Di
chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to
lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng
Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung
dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn
nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1)
Có
thể thấy, điều đầu tiên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh là những lời căn dặn về xây dựng Đảng cầm quyền: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ
ĐẢNG”, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”(2), sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách
mạng nước ta. Người chỉ rõ Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc
thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng. Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to
lớn đó, là bởi mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao
khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực
hiện xã hội cộng sản”(3); vì vậy, “Đảng không phải là một tổ chức để
làm quan phát tài”(4).
Để
ngăn chặn những nguy cơ tha hóa, biến chất và thủ tiêu tư tưởng “làm quan phát
tài” trong Đảng, trong các bản Di chúc mà Người viết từ năm
1965 đến trước khi qua đời đều nêu rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là
chỉnh đốn lại Đảng”(5). Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược,
là công việc thường xuyên để làm cho Đảng có đủ năng lực, trí tuệ và đạo đức
cách mạng, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, “làm tròn
nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(6). Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trong Đảng phải thực hành dân
chủ rộng rãi.
Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh, đúc kết cao nhất hệ thống quan điểm,
tư tưởng của Người về vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng.
Người đặc biệt chú trọng và xem việc thực hành, phát huy dân chủ trong
Đảng là một trong những nguyên tắc cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, làm cho Đảng có nội lực vững vàng, có chỗ dựa vững chắc là khối đại
đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ khi thực hành dân chủ, Đảng mới thực sự xứng
đáng là người đại diện cho giai cấp và dân tộc, nhân dân mới thành thật đoàn
kết xung quanh Đảng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng.
Đó
cũng là nguyên tắc chi phối mối quan hệ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”. Chính vì
lẽ đó, Người luôn tỏ rõ sự chân thành, thẳng thắn, cương trực và giàu
lòng nhân hậu, bác ái, trọng sự đồng thuận và đoàn kết. Đoàn kết - Dân
chủ - Đồng thuận để phát triển, đó là cả một triết lý trong hành
động cách mạng, trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hành dân
chủ là một trong 5 thực hành lớn, tiêu biểu trong suốt cuộc đời và sự nghiệp
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là: Thực hành lý luận trong thực tiễn;
thực hành dân chủ; thực hành dân vận; thực hành đoàn
kết và đại đoàn kết; thực hành đạo đức cách mạng, cần,
kiệm, liêm, chính, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân như chống giặc nội xâm.
Trong
lôgíc của mọi thực hành, nhất là thực hành dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn
nhất quán một tư tưởng lớn, nằm ở một chữ “DÂN”: Dân chủ - Dân
vận - Dân tộc - Đại đoàn kết toàn dân tộc, để suốt đời vì
dân, gắn bó máu thịt với nhân dân(7). Tôn trọng, tin cậy và yêu thương con người là điều căn bản,
sâu xa làm nên sự thành công trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thông
qua Di chúc, tư tưởng của Người về việc thực hành và phát huy dân
chủ trong Đảng được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:
- Về xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi
giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc thực hành dân chủ
“để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải
thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm,
thì thào” cũng hết... Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng
kiến”(8).
- Về xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng để làm tiền đề
cho việc thực hành dân chủ trong Đảng, trong di huấn để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân
ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất
trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình... Phải giữ gìn Đảng ta thật
trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của
nhân dân”(9).
- Về công tác vận động quần chúng nhân dân, các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên
phải làm tốt công tác vận động, giúp đỡ nhân dân, tôn trọng quyền lợi của nhân
dân, tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân
phải tin dân, biết dựa vào dân, phát huy mọi năng lực tiềm tàng trong dân; “giữ
chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng,
đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(10).
- Về vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ
chức đảng, Người đặt ra yêu cầu
là phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Dân chủ trong quan
niệm của Người không chỉ được thực hành trong lĩnh vực chính trị, mà trong tất
cả các lĩnh vực khác, như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng pháp
luật,... Ở mỗi lĩnh vực đó đều có trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc
thực hành, phát huy dân chủ.
Tư
tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị là một
trong những tư tưởng rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó
cũng chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người dân thực hiện quyền làm
chủ, đã được thể hiện độc đáo trong các quy định của bản Hiến pháp đầu tiên của
nước ta - Hiến pháp năm 1946 - trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chủ
tịch Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vấn đề con người và quyền con người trong
thực hành dân chủ.
Theo
Người, con người là động lực và mục tiêu của chế độ dân chủ. Quyền con người
trong chế độ dân chủ trước hết phải mang nội dung tự do, ấm no, hạnh phúc, cơm
ăn, áo mặc, học hành. Ngay từ những năm đầu đất nước giành độc lập, Người đã
xác định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét,
thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho
dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có
học hành”(11).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, dân chỉ biết đến tự do, dân chủ là khi không chỉ
được ăn no, mặc ấm mà còn được học hành. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
được thành lập, hơn 90% dân số còn mù chữ, thất học(12), vì thế, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ
tịch đã ban hành Sắc lệnh số 17, ngày 8-9-1945, về việc đặt ra phong trào bình
dân học vụ để giúp toàn dân thanh toán nạn mù chữ. Giặc dốt cũng nguy hiểm
như giặc đói và giặc ngoại xâm. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ
(ngày 3-9-1945), Người đã có thông báo về việc tiếp chuyện đại biểu các đoàn
thể rằng: “Từ năm nay, tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các
đoàn thể”(13). Đó thực sự là Chính phủ dân chủ, trọng dân,
tin dân và vì dân. Đó cũng là nội dung thiết thực của thực hành dân chủ mà
Người đã rất mẫu mực thực hiện từ ngày đầu thành lập Chính phủ, đến nay vẫn
còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời sự.
Nhờ
có tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết dân chủ với dân vận và đại đoàn kết toàn dân
tộc mà mọi công việc của đất nước đều được giải quyết bằng sức dân, hướng tới
phục vụ lợi ích của dân và cho dân. Và đây chính là ngọn nguồn để Người khẳng
định “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó
khăn”(14).
Di
huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định thực hành dân chủ trong Đảng là “cách
tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(15)
Trong Di
chúc để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến
những vấn đề căn cốt, cơ bản và trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Riêng về vấn
đề thực hành dân chủ, Người nhận định, đây là “cách tốt nhất” nhằm xây dựng và
gia tăng sức mạnh nội lực cũng như sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng.
Người căn dặn: “Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn
kết và thống nhất của Đảng”(16).
Kết
hợp điều đó với những huấn thị trong suốt cuộc đời hoạt động của Người về vấn
đề dân chủ có thể thấy, thực hành dân chủ trong Đảng chính là thực hành nguyên
tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân
chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ
quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng
số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung
ương”(17); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi
hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là
thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến
hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều,
cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là
vừa dân chủ vừa tập trung”(18); “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng
nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nội bộ phải
thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ
và tập thể”(19).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải
quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với tập trung, và theo
đó, phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn
mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với
nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập
trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập
trung”(20). Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về
tư tưởng và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ
như một người”(21).
Như
vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải sâu sắc bản chất của tập trung dân chủ và
coi đó là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng; đồng thời nhấn
mạnh, tập trung và dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố,
luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung phải trên
cơ sở dân chủ; tập thể lãnh đạo phải đi đôi với phân công cá nhân phụ trách.
Tập trung dân chủ bao hàm tập trung và dân chủ.
Hai thành tố đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất với nhau
và tác động, bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ; dân
chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có
thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền
với giữ vững và tăng cường tập trung; trên cơ sở đó, dân chủ càng phát
triển thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi công việc trong Đảng đều phải
được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng
khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp
trên, toàn Đảng phải phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và cao nhất là đại hội
đại biểu toàn quốc của Đảng.
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với
tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ
đối lập với tình trạng tản mát, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật. Dân chủ
là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể được thực hiện một
cách hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng. Tập trung
trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên
quyền. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với
dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật.
Nói
cách khác, tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể
tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ,
có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu
quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch
Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập
thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân
chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Như thế là,
vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của trí tuệ tập
thể. Cần phải bảo đảm tối đa dân chủ trong thảo luận, tranh luận để tìm tòi
chân lý. Khi chân lý đã được tìm thấy thì quyền tự do tư tưởng trở thành
quyền tự do phục tùng chân lý.
Thực
tiễn lịch sử về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản, dẫn đến mất dân chủ trong đảng.
Theo đó, một số nước xã hội chủ nghĩa nghiêng về tập trung quan liêu, thống
nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong đảng, xuất hiện hàng loạt các sai
lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác
lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những sai
lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn hại
nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, cản trở sự phát triển và
là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về chính
trị, kinh tế - xã hội, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của
các nước đó.
Thực
hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay
Trong
quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 94 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì
quan điểm phải thực hành dân chủ, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ,
trong mọi mặt của đời sống chính trị đất nước. Đảng coi đây là nguyên tắc tổ
chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng,
bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ trong
Đảng. Kiên trì thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
xuất phát từ bản chất của Đảng, từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng và từ
kinh nghiệm của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta nhiều lần khẳng
định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng
và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(23).
Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội (Bổ sung, phát triển
năm 2011) nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ
làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Điều lệ Đảng được Đại hội lần
thứ XI thông qua (năm 2011) xác định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất
ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(24). Điều 9 Điều lệ Đảng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”(25).
Nhờ
xác định đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt
đảng, đặc biệt là nguyên tắc thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng
và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với việc thực hiện
nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng,
chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, trong thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng, toàn diện trên tất cả các mặt.
Yêu
cầu, nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay là rất to lớn, nặng nề, đòi hỏi
phải nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Muốn vậy, phải
nhận diện cho đúng và kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó có việc thực hành dân chủ,
nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, như Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra:
“Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có
nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm”(26).
Trong
giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, Đảng nêu cao sự thống nhất ý
chí và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện sự thấm
nhuần tư tưởng và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thực hành dân
chủ trong mọi hoạt động của Đảng. Để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, ngang
tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập
trung dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng trở nên hết sức quan trọng, cấp
thiết, là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến uy tín và năng lực lãnh
đạo của Đảng, quyết định sự thành, bại của sự nghiệp cách mạng.
Có
thể nói, thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay
là một giải pháp quan trọng ở tầm chiến lược để thúc đẩy công tác xây dựng
Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng, Nhà nước và hệ thống chính
trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế
độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho quá trình dân chủ hóa gắn liền với pháp chế
hóa, siết chặt trật tự, kỷ cương xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là một quá trình lâu dài của đổi mới
sáng tạo, là trường học thực tiễn để rèn luyện ý thức dân chủ, văn hóa dân
chủ và tạo ra bước phát triển mới, sự trưởng thành thực sự về ý thức và năng
lực dân chủ của Đảng, của toàn dân ta trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc
tế.
Là
lực lượng lãnh đạo, dẫn đường cho dân tộc, Đảng phải nêu gương thực hành dân
chủ và thực hiện kỷ luật, kỷ cương. Đó là tiền đề để phát huy đầy đủ dân chủ
trong xã hội và giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Theo đó, cần đẩy mạnh thực hành
dân chủ, tích cực phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đẩy mạnh
phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi
phạm dân chủ, coi thường kỷ cương, phép nước.
Trong
thời gian tới, để tăng cường hiệu quả thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung
thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, tiếp
tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh, toàn diện, nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, lập trường, bản lĩnh
chính trị, trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên về thực hành dân chủ và tập trung
dân chủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, thống nhất trong toàn
Đảng và cho mỗi đảng viên nhận thức đúng đắn về nội dung thực hành dân chủ,
nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Tăng cường làm rõ nội hàm về thực hành
dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với từng lĩnh vực, công việc, hoạt
động cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị và công tác xây
dựng Đảng, hệ thống chính trị ở nước ta.
Nguyên
tắc tập trung dân chủ và vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm mà các thế
lực thù địch, phản động luôn ra sức tìm cách xuyên tạc, lợi dụng để chống phá
nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính
trị ở nước ta. Do đó, cần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu
tranh phòng, chống, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ
nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và các hoạt động lợi dụng vấn đề dân
chủ của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam. Muốn vậy, phải
nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý
luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nguyên tắc tập
trung dân chủ, bảo đảm nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ vững chắc.
Thứ hai, hoàn
thiện và thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, các quy định
của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm phát huy trí tuệ của
toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm sự đoàn kết,
thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể
hóa, quy chế hóa việc thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong
từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Cần cụ thể hóa các nội dung cơ
bản của nguyên tắc này đã được nêu trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng
dẫn cụ thể để các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện.
Trong
thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đảng viên phải có dũng khí
và bản lĩnh để đưa ra ý kiến với tinh thần xây dựng, ý thức tự phê bình và phê
bình thẳng thắn, chân thành, trao đổi dân chủ, để đi đến thống nhất trong nhận
thức và hành động trên cơ sở tuân thủ quy định của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Đồng thời, không nên tuyệt đối hóa hay đối lập tập trung với dân chủ.
Phải mở rộng dân chủ mới tạo ra sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ
chính trị; dân chủ phải có tập trung và phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương mới
đem lại hiệu quả thiết thực và tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển xã
hội; dân chủ càng mở rộng, thì tập trung cũng càng phải cao.
Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ
trong tổ chức và hoạt động của Đảng phải gắn với yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đảng
đã ban hành. Chỉ có tập thể lãnh đạo mới khơi dậy được tinh thần dân chủ trong
Đảng, mới huy động được toàn bộ trí tuệ đội tiên phong. Cá nhân phải gắn liền
và ở trong tập thể, luôn có ý thức chịu trách nhiệm trước Đảng và trước nhân
dân; tránh tình trạng “phớt lờ” tổ chức, vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và
lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ để lấn át tập thể, chuyên quyền, độc
đoán, đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, của nhân dân.
Mặt
khác, cần tiếp tục đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu,
cán bộ chủ chốt trong việc tổ chức thực hiện dân chủ và áp dụng nguyên tắc tập
trung dân chủ trong Đảng. Làm rõ và tăng cường trách nhiệm nêu gương của người
đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong thực hành dân chủ và thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình.
Thứ tư, thực
hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Dân chủ trong sinh hoạt của tổ chức đảng phải
tránh được tính hình thức hoặc tiến hành qua loa, chiếu lệ. Thực hiện đúng đắn
và đầy đủ quy định mọi đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng,
phát ngôn và hành động đúng tinh thần trách nhiệm của người đảng viên. Trong
điều kiện mới, nhiều vấn đề quan trọng, mới và phức tạp, thậm chí chưa có tiền
lệ đang đặt ra, đòi hỏi phải xử lý. Mọi quyết định chủ quan, độc đoán, duy ý
chí đều không tránh khỏi sai lầm, đặc biệt là trong những bước ngoặt của cách
mạng.
Để
đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương quan trọng đều phải được bàn bạc
và quyết định tập thể, tuân thủ nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nhưng cho
phép bảo lưu ý kiến. Do vậy, trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, cần định kỳ xem
xét lại ý kiến bảo lưu và coi đây là việc làm thường xuyên để bảo đảm tính đúng
đắn của quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; từ đó, giảm thiểu
những sai sót, lệch lạc, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động
của tổ chức đảng và đảng viên.
Bên
cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng
viên không chấp hành nghiêm các quy định, quy chế về thực hành dân chủ hoặc vi
phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các tổ chức
đảng và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa
phương…
Thực
hành dân chủ và tập trung dân chủ đã trở thành một nguyên tắc tổ chức và hoạt
động cơ bản của Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, sự tồn tại và phát triển
của Đảng và cả hệ thống chính trị gắn bó mật thiết, hữu cơ với việc tuân thủ,
củng cố, phát triển nguyên tắc đó. Điều đó cũng có nghĩa, nếu xa rời hoặc buông
lỏng nguyên tắc ấy sẽ làm cho Đảng mất dần sinh khí, sức mạnh, dẫn tới tha hóa,
biến chất, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do vậy, cần tuân thủ, bảo đảm
thực hành dân chủ rộng rãi và nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm của Đảng ta; kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan
nhượng chống mọi biểu hiện xa rời, buông lỏng, xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân
chủ là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng của
mỗi cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức và hoạt động của Đảng là di huấn quý báu, là ngọn đèn pha soi đường, trở
thành nền tảng tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cho công tác xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh hiện nay./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét