủ trong Đảng và trong quần chúng”. Đảng phải khuyến khích nhân dân trong vai
trò làm chủ “giúp Chính phủ và Đoàn thể kiểm tra công việc và hành vi của các
cán bộ”. Điều đó có ý nghĩa lớn trong phát triển nền dân chủ mới, giúp cho Đảng
phòng, tránh được tệ quan liêu hóa, xa rời nhân dân. Để phát huy dân chủ, Đảng
có trách nhiệm làm cho mỗi người dân “phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn
phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng
nước nhà”, họ phải biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng
quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Đó là những vấn đề có liên quan
trực tiếp tới quá trình thực hành và phát triển dân chủ trong Đảng và trong xã
hội. Một trong những vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm là phòng,
chống việc làm đi ngược với lợi ích của quần chúng, biểu hiện lệch lạc trong
quá trình dân chủ hóa. Người lên án hiện tượng một số cán bộ “Miệng thì nói dân
chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần
chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng, trái ngược với
phương châm và chính sách của Đảng và Chính phủ”. Người còn chỉ rõ: “Tác phong
của những “ông quan liêu” là thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo
tập thể, phân công phụ trách”.
Theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh, dân chủ và kỷ luật của Đảng có mối quan hệ biện chứng, là hai mặt không
thể tách rời trong một thể thống nhất của chế độ sinh hoạt đảng. Người cho
rằng, dân chủ phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương. “Để làm cho Đảng mạnh, thì
phải mở rộng dân chủ (thật thà tự phê bình và phê bình), thực
hành lãnh đạo tập trung, nâng cao tính tổ chức và tính kỷ luật” và
“thống nhất ý chí, thống nhất hành động, thống nhất kỷ luật, tập trung lãnh
đạo là việc cực kỳ cần thiết và cực kỳ quan trọng”. Theo Người, “Trong nội
bộ Đảng có dân chủ rộng rãi, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc”; do đó, phải
kiên quyết chống lời nói và việc làm tự do vô tổ chức, như “không xét thời
gian, địa điểm, điều kiện mà nói lung tung; tự do hành động; dân chủ quá trớn”.
2- Tạo môi trường và điều
kiện thuận lợi để phát huy dân chủ, để cán bộ, đảng viên được phát huy tối đa
năng lực cá nhân, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã
hội chính là cách thức phát huy hiệu quả vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Vận dụng và phát triển tư tưởng về thực hành dân chủ trong Đảng theo Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã cụ thể hóa trong Cương lĩnh,
Điều lệ Đảng, Nghị quyết Đại hội các khóa và từng bước hoàn thiện trong nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, trong hoạt động thực tiễn của tổ chức đảng
và cán bộ, đảng viên.
Những thành tựu của công
cuộc đổi mới đất nước, của công tác xây dựng Đảng là thước đo cho những giá trị
đạt được về thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội. Thực tiễn cho thấy,
dân chủ ngày càng được thực hiện tốt hơn qua từng năm và qua mỗi nhiệm kỳ Đại
hội Đảng. Dân chủ trong Đảng được mở rộng đúng hướng, từ đó tăng cường đoàn kết
thống nhất trong nội bộ Đảng; đồng thời, phát hiện và ngăn ngừa nhiều việc làm
sai trái, xử lý nghiêm không ít tổ chức đảng và đảng viên vi phạm nguyên tắc
tập trung dân chủ.
Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng đề cập việc có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ cán bộ,
đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng và
pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám
đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong
hành động vì lợi ích chung. Nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng đều được lấy ý
kiến rộng rãi trong Đảng và trong xã hội. Trong công tác cán bộ, việc lấy phiếu
tín nhiệm, ứng cử, đề cử đều được đưa vào quy định của Đảng, bảo đảm nguyên tắc
tập trung dân chủ. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh được đẩy mạnh, đi vào chiều sâu, theo phương châm “trong trước, ngoài
sau”, “trên trước, dưới sau”, “cấp trên nêu gương cho cấp dưới”, thực hành dân
chủ được quán triệt và yêu cầu thực hiện trong tất cả hoạt động của Đảng, từ
công tác cán bộ, khen thưởng, kỷ luật và “không có vùng cấm”, “không có ngoại
lệ” khi xử lý sai phạm.
Trong các nhiệm kỳ gần
đây, thực hành dân chủ trong Đảng tiếp tục được mở rộng, phát huy bằng những
quy chế, quy định chặt chẽ hơn, như Quy định của Bộ Chính trị báo cáo công việc
và hoạt động giữa hai kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; các cấp ủy có trách
nhiệm báo cáo sự lãnh đạo, chỉ đạo giữa hai kỳ họp. Quy định thời gian tiến
hành tự phê bình và phê bình, lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, đảng viên từ cơ quan
cao nhất đến tổ chức cơ sở, nhân dân góp ý xây dựng Đảng. Các quy chế về thông
tin, cung cấp thông tin, bảo mật thông tin được tăng cường.
Cùng với đẩy mạnh thực
hành dân chủ trong Đảng, việc thực hành dân chủ trong các cơ quan nhà nước được
chú trọng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (năm 1991) xác định Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam “Là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay
mặt nhân dân, Nhà nước ta phải có đủ quyền lực và đủ khả năng
định ra luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011), tiếp tục khẳng định và nêu rõ hơn vấn
đề này: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân
mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống
nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ
chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa”. Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa các Hiến pháp trước đó, trên
cơ sở truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa, kiên cường, bất khuất và xây
dựng nên nền văn hiến Việt Nam, quán triệt việc lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Hiến pháp năm 2013 đã cụ thể hóa tư
tưởng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Đảng gắn bó mật thiết với
nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Trong sự vận
hành của cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, Đảng ta nhận thức rõ tầm quan trọng
của việc phải bảo đảm “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” thông qua kiểm soát
chặt chẽ việc thực thi quyền lực của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Trong gần 40 năm đổi mới vừa qua, Đảng đã chỉ đạo xây dựng cơ chế kiểm soát
quyền lực đạt nhiều kết quả trong thực tiễn. Nhiều văn bản liên quan được chỉ
đạo xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả trong đời sống xã hội.
Trong nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, nhất là nhiệm kỳ Đại hội XII
và hơn nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII, Đảng ta đã ban hành
nhiều văn bản quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bộ Chính
trị đã ban hành Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, “Về một số việc cần làm
ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”. Ban Chấp hành
Trung ương đã ban hành Quy định số 08-QĐi/TW, ngày 25-10-2018, về “Trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban
Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt
động giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, Bộ
Chính trị đã ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng chính quyền; Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 18-CT/TW, ngày
26-10-2022, về phát huy vai trò, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giám
sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị -
xã hội. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng lần lượt được ban hành, như
Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở...
Tuy nhiên, để
dân chủ thấm sâu trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội...,
chúng ta còn nhiều việc phải làm. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận về dân chủ và phát huy dân chủ phần nào chưa theo kịp sự phát triển của
thực tiễn, đặc biệt trong điều kiện mới, như phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa; hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; sự phát triển
của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang thúc đẩy công nghệ thông tin,
công nghệ số, mạng xã hội phát triển nhanh chóng, mở ra nhiều cơ hội đồng thời đưa
đến nhiều thách thức cho việc thực hành dân chủ,... Việc thực hành dân chủ có
lúc, có nơi còn mang tính hình thức, nhiều mặt chưa gắn kết chặt chẽ với việc
thực hiện pháp luật, kỷ luật, kỷ cương. Tình trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ
chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, báo cáo không trung thực, vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho một số nghị quyết của Đảng khó vào cuộc
sống. Một số tổ chức đảng ở các cấp chưa được chỉnh đốn kịp thời; dân chủ bị vi
phạm, kỷ luật, kỷ cương lỏng lẻo, nội bộ không đoàn kết, chất lượng sinh hoạt
đảng giảm sút... Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra: “Việc thực hiện
các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số
nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu
hiện cục bộ, lợi ích nhóm. Kiểm soát quyền lực còn lúng túng, hiệu quả thấp”.
3- Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
khẳng định: “Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng vì dân, vì nước”. Người
cũng lưu ý: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”, vào Đảng
không phải là để “làm quan cách mạng”, để “thăng quan tiến chức”, để “một người
làm quan cả họ được nhờ”, “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời thực dân,
phong kiến”,... Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức rất rõ trách nhiệm
lịch sử và vinh quang khi được nhân dân và dân tộc trao sứ mệnh lãnh đạo, cầm
quyền, để quyết tâm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, theo đó: “Việc gì lợi
cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.
Trong bản Di chúc lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần
kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Với tư cách là
đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân
lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp
công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam có vai
trò quyết định trong quá trình phát huy dân chủ. Dân chủ trong Đảng là một
trong những tiền đề chủ yếu để thúc đẩy dân chủ trong xã hội. Đứng trước thuận
lợi, thời cơ mới của đất nước sau gần 40 năm đổi mới; đối diện với nhiều khó
khăn, thách thức đan xen trong quá trình phát triển đất nước, Đảng ta ngày càng
nhận rõ sức mạnh của dân chủ và phát huy dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Để thực hành dân
chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh một cách
thực chất, hiệu quả, trước hết cần giáo dục cho cán bộ, đảng viên, nhất là
người đứng đầu, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng
và trong xã hội, làm cho họ nhận thức rõ sức mạnh và ý nghĩa hết sức to lớn của
dân chủ đối với Đảng, với chế độ. Cùng với đó, quy định cụ thể, hướng dẫn, kiểm
tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi
hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên; giúp cho cán bộ, đảng viên tự giác,
nghiêm túc, thường xuyên thực hiện và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ và các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ
công tác cán bộ, theo hướng mở rộng dân chủ trong tất cả các khâu, từ tuyển
dụng, tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đến bổ nhiệm, giới thiệu, bầu
cử, sử dụng, thực hiện chính sách đối với cán bộ,... bảo đảm lựa chọn và sử
dụng được người có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Hoàn
thiện thể chế và cơ chế kiểm soát quyền lực đi đôi với bảo vệ, khuyến khích cán
bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung; thực hiện quy định
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là của cấp ủy, người đứng đầu bảo đảm
thực chất, thiết thực đồng thời với đẩy mạnh việc noi gương, học tập, làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đổi mới mạnh mẽ
nội dung và hình thức sinh hoạt đảng theo hướng phát huy hơn nữa tinh thần dân
chủ, tiếp thu ý kiến góp ý. Có cơ chế cụ thể để phát huy mạnh mẽ vai trò và
tinh thần trách nhiệm của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng và hệ thống
chính trị, đặc biệt là trong giám sát việc thực hiện nêu gương, tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Bản Di chúc thiêng liêng, trong đó có những lời căn
dặn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi
trong Đảng, luôn là kim chỉ nam, là ánh sáng soi đường để Đảng và nhân dân ta
thêm kiên định, vững vàng trên nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng ta
ngày càng trong sạch, vững mạnh toàn diện, xứng danh Đảng “là đạo đức, là văn
minh”, tiêu biểu cho trí tuệ, lương tri, phẩm giá của dân tộc và thời đại./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét